Lê Thương

Bài giảng tại Tu viện Lộc Uyển của Thầy chúng tôi – Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Biển sau giông tố

Kính mời quý vị, chúng ta cùng thở. Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống, thở ra tôi trân quý sự sống nhiệm màu. Sở dĩ tôi mời quý vị cùng thở và trân quý sự sống vì hôm nay tôi muốn mời quý vị “gặp gỡ” cố nhạc sĩ Lê Thương và tác phẩm Biển sau giông tố của ông. Biển sau giông tố là một sáng tác của Lê Thương mà ở Việt Nam chưa có ai biết đến. Đây là lần đầu tiên chúng ta được biết tới bài hát này. Bài hát nói về những cảm xúc của nhạc sĩ Lê Thương đối với đồng bào đã tử nạn dưới biển khơi. Con số các thuyền nhân gặp nạn, chết chìm dưới đáy biển có thể lên tới hơn bảy mươi lăm ngàn (75.000) người. Câu chuyện thảm kịch của thuyền nhân chưa có một tác phẩm nào có thể nói lên được. Hôm nay cũng là ngày chúng ta tưởng niệm những thuyền nhân chết dưới biển, các vị ấy cũng đang có mặt với chúng ta tại tu viện Lộc Uyển. Lát nữa, chúng ta sẽ thắp một nén nhang để tưởng niệm những đồng bào đã không may mắn vượt qua được bờ bên này như chúng ta và đã chết tăm tối, khổ đau, tuyệt vọng dưới lòng đại dương.

Hôm nay cũng là ngày của cố nhạc sĩ Lê Thương nên mình phải để cho Lê Thương “nói trước”. Riêng tôi thì thấy Lê Thương đang có mặt với chúng ta một cách rất thiết thực. Mấy ngày hôm nay, các thầy, các sư cô đã tập bài hát Biển sau giông tố. Và chúng ta cũng may mắn có chị Ngô Thị Liễu Thu con gái của cố nhạc sĩ Lê Thương hiện cũng đang có mặt ở đây.

Chúng tôi nhận được bài nhạc Biển sau giông tố của nhạc sĩ Lê Thương vào đầu năm 1980. Lê Thương sợ bị kiểm duyệt nên phải gửi riêng từng tờ một. Cứ một trang nhạc Lòng mẹ Việt Nam (Bà Tư bán hàng có bốn người con…) lại một trang Biển sau giông tố, rồi lại một trang nhạc và ba bốn trang thơ nói chuyện không dính gì đến thuyền nhân cũng như giông tố nhận chìm bao nhiêu đồng bào trên biển. Nhưng chúng tôi đã nhận thư nhiều lần và ráp được đầy đủ cả. Trên bản đính kèm là dòng chữ viết nhạc và lời của Lê Thương.

Đây là một trang nhạc Biển sau giông tố viết cho thuyền nhân mà Lê Thương phải chép kẹp giữa bài Lòng mẹ Việt Nam, đang nửa bài Lòng mẹ Việt Nam thì chen vào Biển sau giông tố rồi lại tiếp tục bài Lòng mẹ Việt Nam.

Niềm tuyệt vọng là kẻ thù lớn nhất của con người. Khi chúng ta lâm vào tình thế tuyệt vọng rồi thì không thiết sống nữa. Một bài hát của Trịnh Công Sơn có câu: “có điều gì gần như niềm tuyệt vọng”. Gần như niềm tuyệt vọng thôi, nghĩa là Trịnh Công Sơn cũng đang mấp mé tới cái hố của sự tuyệt vọng rồi. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng đã từng bước tới cái bờ mé của niềm tuyệt vọng, nhưng nhờ phúc đức của Tổ tiên nên chúng ta đã vượt thoát được.

Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ biết bao nhiêu người cảm thấy mình đang ở trong niềm tuyệt vọng, cho nên cố mở một con đường để thoát thân. Và rất nhiều người đã nghĩ con đường đó là đại dương. Tại vì đại dương hứa hẹn tự do, hứa hẹn tương lai. Cho nên Lê Thương viết: “Xa xôi muôn hướng nước xanh Thái Bình Dương. Mở nghìn muôn lối đường dẫn ra tới ngàn phương.” Đó là niềm hy vọng mới. Niềm hy vọng đó do biển cống hiến vì vậy mà nhiều người đã bỏ nhà, bỏ quê hương, bỏ đất nước, bỏ mồ mả tổ tiên để ra đi. Nhưng khi ra đi chúng ta gặp cái gì? Chúng ta gặp bão tố. Có những gia đình chết trọn dưới đáy biển.

Lê Thương đã được nghe nói rất nhiều về những thảm trạng xảy ra ngoài biển. Lê Thương có một trái tim đầy xúc cảm và ông đã nói được thay cho đồng bào, nói được thay cho tất cả những nạn nhân của biển trong bài hát Biển sau giông tố. Theo tôi, đây là một tác phẩm lớn, một tác phẩm có thể nói lên được niềm đau của cả một dân tộc. Biến cố thuyền nhân chết trên biển là một biến cố rất lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bảy mươi lăm ngàn người chết dưới đáy biển là một niềm đau rất lớn, là một vết thương còn mãi mãi với dân tộc. Chúng ta phải làm thế nào để có thể học được những bài học từ những đau thương ấy. Các thầy, các Sư cô Làng Mai đã hát bài hát này không phải như những ca sĩ chuyên nghiệp nhưng bằng trái tim biết cảm thông. Lê Thương là một người có trái tim rất lớn nên đã cảm được, nói lên được những niềm đau, nỗi khổ đó thay cho tất cả chúng ta. Tôi nghĩ đây là một tác phẩm lớn, so với Hòn Vọng Phu có thể nó quan trọng hơn nhiều.

Xa xôi muôn hướng

Nước xanh Thái Bình Dương 

Mở nghìn muôn lối đường 

Dẫn ra tới ngàn phương.

Đó là niềm hy vọng. Niềm hy vọng để cứu mình ra khỏi niềm tuyệt vọng. Tại vì trong tình trạng đó, hàng triệu người không thấy được con đường tương lai cho mình và con cháu mình. Nhưng khi mình nghe theo tiếng gọi hấp dẫn của trùng dương thì mình sẽ gặp những khó khăn nào?

Mênh mông biển cả, gió cắn xé ngàn.

Gió nó cắn, gió nó xé mình.

Xa xôi nghìn ngả đang trôi phũ phàng. 

Mênh mông chìm nổi xa xôi mệt mỏi 

Mây sâu giông tố đang biến tan 

Thương ba quằn quại

Như con vật dại

Chưa nguôi cơn giận dữ xa ngàn.

Thương ba tức là sóng màu xanh. Những đợt sóng xanh quằn quại như là con quái vật hoang dại bị người ta lấy ra khỏi núi rừng của nó.

Biển là quán gió 

Chiêu hồn tha hương.

Đây là một chiêu hồn ca, đây là một bài kinh cầu nguyện gọi hồn. Phải thấy bài này như vậy mới được.

Biển còn chứa chan 

Ước vọng kinh hoàng 

Lạnh lùng thấu đáy.

Biển rất lạnh lùng. Lạnh lùng tới tận đáy biển.

Biển cười chua cay 

Theo bao duyên ba đào 

Biển còn sóng gió

Biển còn xa xôi.

Nơi thăm thẳm vừa mênh mông 

Vừa sóng gió, vừa bão tố

Tâm can biển vừa thâm u, 

Vừa tối ám ngàn thu

Mỗi lớp cồn đợt sóng 

Đem theo một hoài mong

Của mỗi một sinh kiếp đã bị vực sâu chôn vùi.

Nơi nham hiểm mà uy nghi 

Mà du dương mà quyến luyến.

Biển rất nham hiểm, biển rất độc ác, nhưng biển rất khêu gợi và quyến rũ vì vậy cho nên ta đã nghe lời của biển để rồi chết dưới đáy biển.

Ai nuôi mộng biệt ly 

Đứng bến chờ làm chi.

Ai quyết định bỏ quê hương, đất nước, bỏ mồ mả ông bà mà đi? (ai nuôi mộng biệt ly). Còn những người kia, đứng bến chờ làm chi? Biết người ta có tới được hay không, hay là người ta chết ở giữa đường, ở dưới biển.

Xa xăm vời vợi xa xăm 

Tàu vượt đi không về.

Lênh đênh bào ảnh 

Xé xác cuối ngàn.

Thân mình bị xé ra thành từng mảnh, chiếc thuyền của mình bị đập tan thành từng mảnh.

Văng trôi mỏng mảnh 

Tràn lan đuối tàn 

Lênh đênh bọt nổi 

Văng trôi mệt mỏi 

Lạc loài vô cố

Trên sóng nâu. 

Thương ba mệt lả 

Thân xanh mềm ngả

Như không gian thần nữ khẩn cầu

Lựa từng tiếng sóng 

Cho người mê ly

Biển dòng dã theo số phận ly kỳ.

Mình không biết số phận mình rồi sẽ về đâu. Mình không biết cái trụ điểm của mình.

Giận hờn chán ngán 

Đem lời kêu van 

Trong dã tâm ba đào 

Còn nhiều sóng gió 

Còn nhiều gian nguy.

Nơi thăm thẳm 

Vừa mênh mông 

Vừa sóng gió 

Vừa bão tố

Tâm can biển vừa thâm u 

Vừa tối ám ngàn thu

Mỗi lớp cồn đợt sóng 

Đem theo một hoài mong

Của mỗi một sinh kiếp 

Đã bị vực sâu chôn vùi.

Nơi nham hiểm 

Mà uy nghi

Mà du dương 

Mà quyến luyến

Ai nuôi mộng biệt ly 

Đứng bến chờ làm chi 

Xa xăm vời vợi xa xăm 

Tàu vượt đi không về.

Năm 1968 tôi được đức tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất là hoà thượng Thích Tịnh Khiết uỷ nhiệm cho thành lập một phái đoàn Phật giáo Việt Nam để có mặt tại Hội nghị Hoà bình ở Paris. Tại vì trong Hội nghị Hoà bình Paris có các phe lâm chiến tham dự, nhưng không có tiếng nói của người dân. Giáo hội muốn nói được tiếng nói của người dân, vì vậy Phái đoàn Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Phái đoàn Hoà bình ) được thành lập tại Paris năm 1968, ban đầu đặt trụ sở ở Maisons Alfort, ngoại ô Đông Nam Paris, sau chuyển về Paris số 11 Rue de la goutte d’or, Paris 18. Chúng tôi cung cấp cho các giới nhân bản, các giới tôn giáo, các giới báo chí, các giới chính trị những tin tức mà hai phe lâm chiến không cung cấp. Đó là những đau khổ, những áp bức, tuyệt vọng của người dân. Đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là không muốn đất nước bị tan tành bởi một cuộc tranh chấp giữa hai phía. Không muốn có chuyện anh em một nhà bôi mặt đá nhau. Đó là đường hướng mà đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết ban bố. Chúng tôi làm việc từ năm 1968 cho đến năm 1974-1975. Trong quá trình hoạt động đó, chúng tôi đã kết thân được với rất nhiều người bạn ở Tây phương, châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Họ đã yểm trợ cho chúng tôi trong công tác vận động để làm vơi bớt những đau khổ ở bên nhà.

Chúng tôi nhớ là trong thời gian đó, chúng tôi đã tìm được người bảo trợ cho trên tám ngàn (8.892) em bé mồ côi ở Việt Nam. Chúng tôi không thiết lập những cô nhi viện, cũng không gửi tiền về các cô nhi viện vì nhiều nhà hảo tâm trong và ngoài nước vẫn ghé và giúp đỡ. Chúng tôi biết còn rất nhiều những trẻ mất hết mẹ cha nhưng may mắn còn được sống với bà hay với người cậu, người dì… Năm 1973 sau khi Hoà ước chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký kết, quý hoà thượng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (hoà thượng Thiện Hoà, hoà thượng Thiện Minh và hoà thượng Huyền Quang) thành lập Uỷ ban Tái thiết và Phát triển Xã hội và kêu gọi tăng ni trẻ đứng ra lo cho trẻ em cô nhi bất hạnh nên quý sư, Sư cô đã tự đứng ra lập trên 57 nhà giữ các trẻ từ 20 tháng đến 5 tuổi từ sáng tới chiều bằng sự đóng góp của Phật tử trong nước. Quý Sư cô cho các cháu tập vẽ, tập hát, học chữ hay tập đọc. 11 giờ rưỡi cho các cháu ăn trưa, chiều chơi hát và học vài chữ rồi về lại nhà, vì gia đình quá nghèo phải đi bán buôn suốt ngày không chăm sóc được các em. Trong các cháu ấy cơ cực nhất là các cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ đang ở với bà nội hay bà ngoại già nua mà phải đi bán khoai bán chuối nuôi cháu. Qua các tác viên xã hội khắp nơi trong đất nước và qua những nhà giữ trẻ ấy, chúng tôi tìm tới nhà một người thân của các bé mồ côi như ông chú, bà cô, người cậu hay dì và khuyến khích gia đình nuôi cháu mồ côi ấy, cho bé ăn uống đủ chất bổ hơn. Chúng tôi sẽ trao cho họ số tiền của ân nhân bên này bảo trợ cho bé để bé sẽ tiếp tục được sống với người thân trong một không khí gia đình mà không là gánh nặng của chú thím hay dì cậu. Mỗi em mồ côi như vậy được cung cấp khoảng 5 dollar mỗi tháng để có đủ tiền ăn học. Những tác viên của chúng tôi tới thăm những gia đình ấy mỗi ba tháng một lần, phát tiền của người bảo trợ bên này và xem em bé mồ côi kia có được nuôi ăn học đàng hoàng hay không. Nếu em bé không được đối xử tốt thì chúng tôi sẽ tìm cho em bé một gia đình khác khá hơn.

Phái đoàn của chúng tôi ở Paris có rất nhiều người trẻ tới từ nhiều nước khác nhau: Hà Lan, Anh, Mỹ, Úc, Thuỵ Sĩ,… Họ ở và làm việc với chúng tôi mà không nhận lương. Chúng tôi đã làm việc với nhau trong tinh thần thân ái như vậy. Chúng tôi dịch những hồ sơ cô nhi nhận được từ các tỉnh, các quận, rồi chúng tôi đi tìm những nhà bảo trợ. Những ngày cuối cùng tháng 4 năm 1975, chúng tôi đã tìm ra thêm nguồn để có thể bảo trợ được gần 14.000 em bé mồ côi. Có rất nhiều trường hợp trong đó 5 dollar không phải chỉ dành riêng cho các cô nhi được bảo trợ. Tại vì gia đình đó nghèo khổ, những đứa trẻ con ruột của họ cũng gặp khó khăn, cho nên 5 dollar ấy được chia ra cho cả những đứa trẻ khác trong gia đình. Như vậy là 5 dollar đó không chỉ giúp cho em bé mồ côi mà còn giúp cho cả gia đình nhận nuôi em bé ấy.

Trong quá trình vận động đó, chúng tôi đã tiếp thân với rất nhiều người trong giới tôn giáo, trong giới nhân bản, trong giới trí thức. Nhưng sau năm 1975, tất cả những công tác giúp đỡ cho quê nhà của chúng tôi bị chấm dứt hết. Lúc bấy giờ ở Việt Nam, tất cả các cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như trường đại học, trường trung học, tiểu học, bệnh xá, các cô nhi viện bị đóng cửa 100%. Bên này chúng tôi đành bó tay, không có cách nào giúp được cho bên nhà. Bên nhà bị lâm vào tình trạng tuyệt vọng nhưng bên này chúng tôi cũng tuyệt vọng. Mình có hai tay mà mình không làm được gì để giúp đồng bào mình ở bên nhà. Trong hoàn cảnh đó chúng tôi không biết phải làm sao. Sau đó, chúng tôi ngồi thiền, đi thiền hành và cuối cùng tìm ra được một vài công tác để có thể tiếp tục giúp đỡ đồng bào trong nước và những công việc ấy cũng giúp chúng tôi trấn áp được niềm tuyệt vọng cứ muốn kéo chúng tôi đi.

Tìm con đường mới

Lúc ấy ở bên nhà, các văn nghệ sĩ, các nhà trí thức, các nhà nhân bản, tu sĩ và doanh thương cũng lâm vào tình trạng bế tắc. Không tìm được lối thoát nên nhiều người đã đi tìm niềm hy vọng bằng cách vượt biên. Trong giai đoạn đó, tại một buổi sinh hoạt giữa các anh chị em, chúng tôi nhận thấy rằng trong lúc tuyệt vọng chúng tôi phải trở về tu tập để tìm ra một con đường mới. Vì vậy chúng tôi đã từ giã Paris để trở về trung tâm tu học của chúng tôi tại một miền quê cách Paris chừng 150 km. Trung tâm đó có tên là Phương Vân Am (các bạn Tây phương thường gọi là Les Patates Douces – The Sweet Potatoes). Chúng tôi trở về quyết tâm tu tập, để chữa lành vết thương trong mình và để tìm ra một con đường mới.

Trong khi tu tập, quán chiếu, chúng tôi quyết định là tuy chúng tôi không giúp đỡ được cho hàng chục ngàn trẻ mồ côi, cho người già, cho các trường học và hàng trăm dự án giúp cho đồng bào tỵ nạn chiến tranh, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có khả năng giúp cho giới học giả và văn nghệ sĩ ở quê nhà. Tại vì giới văn nghệ sĩ và học giả có thể nói lên được tiếng nói của trái tim, của dân tộc. Và chúng tôi đã tìm ra một phương pháp. Cách của chúng tôi là gửi quà cho mỗi văn nghệ sĩ một năm ba hoặc bốn lần. Những gói quà đó có thể giúp họ vượt qua khó khăn để tiếp tục đi tới. Để tránh bị theo dõi, chúng tôi quyết định chỉ gửi từng gói quà nhỏ 1 kg về Việt Nam thôi. Chúng tôi biết rằng cái quý nhất ở Việt Nam lúc đó là thuốc tây. Vì vậy chúng tôi đã mua những loại thuốc tây đắt tiền để gửi về.

Thứ nhất, thuốc này có thể chữa bệnh cho những người trong gia đình của những văn nghệ sĩ đó. Thứ hai, thuốc ấy cũng có thể bán đi lấy tiền mua gạo, mua thức ăn. Đây không phải là công việc xã hội. Đây là một công việc có nhiều mặt, tại vì nhân cách của giới văn nghệ sĩ rất cao. Họ không muốn nhận bố thí từ người khác. Vì vậy, chúng tôi đã đóng vai là những độc giả ngưỡng mộ họ. Khi chúng tôi gửi một món quà như vậy thì chúng tôi phải gửi thêm một lá thư, lá thư đó chứng tỏ là người viết rất trân quý, rất thán phục những tác phẩm của họ và nói rằng nhờ họ mà người viết lớn lên được. Họ đã nói ra được bằng trái tim của họ những cái hay, cái đẹp, nói lên được những nỗi niềm của dân tộc, của tổ tiên. Chúng tôi cũng nói rằng, món quà này chẳng qua chỉ là sự chứng tỏ lòng biết ơn của chúng tôi với nhà văn, nhà nghệ sĩ đó mà thôi. Chúng tôi muốn viết những bức thư ấy như thế nào để nghệ sĩ kia cảm thấy là họ có người hiểu, họ có người thương, điều ấy khiến cho họ có ý chí muốn sáng tác trở lại. Tại vì có thể nói tới 99% văn nghệ sĩ trong môi trường đó, trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ hoàn toàn tê liệt, không thể sáng tác được một cái gì hết. Họ hoàn toàn bị niềm tuyệt vọng trấn ngự. Họ không thấy tương lai đâu hết cho nên họ không thể sáng tác được.

Hồi đó tôi làm cố vấn cho các cô, các chú trẻ viết thư. Trung tâm tu tập của chúng tôi tại Phương Vân Am có rất nhiều người trẻ, trong đó có cả Sư cô Chân Không. Hồi ấy Sư cô Chân Không mới chỉ khoảng ba mươi hai tuổi thôi. Chúng tôi cùng ngồi thiền, cùng làm việc với nhau trong chánh niệm. Tôi cố vấn cho các bạn trẻ cách viết thư vì tôi biết được những tác phẩm của những nhà văn nghệ sĩ kia. Tôi hướng dẫn cho họ cách viết làm sao để cho người nhân sĩ đó thấy được rằng: Chà, cái bọn trẻ này nó hiểu mình khá sâu sắc, mình có người hiểu ở ngoại quốc thì tại sao mình phải tuyệt vọng. Rốt cuộc, những người trẻ trong cộng đồng của tôi đã gây được cảm hứng cho một số đáng kể trong những văn nghệ sĩ ấy. Nhiều người trong số họ đã bắt đầu sáng tác trở lại.

Hồ Dzếnh là một thi sĩ đã sáng tác trở lại sau khi nhận được thư và quà của chúng tôi. Lê Thương cũng là một người như vậy. Lê Thương cũng là nạn nhân của sự tuyệt vọng. Trong những lá thư gửi cho chúng tôi, Lê Thương đã tả rõ hoàn cảnh xã hội thời đó và tình trạng của các anh chị em văn nghệ sĩ khó khăn như thế nào. Lê Thương viết cho chúng tôi nhiều lắm, có thể in thành một tập sách dày ít nhất một trăm năm mươi trang. Đó là những tư liệu về văn học rất quý giá, khi điều kiện thuận lợi, chúng tôi sẽ công bố.

Giống như các thi sĩ, văn sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ khác, Lê Thương cũng phải phấn đấu để vượt thoát niềm tuyệt vọng của mình. Đây là một đoạn mà Lê Thương viết cho Phương Hương, một em gái hậu phương nâng đỡ tinh thần cho người chiến sĩ tiền tuyến trong mặt trận văn nghệ: “Tôi không muốn nói tới những lúc khóc thầm trong đêm tối một mình, cả đến những u buồn diệu vợi khi chợt nghĩ đến tương lai còn mờ mịt, vì tôi vẫn còn giữ vững được niềm tin và sức sống bền bỉ trong đêm, hằng không muốn tự tiêu diệt bằng nản chí. Khi thấy lòng càng ngày càng cô đơn giữa đám đông nhộn nhịp thì chỉ cần lá thơ nhỏ như lá thư của em là đủ làm sống dậy bao nhiêu hy vọng đẹp ngổn ngang và thấy ngày mai vẫn còn đáng sống.”

Đó là những tâm sự ông viết sau khi đã đọc một lá thư của Phương Hương. Phương Hương là một người trẻ trong cộng đồng của chúng tôi và tôi là cố vấn cho Phương Hương. Thành ra Lê Thương đâu có biết rằng trong Phương Hương có thầy Nhất Hạnh.

Đây là bức hình biển và trời và những cành khô trụi lá Lê Thương gửi cho chúng tôi. Lê Thương viết bên sau bức bưu thiếp:

“Hình này tôi chụp ở Vũng Tàu từ gần hai mươi năm nay, lúc máy Contaflex còn tốt. Thấy nó hạp với tâm sự khá ảm đạm, nên xin tặng Phương Hương với cảm đề đột ngột. Mong nó nói được tâm sự không quá tệ:

Lòng tôi u ám như mây đó 

Phủ kín miền xa lấp chân trời 

Biển lặng trầm tư chờ giông gió 

Cành héo xác xơ vẫn chờ tươi”

(Chữ ký Lê Thương)

Lê Thương viết tiếp: “Tôi đang xé bỏ bao giấy cũ, hình cũ, bài cắt báo cũ gồm thơ văn rải rác vì thấy đời nặng chĩu những kỷ niệm không còn thấy hợp cảnh. Xé mãi mà cũng không phải là không đau lòng. Có lúc muốn xé cả mình mà không biết làm cách nào, đành tức cười mà chui đầu, vùi mặt vào Số Mệnh. Số Mệnh hắt tay ra và mắng: Đừng có ba trợn, phấn đấu tiếp đi ông nội. Thì phấn đấu vậy.”

Thư của Lê Thương

Đối với Doãn Quốc Sĩ thì người đi tới với Doãn Quốc Sĩ là cô Chín và dì Năm. Và quý vị có biết dì Năm là ai không? Là thầy Nhất Hạnh. Sau này, khi biết dì Năm là thầy Nhất Hạnh thì Doãn Quốc Sĩ đề nghị dì Năm đổi tên thành cô Năm.

Nhà học giả Đào Duy Anh rất cô đơn. Trong tình trạng đó có một người tự xưng là cháu, tên là Đào Thị Mây gửi quà qua cùng với những bức thư nói lên niềm khát vọng và kính ngưỡng của mình đối với bậc học giả đó. Đào Thị Mây lại là một hoá thân khác của đức Quan Thế Âm.

Thành ra Đào Thị Mây, cũng như cô Chín, dì Năm, Angelina hay Phương Hương đều là những hoá thân của đức Bồ tát Quan Âm. Chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều thư của các văn nghệ sĩ bên nhà. Có nhiều người cho chúng tôi biết rằng họ đã có thể bắt đầu sáng tác trở lại. Niềm vui đó không phải chỉ để cho họ mà còn cho tất cả chúng tôi. Tại vì khi mình gây được cảm hứng cho một nhà văn, nhà thơ, nhà học giả làm việc trở lại thì việc đó đem lại cho mình quá nhiều hạnh phúc.

Có một lần, Nhà xuất bản Lá Bối của chúng tôi ở hải ngoại xuất bản một tập sách trong đó có những sáng tác của các văn nghệ sĩ quốc nội gửi ra. Đó là tập Tắm mát ngọn sông Đào, gồm những bài văn của các nhà văn như Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thuỷ… Hôm qua tôi ngồi nhớ lại xem những người nào đã được Phương Hương, Đào Thị Mây… tiếp xúc thì tôi tìm ra được một cái danh sách, danh sách này không đủ, nó mới chỉ có:

Nhà cách mạng uyên bác Đào Duy Anh, thi sĩ Hoàng Cầm, thi sĩ Hồ Dzếnh, nhạc sĩ Lê Thương, Vũ Đức Duy (qua con gái Vũ Thị Dạ Thảo), nhà văn Bình Nguyên Lộc, nhà văn Võ Hồng, hoạ sĩ Trọng Nội, nhà văn Duyên Anh, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhạc sĩ Vĩnh Phan, hoạ sĩ Minh Đăng Khánh (mất ngày 25 tháng 2 năm 1981), nhà văn Trần Phong Giao, học giả Nguyễn Đăng Thục (hồi cụ chưa được con gái bảo lãnh sang Pháp), học giả Giản Chi, nhà văn và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, triết gia Nguyễn Sĩ Tế, nhà văn Hoàng Hải Thuỷ, nhà văn Nhã Ca, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, thi sĩ Trụ Vũ, nhà trào phúng (hề) Khả Năng, nhà thổi sáo tuyệt vời Nguyễn Đình Nghĩa, nhà bình luận gia Lý Đại Nguyên, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn (gửi qua bà Đỗ Thị Hải), nhà văn Lê Xuyên, thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, nhà văn Vĩnh Hảo (tác giả Thiên thần quét lá), Nguyễn Cường, Thế Uyên, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, nhạc sĩ Ngô Nhật Thanh.

Ở tại Phương Vân Am chúng tôi làm việc như một tăng thân, chúng tôi yểm trợ các văn nghệ sĩ đó không phải bằng vật chất mà bằng trái tim của chúng tôi. Cố nhiên là chúng tôi có phương tiện, có bạn bè để giúp chúng tôi gửi thuốc men cho các vị đó. Nhưng chúng tôi biết cái đó không đủ nên chúng tôi đã đem trái tim của chúng tôi ra để nuôi những trái tim của các văn nghệ sĩ bên nhà. Dù sao thì họ cũng đại diện cho tiếng nói của dân tộc. Đây là một đoạn thư của Phương Hương viết cho Lê Thương:

“Anh Lê Thương, trong thư anh có một câu làm cho em mừng hết lớn, đó là câu nói anh bắt đầu sáng tác trở lại vì anh đang có những nguồn cảm hứng mới. Anh Lê Thương, em biết rằng thiên tài của anh, tâm tư của anh, cái nhìn của anh về cuộc đời và con người, tất cả những thứ ấy đã vững chắc và chín muồi nơi anh. Em nghĩ những sáng tác mới của anh chắc chắn sẽ vượt thoát được những buồn vui, mừng giận tầm thường và sẽ thanh thoát như mây bay, hùng vĩ như những cây đại thụ.

Ngay từ trong Hòn Vọng Phu em đã cảm thấy chất liệu thời gian của anh khác thường rồi. Anh đã từng sống qua nhiều giai đoạn của lịch sử cận đại, anh đã chứng kiến bao nhiêu biến thiên, chắc chắn anh sẽ không chịu để cho cái ngục tù thời gian giam hãm anh đâu. Tác phẩm của anh sẽ như một con chim lớn vỗ cánh bay cao tại vì vùng trời tâm linh của anh không có bờ bến, không bị thời gian và không gian giam hãm.

Có một lần em thấy một cây tùng hùng vĩ xanh tươi mọc cheo leo trên một sườn núi đá khô cằn. Em thấy cây tùng đó rút sinh lực không phải chỉ ở phần đất cát và đá khô cằn ở sườn núi, mà còn ở những dòng nước đi sâu hàng trăm thước trong lòng đất và nhất là ở mặt trời và các ngôi sao lớn khác trong vũ trụ bao la. Anh Lê Thương, anh là một nghệ sĩ có kích thước lớn như vậy đó. Anh không cần những chất liệu bổ dưỡng tầm thường của những loài cây cỏ tầm thường. Em đã đọc phiên khúc bốn của bài Lòng mẹ Việt Nam, Tâm sự ca nhân em cũng đã đọc. Em nghe những bài nhạc đó mà cảm thấy ấm cả lòng. Em cũng từng trải qua sự nghèo khổ, và em cũng biết rằng đói uống nước lạnh mà ôm nhau ngủ để quên còn sung sướng hơn là giàu thịnh mà chia cắt nhau như những hòn đảo lạnh. Đối với anh, em chỉ như một ngôi sao xa mờ nhạt cách anh có tới ba trăm triệu năm ánh sáng. Em không có đủ ánh sáng bằng một con đom đóm để cho anh đọc sách nhưng em hy vọng em có thể nhắc anh nhớ rằng vũ trụ và thời gian thật bao la và anh thuộc về vũ trụ ấy chứ không phải chỉ thuộc về một mảnh thời gian và không gian bé nhỏ.”

Đó là những lời viết cho Lê Thương, và những lời viết cho các văn nghệ sĩ khác cũng tương tự như thế để cho những người nghệ sĩ có niềm tin nơi tài năng của họ, để họ có niềm hy vọng mà vượt thoát niềm tuyệt vọng kia. Đoạn văn này chứng tỏ là Phương Hương hiểu được Lê Thương và mong Lê Thương sống và sáng tác mạnh để cho thế hệ trẻ được nhờ. Những lời ấy làm cho người nghệ sĩ vươn tới một chân trời cao rộng hơn, mà không bị tù túng trong cái chế độ kinh tế chính trị của xã hội thời đó.

Nhà văn Duyên Anh đang sống tuyệt vọng trong một trại học tập cải tạo thì một ngày nọ, bà Duyên Anh cùng con tới thăm và kể chuyện rằng bỗng đâu trong đời mình xuất hiện một bà tiên gửi quà, gửi thư an ủi, khuyến khích. Trong trại học tập cải tạo, vào lúc tâm hồn đang trĩu nặng, xâm chiếm bởi niềm tuyệt vọng thì nhà văn Duyên Anh nghe được tin đó. Nhà văn Duyên Anh biết được rằng, trong lúc mình bị tù đầy thì có một người phụ nữ tên là Angelina Nguyễn đã xuất hiện và chăm sóc cho gia đình mình. Đó là một phân thân khác của tăng thân. Phương Hương là một cái tên, Angelina là một cái tên khác vì đây là hạnh nguyện của đức Bồ tát Quan Thế Âm hiển hiện ra muôn ngàn thân để với tới muôn ngàn tình thương.

Đây lại là một đoạn thư của nhà văn Duyên Anh viết cho Angelina:

“Tôi được hân hạnh biết cô từ dạo Giáng Sinh năm 1977 (chương trình gửi quà của chúng tôi bắt đầu từ năm 1976). Hồi đó tôi ở T20, nhà tôi và các cháu đến thăm hoan hỉ báo tin mừng là được cô tận tình giúp đỡ. Rồi tôi được chuyển qua T30, lưu đầy khá nhiều nơi và nơi nào tôi cũng nghĩ tới cô. Nghĩ đến cô cơ hồ đứa trẻ côi cút nghĩ tới những người đã dành phần cơm chờ mình ngang qua cửa. Cuộc đời không bao giờ có cảnh tượng cảm động đó nhưng mà rốt cuộc nó vẫn có. Thưa cô Angelina, cô là ông Bụt trong chuyện cổ tích Tấm Cám, cô là Phật Bà Quan Âm. Nước mắt của người vợ thương chồng, của những đứa con nhớ cha đã làm sống dậy cổ tích, đã đắp lên gia đình đơn lạnh của tôi một tấm chăn ấm áp tình người. Tôi chẳng thể nào quên tấm lòng tốt của cô, xin cô ghi nhớ.”

Duyên Anh đã nói rằng trong cuộc đời của Duyên Anh thì Angelina hiện ra như Bụt trong truyện Tấm Cám. Đó không phải là truyện cổ tích. Đó là chuyện có thật. Duyên Anh không phải là Phật tử nhưng trong trại học tập cải tạo Duyên Anh đã lấy một cái dùi sắt và một tấm ván để khắc một tượng Phật nhỏ xíu chờ dịp gửi qua cho Angelina.

Tượng Phật bằng gỗ mun do Duyên Anh khắc

Nghệ sĩ hề Khả Năng cũng vậy, Khả Năng đã lấy một mảnh bom trong rừng và khắc thành một chiếc lược để gửi cho Phương Hương.

Mở hộp ra là một chiếc lược làm từ mảnh bom, trên có khắc chữ:

mến tặng Phương Hương

Mở hộp ra là một chiếc lược làm từ mảnh bom, trên có khắc chữ: mến tặng Phương Hương

Hoạ sĩ Minh Đăng Khánh cũng gửi cho chúng tôi những tác phẩm của mình. Tài liệu của những văn nghệ sĩ, những tác phẩm của họ chúng tôi còn cất giữ nhiều lắm, có dịp chúng tôi sẽ công bố những tài liệu ấy để đồng bào biết được sự sống, tài năng và quyết tâm vượt thoát niềm tuyệt vọng của họ.

Tại Phương Vân Am chúng tôi chăm lo cho rất nhiều văn nghệ sĩ ở quê nhà, nhưng những văn nghệ sĩ kia thì cứ nghĩ rằng chúng tôi chỉ lo cho một mình họ. Vì vậy họ chờ đợi những lá thư như lá thư chúng tôi viết kèm theo hộp quà. Theo Lê Thương, mỗi lần Phương Hương gửi cho Lê Thương một lá thư thì đó là một liều thuốc bổ. Những người nghệ sĩ cần nguồn thuốc bổ đó. Cố nhiên là gói quà cũng cần thiết, nhưng lá thư cũng rất cần thiết. Và lỗi của chúng tôi là đã không viết được nhiều những bức thư như vậy, tại vì số văn nghệ sĩ mà chúng tôi liên lạc đông quá. Vì vậy mà có lần anh Lê Thương đã giận vì lâu ngày chúng tôi chỉ gửi quà mà không gửi thư. Đã hơn ba lần trong lá thư của mình Lê Thương chứng tỏ rằng mình giận. Tại vì mỗi lần gửi quà chúng tôi đều viết những lời chỉ dẫn rất cặn kẽ về cách sử dụng những gói quà này và giá trị của từng món trong gói quà để khi đem bán đừng bị người ta lừa, nhưng lại không có những lá thư khích lệ như trước. Trong khi ấy người nghệ sĩ thì lại rất cần những lá thư kia và họ đòi ít nhất ba tháng một lần phải có một lá thư như thế. Nhưng mà chúng tôi không có đủ sức để làm chuyện ấy cho nên có người đã giận và một số văn nghệ sĩ khác đã hờn. Chúng tôi cũng đành chịu thôi. Quà thì gửi rất đều, chuyện đó không khó, nhưng viết những lá thư như vậy thì phải có thời gian và nhất là phải có “cố vấn” mới làm được.

Nhạc sĩ Lê Thương có một nhân cách rất cao, một người có kiến thức rất vững chãi về âm nhạc Đông Phương. Trong những năm đó Lê Thương đã bắt đầu biên tập một tác phẩm vĩ đại gọi là Âm nhạc sự điển. Lê Thương đã nghiên cứu về âm nhạc châu Á trong vòng ba mươi năm và đã muốn làm tác phẩm đó để nói về tinh thần và kĩ thuật âm nhạc châu Á. Tác phẩm đó gồm khoảng ba ngàn mục. Mỗi mục như vậy có thể dài khoảng từ bảy tới mười lăm hàng. Lê Thương đã làm việc mỗi ngày, có khi thức tới hai giờ rưỡi sáng để đánh máy. Lê Thương đã ngỏ ý là sẽ gửi công trình đó qua cho chúng tôi cất giữ và xuất bản. Hy vọng một ngày nào đó chúng tôi sẽ làm được điều mà Lê Thương muốn chúng tôi làm.

Lê Thương sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại Nam Định, vào Nam năm 1941 và sáng tác Hòn Vọng Phu 1 năm 1945. Hòn Vọng Phu 2 và Hòn Vọng Phu 3 được sáng tác từ năm 1945 đến 1947. Nhạc sĩ Lê Thương suýt chết ở gần quận Bình Đại Bến Tre vì bị Tây ruồng. Hồi đó Lê Thương đã sáng tác Hòn Vọng Phu 1 rồi. Đi theo Lê Thương có rất nhiều học sinh của trường Petrus, đi đâu mấy anh chị em họ cũng hát ca để làm sống dậy tinh thần yêu nước của đồng bào. Họ đi từ làng này sang làng khác, từ quận này sang quận khác. Lần đó Lê Thương bị một anh chàng tây lai tên là Leroy đuổi bắt và suýt chết vào tay của anh chàng tây đó. Sau nhờ một người giúp đỡ, Lê Thương trở về Mỹ Tho được và ngồi tù một thời gian thì được tại ngoại và tiếp tục sáng tác.

Máu chảy ruột mềm

Lê Thương hoàn toàn không biết rằng trong khi Lê Thương sáng tác bài Biển sau giông tố thì ở bên này chúng tôi đã tổ chức chiến dịch cứu trợ cho những người vượt biển có tên là Máu Chảy Ruột Mềm. Hồi đó tôi (thầy Nhất Hạnh) đi Bangladesh để hoằng đạo. Sau Bangladesh tôi về lại Singapore để dự Hội nghị Tôn giáo và Hoà bình Á châu vào cuối tháng 11 năm 1976. Trong thời gian ở tại Singapore dự hội nghị đó, tôi phát hiện ra được các thuyền nhân (trên thế giới lúc ấy chưa ai biết đến những người thuyền nhân boat people). Tôi đã đề nghị Đại hội yểm trợ cho tôi trong công việc tổ chức một chiến dịch cứu người trên biển và Đại hội đã đồng ý. Vì vậy tôi đã đặt trụ sở tại Singapore, mời một số các bạn từ Pháp, Hà Lan và các nước châu Âu qua để yểm trợ. Chúng tôi đã thuê bốn chiếc tàu để đi vớt người trên biển, chiếc đầu tiên tên là Roland, chiếc thứ hai là Leapdal, chiếc thứ ba là Saigon 200 và chiếc thứ tư lớn nhất có tên là Koojara. Theo kế hoạch, hai chiếc Roland và Leapdal có nhiệm vụ đi vớt người trên biển, khi được nhiều rồi thì chuyển lên chiếc Koojara vì chiếc này lớn nhất có thể chứa tới sáu trăm người. Còn chiếc Saigon 200 thì đi tới đi lui để cung cấp nước và thực phẩm.

Cái khó của chúng tôi là phải cứu người một cách âm thầm, làm thế nào để chính quyền Singapore không biết, nghĩa là phải làm “chui”. Lúc ấy Singapore có một chính sách rất khắc nghiệt lạnh lùng đối với thuyền nhân. Khi có thuyền nhân ghé bến thì quốc gia đó không cho đi vào, họ ra lệnh phải đẩy những người thuyền nhân trở ra biển cho chết. Cư dân nào dám cả gan vớt một thuyền nhân sẽ bị phạt rất nặng, nên không ai dám vớt thuyền nhân. Có một chiếc tàu hàng Nhật Bản lỡ vớt chín mươi tám (98) thuyền nhân ghé vào Singapore, Singapore không cho cập bến. Toà đại sứ Nhật Bản can thiệp để cho chiếc tàu đó cập bến thì Singapore yêu cầu phải đặt tiền thế chân một triệu USD, nếu chín mươi tám người ấy không bước chân xuống đất liền thì khi thuyền nhổ neo họ sẽ trả lại một triệu USD, tại vì Singapore không muốn một thuyền nhân nào được lên bờ hết. Chính sách của Singapore đối với thuyền nhân là như thế mà các nước lân cận cũng gần như thế.

Thường thường, khi có một chiếc thuyền chở thuyền nhân cập bến thì cảnh sát được lệnh phải đẩy ra ngoài. Nếu mình nói thuyền mình đã hỏng rồi thì cảnh sát cho tối đa một ít ván, một ít gỗ để đóng lại, sau đó họ đẩy trở ra khơi. Có lần ở bờ biển Mã Lai có hai chiếc thuyền chở đầy thuyền nhân bị đẩy ra ngoài biển, một chiếc bị chìm, những người trên thuyền bị chết hết. Mọi người trên chiếc thuyền còn lại hoảng sợ quá, họ vừa chứng kiến đồng bào của mình chết ngay trước mắt thì nhất định không đi ra nữa, họ cứ đi vào thôi. Trước khi cảnh sát tới can thiệp thì họ tự đập vỡ chiếc tàu của mình để đừng bị đẩy ra lại. Người của chúng tôi đã tới, đã lắng nghe và đã quay phim những người đó. Nếu những người còn lại bị bắt vào ở tù thì họ sẽ có cơ hội nhiều hơn, nếu không thì họ sẽ bị cho lên một chiếc tàu và bị đẩy trở về biển cả và họ sẽ chết như những người đồng bào của họ.

Chúng tôi đã tổ chức chương trình cứu trợ Máu chảy ruột mềm trong hoàn cảnh như vậy và chúng tôi phải làm chui, mà làm chui thì rất khó.

Với chiếc Roland chúng tôi vớt được 281 người và chúng tôi thuê một viên thuyền trưởng người Mỹ phụ trách – ông Mac Mahon. Ngày hôm ấy, ngay trên chiếc thuyền cứu nạn có một người phụ nữ trở dạ và sinh ra một bé gái. Để kỷ niệm, những người trên thuyền muốn đặt tên cho bé là Nguyễn Thị Roland. Tôi nói Roland là tên con trai mà, thành ra chúng tôi quyết định sửa lại thành Nguyễn Thị Rolanda. Tôi đã làm một bài thơ tặng cho Nguyễn Thị Rolanda. Em bé này nếu còn ở đâu đó thì năm nay đã 28 tuổi rồi.

Một bông sen nở trên đại dương

Bé sinh ra giữa muôn trùng sóng nước 

Giữa khuya này, đêm ba mươi tháng Giêng

Hai trăm tám mươi mốt người trên thuyền lặng im 

Nghe sóng đêm cầu nguyện

Tám người thuỷ thủ

Yên lặng cho thuyền hướng về phương nam 

Nước uống đã cạn rồi

Tàu chạy về gần cù lao Tiamen Cầu cứu

Biển đêm

Sóng vỗ mạn thuyền 

Trăng lặn lâu rồi

Ánh sao soi đường cho bé vào đời 

Dưới kia nhấp nhô đầu sóng bạc 

Một bà mẹ nằm trên boong tàu 

Chuẩn bị cho bé vào đời

Cả thuyền không có một phòng riêng 

Người bác sĩ

Cũng là giới lênh đênh bèo nước 

Tiếng khóc chào đời của bé

Bị át đi trong tiếng gió

Người mẹ mỉm nụ cười yếu ớt

Bác sĩ đứng lên loan báo tin mừng 

Hai trăm tám mươi mốt người vỗ tay 

Vị thuyền trưởng hô to:

Chúng ta đi về phương nam

Dân số chúng ta trở thành hai trăm tám hai 

Xin mọi người cám ơn Trời Phật.

Chiếc máy điện thoại nối liền 

Chuyển niềm vui lên lục địa

Khuya nay trên đất liền có người hay tin bé đã chào đời 

Bé Rolanda Nguyễn Thị

Bé từ đâu tới nhỉ?

Và bé đang đi về đâu?

Tại sao lại chọn nơi ra đời giữa đại dương

trên chiếc thuyền lưu lạc?

Bé không hỏi

Nhưng chúng ta hãy trả lời 

Ai nỡ để bông sen nở nửa đêm 

Chìm sâu lòng đại dương

Bạn ơi hãy trả lời cho chúng tôi

Chúng ta phải đem bé đi về hướng nào? 

Tôi cần bàn tay bạn.

Đó là bài thơ tôi viết cho bé Rolanda. Tôi dùng một chiếc điện thoại để liên lạc với chiếc tàu Roland nên tôi biết giờ sinh của bé và đã làm bài thơ này cho bé. Chúng tôi âm thầm chuẩn bị chở số đồng bào thuyền nhân đó tới Perth hay tới đảo Guam. Khi tàu sắp tới nơi chúng tôi sẽ đánh điện cho báo chí ra đón, để cho người ta đừng đẩy những chiếc thuyền đó ra ngoài biển.

Tàu Roland

Sư cô (ở giữa) đang giải thích cho thuyền nhân trên tàu Leapdal

Có một lần gặp khó khăn, chúng tôi nghĩ rằng không thể nào chờ được chiếc Koojara (chiếc này sắp mua, tiền có đủ nhưng chưa sea-worthy – nghĩa là chưa xuống nước được vì còn phải đợi ban an ninh chìm tàu duyệt lại từng khâu, từng phần trên tàu, e xuống nước tàu chìm thì họ bị trách nhiệm), vì vậy chúng tôi quyết định cho chiếc Leapdal đi trước. Hôm đó chỉ trước Tết Nguyên Đán có một ngày. Chiếc Leapdal do Vương Hồ làm thuyền trưởng. Trên đó chúng tôi đã vớt được trên ba trăm thuyền nhân rồi và đã chuẩn bị cho chiếc đó đi về Úc. Chúng tôi tới lì xì cho mỗi người một bao giấy đỏ trong có một dollar Úc mới tinh. Hôm ấy tôi đã đích thân ra biển để nói chuyện với đồng bào trước khi đồng bào lên đường. Tối ấy là tối Ba Mươi, tôi leo lên chiếc Saigon 200 để đi ra biển. Tôi đã dùng điện thoại để nói chuyện với đồng bào ở trên thuyền bên kia. Tôi chúc đồng bào thượng lộ bình an (nhất phàm phong thuận). Và tôi đã đưa cho mỗi người một bài thơ đã dịch ra tiếng Anh để khi tới bến, họ trao cho các nhà báo:

Lênh đênh ngoài sóng gió 

Thuyền nhỏ giữa đại dương 

Quyết tâm tìm đất sống 

Đói lạnh bao ngày đường. 

Chúng tôi là bọt biển

Trôi dạt giữa mênh mông 

Chúng tôi là hạt bụi 

Trong không gian vô cùng

Tiếng chúng tôi lạc mất 

Trong gió rít từng không 

Trên thuyền không nước uống 

Trên thuyền hết thức ăn

Con chúng tôi kiệt sức 

Khóc rã và lịm dần 

Chúng tôi khao khát Đất 

Nhưng chẳng được tới gần 

Mặc sức mà kêu cứu

Tàu bè vẫn dửng dưng 

Bao nhiêu thuyền đã lật 

Vì sóng gió bất thần 

Bao nhiêu là mạng sống 

Đã chìm lòng đại dương 

Chúa Ki Tô có nghe

Lời nguyện cầu rướm máu? 

Phật Quan Âm có nghe 

Lời kêu cứu không ngừng? 

Loài người ơi có nghe 

Tiếng gọi từ hố thẳm

Đất liền ơi có biết 

Tâm sự này hay không 

Xin loài người có mặt! 

Xin đất liền dang tay!

Cho chúng tôi tìm thấy 

Hy vọng trên đất này!

(Lời Nguyện cầu tìm đất sống trong tập Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

Tôi nhớ là sau khi dặn dò đồng bào, tôi trở về thì trời bỗng nổi gió và một đợt sóng đen ngòm chồm lên và vồ lấy tôi. Người tôi ướt hết và dường như đợt sóng muốn kéo tôi xuống biển. Giống như một năng lực ma quái nào đó đang nói rằng: “Ông là ai mà dám can thiệp vào chuyện của chúng tôi? Số phận của những người này là phải chết trên biển cả, tại sao ông có quyền can thiệp?”, như là một sự trả thù của nghiệp lực.

Chương trình Máu chảy ruột mềm cứu thuyền nhân trên biển là một chương trình rất thánh thiện. Sáng nào chúng tôi cũng thức sớm để ngồi thiền, đi thiền hành, chúng tôi thực tập hết lòng bởi vì chúng tôi biết rằng cần phải hướng dẫn chương trình này với năng lượng của tâm linh thì mới có thể thành công được. Đáng tiếc là chiếc Leapdal đã không đi qua Úc được vì chỉ sau đó mấy giờ đồng hồ thì có bão. Chính quyền Singapore khám phá ra được rằng chúng tôi đang hoạt động bí mật tại Singapore. Vì vậy họ bắt giữ chiếc Saigon 200 lại, không cho ra biển để tiếp tế và họ cũng không cho chiếc Leapdal đi vào đất liền. Rất có thể 300 người trên thuyền sẽ chết trên biển nếu không được vào trong vùng vịnh để tránh gió. Chúng tôi ở trên đất liền mà tâm trạng chúng tôi cũng bấp bênh như là thuyền nhân vậy. Đồng bào trên hai chiếc thuyền không có thức ăn, không có nước uống, không được tới gần bờ biển để tránh bão thì rất có thể họ sẽ chết trên biển. Nếu 600 người trên hai chiếc thuyền ấy chết trên biển thì chúng tôi cũng chết theo thôi. Làm sao mà sống nổi! Mình chịu chung số phận của nhau. Lúc ấy chúng tôi chỉ biết đi thiền hành, ngồi thiền và cầu nguyện. Chương trình của chúng tôi bị bại lộ là vì những người trong Hội nghị Tôn giáo và Hoà bình đã không giữ kín được. Từ Tokyo, New York,… họ đã tiết lộ tin tức với báo chí, và phóng viên đã tới tìm chúng tôi tại Singapore. Do đó chúng tôi bị phát hiện.

Vào lúc nửa đêm hôm ấy, cảnh sát Singapore ập tới bao vây văn phòng của chúng tôi. Họ chặn cửa trước, chặn cửa sau và các cửa hông nên chúng tôi không ai thoát được. Họ tịch thu hộ chiếu và ra lệnh cho chúng tôi phải rời khỏi lãnh thổ Singapore trong vòng 48 tiếng đồng hồ, tới sân bay họ sẽ trả lại hộ chiếu. Rời Singapore trong vòng 48 tiếng đồng hồ, trong khi mình còn trên 600 đồng bào lênh đênh ngoài biển không có thuốc men, không có nước uống, không có thức ăn, thì làm sao mình chịu nổi?

Trong hoàn cảnh nguy kịch, hoang mang đó, chúng tôi thực tập thở. Tôi nói rằng trong hoàn cảnh này nếu mà mình giữ được tâm an thì mình mới thật là người tu và chúng tôi đã ngồi thiền, đi thiền hành. Trong khi ngồi thiền chúng tôi tìm ra được một giải pháp: Nếu chúng tôi tìm tới cầu cứu với vị đại sứ Pháp tại Singapore nhờ ông can thiệp thì biết đâu chúng tôi có thể được ở thêm mươi ngày nữa để mà thu vén chương trình lại. Chúng tôi tiếp tục ngồi thiền, đi thiền hành, chờ tới sáng rồi thuê taxi tới toà đại sứ Pháp. Thật may là ông Jacques Gasseau đại sứ Pháp đã yểm trợ cho chúng tôi và can thiệp với chính quyền Singapore nên chính quyền Singapore gia hạn cho chúng tôi thêm mười ngày. Tôi giao quyền lại cho Sư cô Chân Không và các bạn khác. Sư cô Chân Không hồi đó có hộ chiếu Pháp, còn hộ chiếu của tôi không có nơi về. Nhưng chỉ 24 giờ đồng hồ sau khi tôi đi thì Sư cô Chân Không cũng bị buộc phải rời Singapore. Tình thế rất cam go. Rốt cuộc, sáu trăm thuyền nhân đó được trao lại cho Liên Hiệp Quốc. Trước đó, trên cù lao Tiamen cũng có mười mấy người thuyền nhân do Cao uỷ Tị nạn Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Khi mười mấy người thuyền nhân này cũng muốn lên chiếc Leapdal để được đi Úc thì ông Sampat Kumar – đại diện cho Cao uỷ Tị nạn phản đối, ông nói: “Đó là những người tị nạn của chúng tôi, tại sao quý vị lại rước đi?” Tôi mới hỏi: “Quý vị đã tới thăm những người đó chưa? Quý vị có biết mặt những người ấy không? Quý vị đã từng tới giúp đỡ những người ấy chưa?” Ông đáp: “Chúng tôi chưa tới, chúng tôi chưa biết, chúng tôi chưa giúp gì nhưng mà chúng tôi có tên những người đó.” Tôi mới nói đùa: “Nếu ông có tên tất cả những ngôi sao trên trời thì tất cả những ngôi sao đó đều thuộc về ông hết sao?”

Sau đó, nhờ báo chí lên tiếng rất nhiều cho nên số mạng của thuyền nhân đã được bảo đảm. Ông đại sứ Pháp Jacques Gasseau rất từ bi đã âm thầm yểm trợ cho chúng tôi, cho phép những thuyền nhân lọt vào toà đại sứ vào ban đêm, được ở lại trong khuôn viên toà đại sứ cho đến khi cảnh sát tới làm biên bản. Chúng tôi cũng bí mật giao kết với ngư dân là khi nào họ cứu được một, hai, ba thuyền nhân thì lập tức báo cho chúng tôi dù đó là hai giờ khuya hay ba giờ sáng. Chúng tôi lấy taxi chở những người đó tới toà đại sứ Pháp rồi cho họ leo rào vào trong khuôn viên toà đại sứ. Chúng tôi biết rằng vào buổi sáng khi nhân viên toà đại sứ mở cửa đi vào và phát hiện ra những người thuyền nhân vừa chui rào đêm qua, họ sẽ báo cáo cho cảnh sát. Lập tức chính quyền Singapore sẽ tới bắt và bỏ tù những thuyền nhân ấy, nhờ đó mà họ được an ninh. Còn nếu họ không được vào tù, không có tên trong sổ sách thì họ sẽ bị đẩy ra biển và chết trên biển. Hồi ấy tôi đã làm một bài thơ ca ngợi tấm lòng nhân hậu của ông đại sứ Pháp:

Có cây ngô đồng cho chim phượng đậu 

Có người đứng đó cho tình thương sâu 

Luật lệ nhiều khi như màn lưới sắt

Giam người trong kiếp trầm luân thương đau 

Nhưng lòng nhân ái như bàn tay Phật

Phá tan địa ngục, đập nát u sầu 

Thành phố sáng nay nắng lên bát ngát 

Có chim bồ câu bay liệng trời cao

Tôi nhớ tới người tấm lòng cương trực 

Nụ cười mát dịu như nước nhiệm mầu 

Trẻ thơ nhớ người như hoa nhớ nắng 

Như nước nhớ nguồn, như trăng nhớ sao 

Tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực

Thân đi vào đời cưỡi trên ba đào 

Bắc một cây cầu từ hang địa ngục 

Lên tới cõi trời, mở hội ngàn sao.

Lê Thương không biết rằng chúng tôi đã làm những công việc đó, nhưng Lê Thương cũng đi cùng chiều hướng tâm linh với chúng tôi. Lê Thương đã để cho trái tim mình mở ra, đã khóc, đã nói lên được nỗi khổ niềm đau của đồng bào vượt biển.

Sứ mạng

Tôi rời bỏ đất nước năm 1966 cho đến nay là 38 năm, chưa có cơ hội trở về nước. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta qua tới bên này chắc hẳn phải có một sứ mạng nào đó. Tổ tiên chúng ta gửi chúng ta qua đây, chắc là tổ tiên chúng ta muốn trao cho chúng ta một sứ mạng. Nói một cách rõ ràng hơn là chúng ta sang bên này có thể có hai mục đích. Mục đích thứ nhất là học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới bên ngoài để đem về làm đẹp thêm cho quê hương, cho Tổ quốc. Mục đích thứ hai là đem chia sẻ với bạn bè ngoại quốc những cái hay, cái đẹp của nền văn hoá Việt Nam. Đó là lý do chúng ta đang có mặt tại Tây phương. Nếu chúng ta nhớ được điều đó thì chúng ta sẽ biết thương yêu nhau, chấp nhận nhau để chúng ta, những người lớn, những người trẻ có thể thâu thập được những cái hay, cái đẹp nhất của các nền văn hoá Tây phương mà truyền về nhà. Và chúng ta cũng có thể chia sẻ với người Tây phương những gì hay, đẹp của nền văn hoá dân tộc. Ở trong đại chúng này thế nào cũng có người đang làm chuyện đó và đã làm được chuyện đó. Nếu chúng ta không thương yêu nhau, nếu cha không chấp nhận con, con không chấp nhận cha, vợ không chấp nhận chồng thì chúng ta không tài nào làm được chuyện đó. Chúng ta đã được tổ tiên chúng ta giao phó một sứ mạng, chúng phải nhìn lại, chúng ta phải biết rằng hơn 75 ngàn đồng bào ta đã phải chết dưới đáy biển. Chúng ta phải để cho niềm cảm thương đó được sống mãi trong lòng. Chúng ta phải nghe bài Biển sau giông tố của Lê Thương để thấy được sứ mạng của chúng ta. Trong sự sống hàng ngày chúng ta phải ý thức rằng chúng ta có một sứ mạng. Chúng ta phải làm thế nào để cho vợ hiểu được chồng, cha hiểu được con, chúng ta không thể nào sống ơ thờ, vô trách nhiệm được.

Hôm nay, nhân dịp đầu năm, chúng ta đã tập họp ở đây, có mặt của nhạc sĩ lớn Lê Thương và có mặt của anh linh các đồng bào đã tử nạn trong các chuyến vượt biên. Chúng ta phải hứa với lòng mình, phải hứa với đất nước, phải hứa với tổ tiên, hứa với người đã khuất là chúng ta sẽ sống như thế nào cho xứng đáng, sống như thế nào để niềm tin và tình thương mỗi ngày được sáng thêm, để chúng ta có thể làm trọn được phận sự mà tổ tiên của chúng ta đã giao phó khi gửi chúng ta sang bên này. Tôi đã làm hết sức của tôi, quý vị đã làm hết sức của quý vị, nhưng mà chúng ta còn có thể làm hay hơn nữa, chúng ta phải nắm tay nhau. Nắm tay nhau thì có thể làm được nhiều hơn, làm được lớn hơn.

Bây giờ tôi xin mời chị Liễu Thu thắp hương và dâng lên trên bàn thờ. Chúng ta sẽ thắp hương cho nhạc sĩ Lê Thương, chúng ta sẽ thắp hương cho đồng bào tử nạn trong chuyến vượt biên. Và chúng ta sẽ nghe lại một lần nữa bài Biển sau giông tố. Khi nghe bài này, quý vị phải nghe trong tinh thần của sự cầu nguyện, để cho trái tim của chúng ta mở ra, để cho chúng ta có thể cảm thông, có thể thấu hiểu được nỗi khổ đau, niềm tuyệt vọng, phải tiếp xúc được với thảm kịch của dân tộc và thấy được sứ mạng của mình. Theo tôi thấy, bài hát này là một bài cầu nguyện, một bài kinh.

Theo Lê Thương, trong một lá thư gửi cho chúng tôi, thì nhân sinh quan của Người Việt rất sâu đậm nghĩa tình. Nhân sinh quan đó đầy tình và đầy nghĩa, nó được biểu hiện qua một hình ảnh rất cảm động, là hình ảnh của một bà mẹ ôm con đợi chồng cho đến khi hoá đá. Theo Lê Thương, đó là một hình ảnh tuyệt đẹp và vì vậy cho nên chàng trai 31 tuổi khi đó muốn diễn tả cái đẹp ấy của nền văn hoá dân tộc qua bài Hòn Vọng Phu.

Văn nghệ sĩ

Gia tài văn chương Việt Nam của tôi

Thưa quý vị độc giả, tập 3 cuốn hồi ký 60 năm theo Thầy học đạo và phụng sự này tôi dành cho văn nghệ sĩ. Tập này tuy tôi viết ra mà không hẳn là hồi ký của tôi, có nhiều tấm lòng trong này, nhiều nhất là Thầy tôi. Vì như tôi đã kể trong tập Một, khi tôi vừa học xong tiểu học ở tỉnh nhỏ Bến Tre thì được vào Lycée Marie Curie ở Sài Gòn và học toàn bằng tiếng Pháp tới khi thi tú tài toàn phần, sau đó học cử nhân cũng bằng tiếng Pháp, làm luận án cũng bằng tiếng Pháp và rồi đi Pháp trình luận án cũng bằng Pháp văn, nên văn hoá Việt Nam tôi rất dở. Tôi chẳng biết Hoàng Cầm, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu là ai, Nguyễn Du là ai! Trong khi tôi hát thuộc lòng những bài ca Pháp như Mon Beau Sapin, Petit Papa Noel, Colchiques dans les Prés, Une Chanson Douce, đọc vanh vách thơ Verlaine, Alfred de Musset, Lamartine, thuộc từng tình tiết Les Misérables của Victor Hugo, Les Mains Sales của Jean-Paul Sartre, Le Rouge et le Noir của Stendhal, thì tôi hoàn toàn không biết một bài dân ca Việt Nam, một nhà văn Việt Nam nào cả! Tất cả 100% gia tài văn hoá Việt Nam nhỏ xíu mà tôi có được hôm nay hoàn toàn nhờ ở Thầy tôi – Thầy Thích Nhất Hạnh.

Khi mới nhận được thư Thầy từ Hoa Kỳ trong khoảng thời gian Thầy đi khảo cứu về Tôn giáo tỷ giáo năm 1961, tôi “ngạc nhiên” nghe Thầy thuật: “Con biết không, hôm nay Đại học Princeton mời thầy nói chuyện chút ít về văn hoá Việt Nam, thầy bắt đầu bằng trình bày bản nhạc Về miền Trung của Phạm Duy: Người đi trên đống tro tàn… tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi! Và thầy xấu hổ quá vì ai cũng thấy thầy chảy nước mắt…” Tôi bâng khuâng, hơi khó hiểu. Dù là tan thân thiếu phụ nát đầu hài nhi nhưng đó chỉ là… bài hát mà! Sao Thầy lại rươm rướm nước mắt?

Tôi đọc tiếp “Đó là những hình ảnh thật, đang xảy ra trên đất nước mình, và nó cứ ám ảnh thầy hoài. Đất nước Việt mình khổ đau không phải chỉ có các xóm nghèo của con như xóm Mả Lạng sau rạp Quốc Thanh đâu. Trong khi con đang sống an bình ở Sài Gòn thì có những vùng đất nước mình bị bom đạn cày xới và tan thân thiếu phụ nát đầu hài nhi là những gì có thật đang xảy ra ở những vùng quê miền Trung xa xôi của đất nước. Con đã nghe bản nhạc Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy chưa? Mẹ thầy cũng là bà mẹ Gio Linh đó con ạ. Cũng vất vả và can cường lắm”. Tôi tin Thầy tôi, nên cũng có cảm thương, nhưng chỉ cảm thương trên mặt lý trí thôi.

Sau đó, vâng lời Thầy dạy tôi đã tìm mua đọc tiểu thuyết Đồng quê của Phi Vân, Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam để thấy được những nét đẹp đơn sơ dân dã và những tập tục rất đặc biệt của người dân quê Nam bộ. Để hiểu đồng bào lam lũ miền Bắc, Thầy dạy tôi tìm đọc Nhà nghèo của Tô Hoài. Thương cảm quá các bé nghèo, vì đói đi bắt cua bị rắn cắn chết. Tôi uất ức và xót thương khi đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Để hiểu và thương người dân quê miền Trung, Thầy dạy nên đọc Nằm vạ của Bùi Hiển. Đọc sách tôi mới thấm thía, mới cảm nhận được những nép đẹp dân dã đơn sơ, cảm được sâu sắc những tình tiết oan ức, khổ đau của những người bất hạnh hơn tôi. Tôi hiểu thấu hơn những lời dạy dỗ của nội tôi, những căn dặn của ngoại tôi khi mùa đông về nhớ mua chiếu cho người nằm co ro ngoài chợ, nhớ lại ba má tôi vẫn thường giúp vốn giúp ruộng cho những tá điền nghèo khổ những ngày tôi còn bé thơ. Nhờ đọc những sách này mà tôi chạm được, tôi cảm thương sâu xa được với đồng bào nghèo khó bị áp bức. Tình yêu dân tộc, yêu quê hương trong tôi càng ngày càng cụ thể. Tôi không yêu nước một cách chung chung nữa mà tôi thấm thật sâu, quyết định phải làm gì cụ thể cho từng cá nhân đó, từng em bé mất cha mẹ đó, giúp tạo dựng cho từng gia đình đó có cơ hội có nghề nuôi thân và gia đình.

Vì thế trong chiến tranh Việt Nam tôi không đi biểu tình đả đảo hoan hô chính phủ này, đòi hỏi chính phủ kia. Những người đó hôm nay tốt như vầy, hứa chân thật như vầy, nhưng khi có quyền mà không tụng giới luật, không đàm luận cách áp dụng cụ thể những điều đã hứa vào thực tế, không nhẹ nhàng soi sáng cho nhau, thì dù đã phát nguyện đi theo đường hướng tốt đẹp nhưng chưa chắc gì họ thực hiện được và rồi cũng không đem lại lợi ích cho ai. Tôi cũng không kêu gọi hoà bình một cách chung chung mà tham gia nhiều công tác thiết thực. Tôi phổ biến những bài thơ của Thầy như:

Những đêm bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn 

Từng miếng cơm nhai, từng bầu sữa cạn.

Bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm, 

Nuôi nấng cho con nên hình nên vóc

Sáng nay một viên đạn đồng bắn con ngã gục 

Mẹ sống làm sao được nữa con ơi

Chị sống làm sao được nữa em ơi 

Thương yêu chừng nào vơi.

Tôi cũng làm đủ thứ công tác dù rằng nhỏ nhưng mà xây dựng cụ thể giúp được em bé này có cơm ăn có điều kiện đi học – học đời và học đạo đức, giúp được gia đình kia có nóc nhà, có hạt giống tốt để gieo trồng gặt hái tự nuôi. Nhưng tuần lễ nào dù phải làm việc 20 giờ mỗi ngày chúng tôi cũng quyết giữ một ngày tĩnh tu tại chùa Pháp Vân, tập dừng lại, để sự đời qua một bên, tụng giới, pháp đàm giới để giữ tâm an, giữ tâm tri túc (biết đủ) và để tâm không bị danh lợi kéo đi.

Những bài học văn hoá sống

Khi theo Thầy đi kêu gọi cho hoà bình tôi học thêm được rất nhiều về văn hoá Việt Nam nhờ nghe Thầy kể chuyện, thấy Thầy hành xử và được Thầy chỉ dạy chút ít việc này việc kia. Dần dần nếp sống Việt Nam thấm vào tôi cũng khá.

Ai khen thì mình khiêm nhượng đáp lại: “Dạ thưa con không dám ạ” (theo lối Việt) hoặc “Thank you” (theo lối Mỹ) hay “Merci infiniment” (lối Pháp).

Mình ở trong nhà với ai, dù không phải là cha mẹ, vẫn phải đi thì thưa cho biết con đi đâu, về cũng phải thưa con đã về.

Đi thưa về trình là vậy. Trẻ em Việt nào cũng được dạy “Con thương cha mẹ con để ở đâu?” Trả lời: “Dạ con để trên đầu”. Với người Việt cái đầu là chỗ thiêng liêng để thờ cha mẹ ông bà. Nói chuyện với người lớn người mình kính trọng thì không được sờ đầu vì làm vậy là vô lễ,…

Mời Thầy đi ăn cơm thì phải thưa: “Con thưa Thầy đi thời cơm”. Nhưng nếu sư em mời mình thì không được đáp: “À sư chị sẽ thời cơm!” Ý tứ từng chữ.

Những bài Thầy dạy chúng tôi tu thông qua Truyện Kiều cứ thấm dần dần. Cũng là truyện KIỀU nhưng không phải KIỀU của các giáo sư văn chương ở nhà, KIỀU này qua cái nhìn của thiền quán. Thầy chỉ cho chúng tôi thấy từng chữ, từng câu trong Kiều đẹp như một chuỗi ngọc. Ban đầu, chúng tôi yêu cầu Thầy mở lớp dạy cho có đầu có đuôi và nhân đó thu thanh cho những đệ tử ở xa Thầy cũng được học, nên đầu tiên chúng tôi có một loạt cassettes về những bài giảng Kiều qua cái nhìn thiền quán. Sau này vì thiên hạ thích thú quá, chúng tôi đánh máy ra thành sách Thả một bè lau. Cứ nghe Thầy dạy nhiều lần, thấm từ từ, từng câu từng ý, thâm thuý mà từ bi. Nhờ thế cô Tây con thời trung học của tôi dần biến mất. Bản chất Việt lộ ra rất Việt. Một ngày hè ở Paris, tôi mặc áo lụa trắng, tóc còn để dài kéo qua một bên, đi xe mobylette tới khu La Tinh mua tàu hũ và thăm các tiệm sách. Các bạn thanh niên Việt Nam tới trầm trồ: “Cô mặc áo lụa trắng khiến chúng tôi nhớ quê hương quá! Cám ơn cô con gái Việt Nam.”

Sau tháng 4 năm 1975, tôi tuyệt vọng và không còn hứng thú để sống nữa, chừng đó tôi mới tu thiệt!

Sau tháng 4 năm 1975, không còn các hoạt động cứu giúp cô nhi, tái thiết giáo dục tại các Làng của chúng tôi nữa. Khi không được phép làm bất cứ việc gì để giúp cô nhi và những đồng bào cực khổ, tôi tuyệt vọng vô cùng và nhiều lúc không còn hứng thú gì để sống cả.

Chừng đó, những điều Bụt dạy qua Kinh người biết sống một mình mới thật sự thấm thía. Tôi phải bám lấy hơi thở và phút giây hiện tại. Nếu rời phút giây hiện tại ở Phương Vân Am là tôi muốn ngủ yên để không còn thức dậy nữa. Trong nhiều tháng tôi thực tập miên mật thiền chỉ – DỪNG LẠI – chỉ bám vào hơi thở và sống từng phút giây với những gì đang xảy ra trong hiện tại. Hiện tại của tôi lúc đó, sau khi đóng hết hồ sơ cô nhi, nạn nhân chiến cuộc vào nhà kho trên gác Phương Vân Am, là những cánh đồng lúa mì trải dài lên đồi cao phía sau Am và rừng sồi xa xa trước mặt. Hiện tại của tôi lúc đó là vườn rau Việt Nam trên đất Pháp có ngò, tần ô, có cải bẹ to để muối dưa, có cà chua, đậu que và rất nhiều bí ngô, rhubarbe (cây đại hoàng). Hiện tại của tôi là khu rừng nhỏ cạnh Am, là ngọn đồi đầy hoa phục sinh (Paquerettes) – một loại cúc trắng nhỏ xíu, rồi cánh đồng ấy lại tràn ngập hoa nút vàng (Boutons d’or – Buttercups), là những cánh đồng hoa dại Chicorées xanh biếc, những cánh đồng hoa việt quất (Bleuets – Blueberries) xanh tím, ngọt lịm, rồi từ từ hoa anh túc (Coquelicots – Poppies) nở rộ đỏ chói quanh am. Nhờ tập không nghĩ đến Việt Nam nên tâm tôi từ từ bình an và thỉnh thoảng chợt nảy ra những cái thấy rất sâu và tinh tế. Ví dụ như tôi chợt có sáng kiến có thể giúp các trẻ em đói tại quê nhà mà không phải qua guồng máy ngân hàng Nhà nước bằng cách gửi nhiều gói hàng nhỏ cho những gia đình cha bị đi học tập, mẹ chết hay đang bị bệnh suyễn không nuôi nổi đàn con thơ. Như đã kể trước, tôi giúp mười gia đình rồi hai mươi rồi ba mươi, năm mươi gia đình… và có cả 38 nhóm nho nhỏ cùng làm như tôi.

Sáng kiến gửi niềm hứng khởi đến văn nhân, nghệ sĩ

Nhưng một hôm trong khi ngồi thiền, tâm tôi lại đi lạc vào khung trời Việt Nam, lại tuyệt vọng tự nhủ “Hàng trăm ngàn binh sĩ, sĩ quan Việt Nam Cộng hoà đang phải nằm trong các trại tù lớn, hàng trăm ngàn gia đình của từng người bị tù oan ức đó hiện sống ra sao? Vợ con những người đó đang nheo nhóc có ai đỡ đần không? Vài ngàn hộp quà cho các gia đình có cha đi học tập, mẹ bị bệnh của 38 tiểu ban nhỏ nhoi của tôi thì thấm vào đâu so với 50 triệu dân Việt Nam?” (Thời điểm 1975 – 1976 dân số Việt Nam mới khoảng 50 triệu người thôi).

Trong giờ thiền chỉ, không tìm cầu gì hết thế mà trong tâm tôi vọt ra sáng kiến: Hay là ta bắt đầu giúp những thành phần ưu tú, xuất sắc của xã hội Việt từ Nam ra Bắc. Nguyễn Du thì đất Việt chỉ sinh ra một lần. Một Nguyễn Trãi, một Lê Lợi, một Trần Thái Tông, một Trần Nhân Tông, một Bà Huyện Thanh Quan, một Nguyễn Đình Chiểu, một Shakespere, một Van Gogh, một Victor Hugo… Nhà văn nào cũng duy nhất, hoạ sĩ nào, nghệ sĩ nào cũng duy nhất. Vậy thì tại sao tôi không tìm cách giúp nhạc sĩ Lê Thương, thi sĩ Hoàng Cầm, thi sĩ Hồ Dzếnh, hay nhà văn Doãn Quốc Sĩ mà tôi vốn rất quý mến sau khi đọc Ba sinh hương lửa, Khu rừng lau, hay cụ Đào Duy Anh… Nhưng làm sao để liên lạc được với họ?Để mở đầu cho chương nói về công trình tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc, khơi lại nguồn hứng khởi nơi các văn nghệ sĩ, tôi xin bắt đầu bằng cách chép trọn một bài Thầy giảng tại Tu viện Lộc Uyển về nhạc sĩ Lê Thương, và sau này về Lưu Trọng Lư. Tôi sẽ chỉ thêm vào đây những chi tiết thiếu thôi.

Chân dung nhạc sĩ Lê Thương

Vài lời của Sư cô Chân Không với độc giả

(Nhân dịp xuất bản bộ hồi ký 60 năm theo Thầy học đạo và phụng sự)

Sư cô Chân Không rất cảm động khi bộ hồi ký này được xuất bản và ra mắt độc giả, nhân dịp kỷ niệm 60 năm Chân Không theo Thầy học đạo và phụng sự.

Tuy nói là hồi ký của Sư cô Chân Không, nhưng trong những tập sách này, Chân Không cố ý viết chi tiết một số công tác hướng dẫn của Sư Ông – những điều đã thực hiện trong suốt 60 năm qua gây cảm hứng cho các sư cô, sư chú đã cạo đầu đi tu theo Sư Ông – một cụ già 93 tuổi mà đa số các em cũng không biết rõ ông cụ này đã làm được những gì mà thế giới quy ngưỡng đến vậy. Chân Không chỉ thuật được chút xíu những hạnh nguyện của vị Thầy quý kính của các em, đó là Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Người đã thực hiện những gì mà trong các quyển sách dạy giáo lý của Sư Ông, người chỉ nói phớt qua mà không hề kể về những công hạnh đã làm ấy.

Viết bốn tập hồi ký này, Chân Không chỉ mong các sư cô, sư chú, học trò xuất sĩ và cư sĩ của Sư Ông có thêm niềm tin nơi vị Thầy mà mình đã quyết tâm suốt đời theo tu học.

Bộ hồi ký gồm bốn tập:

Tập 1: Con đường mở rộng. Chân Không nói sơ về gốc rễ, cô bé Chân Không đến từ đâu, một vài chuyện tình rất thật trong đời một người trẻ. Rồi cô gái mười tám tuổi đó gặp Bụt ra sao, muốn xuất gia, muốn tự lập một ngôi chùa kiểu mới, muốn tự cạo đầu để có thể đi làm công tác giúp trẻ em nghèo đói một mình, không theo đường quý ni sư theo Phật giáo truyền thống. Gặp Thầy Nhất Hạnh, cô đi theo con đường phụng sự xã hội do Thầy hướng dẫn ra sao? Cứu trợ nạn nhân lũ lụt, đói lả trên sông Thu Bồn sau trận lụt Giáp Thìn 1964 với 4875 người chết như thế nào? Vượt qua những nơi giáp chiến hiểm nguy đến tính mạng để cứu trợ cho người đói, kêu gọi hoà bình, có duyên may cứu vài mảnh đời tan tác, đi chôn xác người chết quá nhiều trên đường phố Sài Gòn dịp Tết Mậu Thân 1968.

Tập 2: Bước chân hộ niệm, hơi thở từ bi. Chân Không nói về vai trò Phái đoàn Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Hoà đàm Paris 1968 đến 1975, kể chuyện Thầy Nhất Hạnh đã dang tay cứu thuyền nhân trên Vịnh Xiêm La năm 1976, 1977 ra sao, khó khăn như thế nào.

Tập 3: Phương Hương xuôi vạn lý. Chân Không thuật chuyện Thầy Nhất Hạnh nhờ Chân Không đứng ra giúp giới văn nghệ sĩ, những nhạc sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ tài ba mà không được tự do sáng tác. Thầy đã viết thư (qua ngòi bút của một cô bác sĩ trẻ, qua những hộp thuốc men đầy ân tình) nâng đỡ họ, động viên, khen ngợi sâu sắc tài năng của họ, để họ có cảm hứng sáng tác trở lại. Đặc biệt trong tập này, Sư cô nói nhiều về nhạc sĩ Lê Thương với ba kiệt tác Hòn Vọng Phu.

Tập 4: Cần Thơ về Kinh Bắc. Chân Không chép giùm Thầy Nhất Hạnh những lời Thầy khen ngợi sâu sắc thi sĩ Hoàng Cầm – tác giả bài Bên kia sông Đuống ra sao. Bác sĩ Cần Thơ (dưới ngòi bút của Thầy) xuất hiện để đưa thi sĩ ra khỏi khung trời tuyệt vọng.

Đây toàn là những giây phút rất màu nhiệm trong đời mà Sư cô Chân Không được làm học trò của một vị chân tu, để khuyến khích các sư chú, sư cô trẻ rằng: nếu Sư cô Chân Không làm được, thì mình cũng làm được.

Bốn tập hồi ký này, Chân Không sẽ gửi tặng các bậc cha mẹ các sư cô, sư chú đã cho con đi theo con đường của một vị chân tu tròn 77 năm phụng sự để làm gương cho mỗi sư cô, sư chú. Mong mỗi người sẽ tiếp tục sự nghiệp của hàng triệu vị chân tu khác, nối tiếp những bước chân của Bụt Thích Ca.

Nam mô Đức Bồ tát Đại hạnh Phổ Hiền và Đức Bồ tát Đại bi Quán Thế Âm.

Sư cô Chân Không Tháng 9 năm 2019

Tâm Sám Pháp

(Trích từ sách Hơi thở nuôi dưỡng và trị liệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm

Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm

Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.

Mặc dù mình biết rằng quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, nhưng nếu nhìn cho kỹ, mình sẽ thấy thực tại vượt thoát cả hai ý niệm quá khứ và tương lai; thực tại bao la, mầu nhiệm hơn mình tưởng. Quá khứ có mặt trong hiện tại, bởi vì hiện tại được làm bằng quá khứ.

Theo lời Bụt dạy, nếu thiết lập thân tâm vững chãi trong hiện tại, tiếp xúc sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày, thì mình đồng thời tiếp xúc được sâu sắc với quá khứ và có đủ sức mạnh để chuyển đổi quá khứ. Đó là giáo pháp rất sâu sắc và mầu nhiệm của đức Thế Tôn. Mình không cần phải gánh chịu những niềm đau nỗi khổ của mình suốt đời.

Trong quá khứ, vì thiếu chánh niệm mình đã từng gây ra lầm lỗi, đã tạo khổ đau cho mình và cho người mình thương, nhưng điều đó không có nghĩa là mình phải suốt đời gánh chịu những lầm lỗi ấy, những lầm lỗi ấy không phải là không thể chữa trị và chuyển hóa. Bụt có dạy: Nếu tiếp xúc sâu sắc với hiện tại thì đồng thời mình tiếp xúc được với quá khứ. Chăm sóc hiện tại cho hay là mình có thể chuyển đổi quá khứ. Chữ Sám Hối được dịch là Làm Mới, Làm Mới thân và tâm, gọi là Tâm Sám Pháp. Mỗi khi nhận biết được những lầm lỗi mình đã tạo ra trong quá khứ, mình nguyện sẽ không lập lại những lỗi lầm ấy nữa. Ngay từ giây phút đó vết thương của mình tự nhiên được chữa trị. Thật là mầu nhiệm.

Có một cựu chiến binh người Mỹ chia sẻ với tôi rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều người bạn lính của ông bị giết trong một trận bị phục kích. Ông vô cùng căm hận. Vì lòng căm hận tột độ ấy, ông muốn giết một số người trong khu làng nơi mà cuộc phục kích đã xảy ra để trả thù cho những người anh em đồng đội của mình. Ông đã tẩm thuốc nổ vào trong những lát bánh mì sandwich, rồi đặt chúng ở cổng đầu làng và núp ở một nơi gần đấy để chứng kiến cảnh đau đớn của những ai ăn phải những lát bánh mì tẩm thuốc nổ ấy cho hả giận. Có năm đứa trẻ em chạy chơi gần đấy thấy bánh mì thơm ngon, chúng mừng rỡ cầm lấy rồi chia nhau ăn. Sau khi ăn vào, chúng bắt đầu thấy quặn đau, khóc lóc và kêu gào thảm thiết. Dân làng chạy đến và khám phá ra rằng bọn trẻ đã bị ngộ độc. Cha mẹ chúng đã hốt hoảng chạy Đông chạy Tây tìm xe để đưa con mình vào bệnh viên cấp cứu, nhưng bệnh viện gần nhất lại quá xa. Là một chiến binh, ông ta đã biết trước rằng không có hy vọng gì để cứu chữa kịp thời những đứa trẻ này, chúng sẽ chết trong vòng mười mấy phút đồng hồ. Trong cơn căm hận, ông đã giết chết năm đứa trẻ vô tội của ngôi làng ấy.

Sau khi được giải ngũ trở về Mỹ, ngày nào ông ta cũng sống trong cảm giác sợ hãi và trong tâm trạng tội lỗi, lương tâm ông lúc nào cũng bị dày xéo, cắn rứt và ám ảnh. Cái cảm giác tội lỗi đã đè nặng lên trái tim ông trong suốt mười năm. Sau đó ông đã tham dự một khóa tu được tổ chức tại Santa Barbara dành cho các cựu chiến binh Mỹ của chiến tranh Việt Nam. Trong khóa tu ấy, ông được khuyến khích nói ra những khổ đau của ông, mặc dầu đó là chuyện rất khó để cởi mở đối với họ.

Trước đây, ông chỉ nói điều này cho một người duy nhất nghe, đó là mẹ của ông, bà đã sống và chia sẻ nỗi khổ với con mình. Bà mẹ nói: ”Con ơi, con không nên ôm mối sầu khổ, tội lỗi hoài như vậy. Trong chiến tranh, vấn đề giết hại hoặc cố ý hay vô tình luôn luôn là vấn đề khó tránh.” Nhưng những lời khuyên như thế của người mẹ không đủ để giúp cho con bà vơi bớt khổ đau. Mỗi lần ngồi chơi với các con của ông ở phòng khách, ông luôn tưởng nhớ lại hình ảnh tàn nhẫn mà ông đã gây ra cho năm đứa trẻ Việt Nam trong quá khứ, ông ta chịu không nổi và thường phải rời bỏ phòng khách để đi ra ngoài.

Hôm ấy, với sự yểm trợ hùng hậu của tăng thân trong đó có các thầy, các sư cô và một số các nhà tâm lý trị liệu khác đã tìm cách hữu hiệu để giúp trị liệu những người cựu chiến binh; cuối cùng ông ta đã mở lòng và kể hết câu chuyện bi thương ấy cho một nhóm người gồm có chín vị. Đôi khi các thầy, các sư cô và một số các vị cư sĩ phải ngồi im lặng và thở trong chánh niệm hơn cả giờ để cho ông ta tiếp tục kể hết những gì ông đã mang nặng trong lòng suốt mười năm qua. Có lúc ông chỉ biết ngồi khóc và không thể thốt lên được một lời.

Sau khi nghe được sự việc ấy, tôi cho mời ông ta đến; sau khi uống trà, hỏi thăm, tôi nói với ông ta rằng: ”Thưa ông, sự thật là ông đã sát hại năm đứa trẻ vô tội trong cuộc chiến Việt Nam. Nhưng có những việc ông có thể làm để chuộc lại lỗi lầm ấy. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều đứa trẻ đang chết vì thiếu thức ăn, thiếu dinh dưỡng và thuốc men. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi ngày có khoảng bốn chục ngàn trẻ em trên thế giới chết vì đói và thiếu dinh dưỡng. Sao hôm nay ông không ra tay cứu giúp những đứa trẻ đang chết đói như thế, thay vì ngồi đó mà giam hảm mình trong cái ngục tù ký ức của khổ đau, tội lỗi về hành động sát hại năm đứa trẻ. Ông hãy thực tập làm mới trở lại, đem cuộc đời của mình để làm những điều ngược lại với những hành động thiếu hiểu biết, thiếu tình thương mà ông đã gây ra trong quá khứ. Ông nên phát nguyện tiếp thọ Năm Giới Quý Báu và kể từ giây phút này, ông hãy cố gắng hết khả năng của mình để tìm cách bảo vệ sự sống, cứu giúp những mạng sống của các em bé nghèo ở các nước chậm tiến. Hãy đi vào cuộc đời để cứu giúp những em bé bất hạnh. Vô số các em bé đang cần sự giúp đỡ, đang cần cánh tay từ bi của ông. Ông không nên ngồi đó mà tự giam hãm mình trong cái xiềng xích của tội lỗi, tuyệt vọng trong khi ông có thể sửa đổi được quá khứ.”

Sau khi nghe tôi chia sẻ như thế, trái tim của ông ta đã được khai mở, được chuyển hóa và ông bắt đầu trở thành một con người mới hoàn toàn. Chúng ta tiếp nhận năng lực hùng hậu từ sự tu tập của tăng thân và từ sự quyết tâm của ta để vững đi trên con đường tu tập. Con đường ấy có khả năng tẩy sạch được những khổ đau của quá khứ và chuyển hóa lầm lỗi trong ta.

Ai bảo đi tu là khổ

(Gia đình cây Mimosa)

Được chấp nhận vào tăng đoàn xuất gia là một niềm vui, hạnh phúc cho các giới tử như chúng con. Đặc biệt, lễ xuất gia của cây Mimosa được tổ chức vào tháng Một năm 2022 trước linh cữu của Sư Ông lại càng thiêng liêng vô cùng. Những người đệ tử vẫn tiếp tục được biểu hiện để nối tiếp sự nghiệp mà Sư Ông đã gầy dựng và trao truyền. Trải qua năm đầu tiên sinh hoạt và thực tập trong đại chúng, những người con ấy xin được chia sẻ một vài câu chuyện vui kính dâng lên Sư Ông, quý thầy, quý sư cô và đại chúng.

 

 

Bài hát của cây

Trong giờ ăn trưa ngày diễn ra lễ Trà tỳ, anh chị em trong cây có cơ hội ngồi ăn cơm chung với nhau. Sau đó, cả cây cùng hát cho nhau nghe, rồi lên ý tưởng tập hát chung một vài bài để hiến tặng đại chúng cho chương trình tối hôm ấy. Lúc tập hát thì rõ là hay và vui tươi. Thế rồi vào buổi tối, dàn đồng ca với sáu sư chú và hai mốt sư cô đắp y gọn gàng, đẹp đẽ từ từ đi ra sân khấu. Trông có vẻ hoành tráng lắm nhưng khi mic được truyền đến tay sư anh cả thì lại đùn đẩy cho sư chị cả. Vừa mới bắt nhịp thì bên dưới quý thầy, quý sư cô cứ tủm tỉm cười vì tưởng anh chị em chúng con hát bài của cây, ai dè hát bài Hiểu và Thương. Đã thế lại còn hát sai nhạc nữa chứ.

Chưa hết, đại chúng còn phải chịu trận thêm với bài Không đến, không đi. Trong khi đó, bộ phận quay trực tuyến cũng bị một phen hoảng hốt vì đang phát trực tiếp trên toàn thế giới. Thế là mỗi khi gặp nhau, anh em thường hát lên câu:

Anh em ta từ bốn phương trời
Chị em ta từ khắp năm châu.

Nghe đến đó thì ai cũng phì cười. Từ đó, bài hát của cây bất đắc dĩ được ra đời mà không cần tốn công viết lời, phổ nhạc. Chúng con tự nói với nhau rằng, nếu từ giờ đến ngày kỷ niệm thôi nôi của cây mà không có bài hát của cây chính thức thì có lẽ bài hát này sẽ được cất thêm một lần nữa, để đưa giai điệu huyền thoại này đi cùng năm tháng.

Ba má đến thăm, bánh quà đầy mâm

Được ba má đến thăm là niềm vui lớn của những ai sống xa nhà, đặc biệt là người tu sĩ. Vui vì được gặp trực tiếp, hàn huyên mọi chuyện, và ba má có cơ hội tiếp xúc với pháp môn. Bên cạnh đó, đây còn là cơ hội để truyền thông, thấu hiểu, thông cảm và chấp nhận nhau. Một điều không kém phần quan trọng nữa là bánh quà đầy mâm, nào là bánh, là trái cây,v.v. Toàn là những món ngon ưa thích.

 

 

Trong những lần ngồi chơi với ba má và gia đình, anh em chúng con thường hát cho ba má nghe. Lần đầu ba má nghe còn chưa quen và chưa hiểu hết nhưng cũng cảm được tinh thần vui tươi, phấn khởi trong lòng mỗi chúng con. Có một bài hát mà chúng con không bao giờ bỏ qua, đó là bài Ai bảo đi tu là khổ. Bài hát như một thông điệp nhắn nhủ tới ba má và gia đình: “Chúng con đi tu vui lắm, ba má không có chi phải lo sợ, buồn rầu cả. Nhà mình cứ yên tâm ở chúng con ạ”. Đặc biệt, có một câu trong bài hát mà chúng con hát đi hát lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh để ba má nhớ cho: “Cứ mỗi năm, ba má đến thăm, đem bánh quà đầy mâm”. Thế là cả nhà lại có một trận cười, phá tan niềm mong mỏi các con sẽ trở về nhà trong ba má.

Niềm vui lớn hơn nữa là kể từ chuyến thăm con, ba má đã biết ăn chay, đi chùa và nghe pháp thoại nhiều hơn. Từ đó, có sự chuyển hóa khổ đau, chấp nhận dễ dàng cho các con đi theo con đường hiểu và thương. Nhờ vậy, chúng con được nuôi dưỡng, hạnh phúc, yên tâm tu học và tinh tiến mỗi ngày.

Vun đắp tình huynh đệ

Ngồi chơi với anh chị em trong cây là một trong những niềm vui và hạnh phúc nữa của chúng con, nhất là lúc mới xuất gia. Gặp nhau là hân hoan, đùa vui nhưng vẫn giữ được sự hồn nhiên và tinh khôi. Chỉ cần có mặt với nhau thôi cũng đã toát lên sự trìu mến và gắn kết như một gia đình. Thỉnh thoảng, anh chị em trong cây gọi điện, tặng quà và viết thư cho nhau. Đó là cách để vun đắp tình huynh đệ, để niềm vui trong sự tu tập luôn được nhen nhóm, gìn giữ và không bao giờ tắt.

Những ngày mới xuất gia ở Tổ đình Từ Hiếu, sáu anh em sadi nam đã có những khoảnh khắc để đời bên nhau. Đó là được ngủ cùng phòng, ăn cùng nơi, cùng làm việc và đi chơi với nhau. Mỗi khi đi đâu, anh em “rồng rắn” nối nhau thành hàng. Khi đắp y, mang áo hậu thì rõ nóng, chỉnh tới chỉnh lui mà vẫn cảm thấy chưa ổn. Mỗi khi lạy xuống, đứng lên mà không khéo thì có thể xém té như chơi. Chuyện cạo tóc lại cũng không kém phần bối rối, nhưng rồi mọi chuyện cũng đâu vào đó khi được anh em giúp đỡ và yểm trợ nhau. Giờ đây, ai cũng làm tốt rồi nhưng mỗi khi nghĩ lại, chúng con đều cảm thấy được nuôi dưỡng và hạnh phúc lắm lắm.

Rồi mình lại đi chơi

Mỗi dịp làm biếng, chúng con thường được đi chơi. Lúc thì leo núi, khi thì lội suối, tắm biển. Có hôm đi từ tờ mờ sáng để ngắm bình minh, mặt trời ló rạng trên biển hay đi lúc chiều tà, leo lên ngọn núi cao, ngồi chơi trên mỏm đá. Chuyền nhau ly trà nóng, cái bánh rồi cùng ngắm cảnh núi đồi, trời mây và trăng sao. Trong không gian thênh thang, hùng vĩ ấy mà có được giây phút lắng yên nữa thì không còn gì tuyệt vời hơn. Bao suy tư, buồn phiền dường như được gửi trao cho Mẹ thiên nhiên ôm ấp và chuyển hoá.

 

 

Chúng con nhận ra rằng, sự thực tập trong đời sống hằng ngày không chỉ là khi ngồi thiền, tụng kinh và làm việc, mà còn là những giây phút vui vẻ, thoải mái khi đi chơi cùng nhau.

Rồi mình lại đi chơi
Lên đồi khi sương sớm
Lên mỏm đá cao ngồi
Nhìn xa qua mấy núi
Chỉ thấy mây mù thôi.

Vui buồn như sương khói
Chốc đầy chốc lại vơi
Phút giây lòng thanh thản
Nhận ra tiếng ai cười.

Trích từ bài hát Đâu đó tiếng ai cười
thơ: Chân Pháp Dụng
nhạc: Chân Hoa Nghiêm

Chương 21: Hai quyến rũ lớn nhất của đạo Bụt

Quyến rũ thứ nhất: Thần hóa Bụt, biến đạo Bụt thành một tôn giáo thuần túy tín mộ Chúng ta đã học là có hai thứ đạo Bụt: đạo Bụt của tuệ giác (le bouddhisme de la sagesse) và đạo Bụt của sự tín mộ (le bouddhisme de la dévotion). Có sự liên hệ giữa hai thứ đạo Bụt đó hay không? Điều chắc chắn là đạo Bụt của tín mộ được đông người theo hơn. Chúng ta luôn cần một đối tượng để thương yêu, kính ngưỡng và tôn thờ. Mỗi khi ta hướng tâm về đối tượng đó thì ta bớt khổ rất nhiều. Khi ta để tâm nương theo Bốn phép tùy niệm (niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới) thì ta bớt khổ, ta thấy khỏe, ta có tự do. Bốn phép tùy niệm có thể tu theo hai cách:

  • Ta biết trong tự thân mình có hạt giống của tuệ giác, của Bụt, Pháp, Tăng và Giới. Trong bản thân mình có những điều kiện của hạnh phúc gọi là tánh Bụt. Khi tiếp xúc với những điều kiện đó thì hạt giống tốt bừng dậy và ta thấy khỏe, nhẹ, tự do, hạnh phúc. Đó là tuệ giác.
  • Ta nghĩ Bụt, Pháp, Tăng là những gì rất thiêng liêng ở ngoài ta. Ta cần một đối tượng của sự ái mộ, sự tin yêu và khi nghĩ tới đối tượng đó ta thấy khỏe. Đó là đạo Bụt của sự tín mộ.

Sau khi đức Thế Tôn qua đời người ta rất thương tiếc. Người ta đặt vấn đề: Sau khi đức Thế Tôn qua đời rồi thì Ngài còn hay không còn, hay Ngài vừa còn vừa không còn? Ngay khi đức Thế Tôn còn tại thế người ta đã đặt vấn đề đó rồi. Ngay khi năm uẩn của đức Thế Tôn còn nhìn thấy được mà người ta đã có nhu yếu muốn tôn thờ, kính ngưỡng. Khi Ngài đi du hành sang nước khác thì người ta nhớ trông. Một lần khi đức Thế Tôn không có mặt tại thành Xá Vệ, người ta nhớ Ngài nên thầy A Nan đã lấy một nhánh cây ở Bồ Đề Đạo Tràng đem về trồng ở tu viện Cấp Cô Độc để người ta tới nhìn cho đỡ nhớ. Khi ta thờ một cái răng hay một móng tay của Bụt thì đó cũng là một sự thương yêu, tín mộ. Ta cần một đối tượng để thương yêu, tín mộ.

Ngành học Phật Thân Quan chuyên nghiên cứu về thân của Bụt. Bụt trước hết là một con người (living being) như chúng ta, đã sinh ra và chết đi ở một thời điểm nào đó của lịch sử. Nếu chỉ theo định nghĩa đó thôi thì sau khi qua đời Bụt không còn nữa. Ta chỉ còn ký ức về Bụt và ta chỉ thương yêu, ái mộ một ký ức mà không phải là một cái gì sinh động đang có thật. Vì vậy người ta muốn có một đức Bụt thường tại (living Buddha) cũng như trong Thiên Chúa giáo có một Chúa ngàn đời (living Christ). Sau khi Chúa bị đóng đinh và qua đời, người ta rất cần hình ảnh Chúa để tôn thờ nên mới có lễ Phục sinh. Trong đạo Bụt người ta cũng cần có Bụt ngàn đời để sùng kính. Có căn bản nào để ta có thể thiết lập một đức Bụt ngàn đời hay không? Các nhà Phật học cho là có vì giáo lý của đức Thế Tôn nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Không những đức Thích Ca mà cả anh, chị cũng có Phật tánh. Phật tánh đó là bất diệt, Phật tánh đó là Bụt. Bụt không chỉ là hình hài mà Bụt còn là Phật tánh.

Trong thời đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài có nói tới chuyện đó. Ngài đi thăm thầy Vakkali và hỏi:

– Thầy còn tiếc nuối gì không trước khi chết?

– Dạ bạch đức Thế Tôn, con không còn tiếc nuối gì. Con chỉ hơi tiếc là con bệnh quá nên không thể lên núi Thứu để thăm Ngài.

(Thầy này ngày xưa có vướng mắc với đức Thế Tôn nên Ngài không cho làm thị giả nữa. Nhưng sau đó thầy cũng thoát ra và tu được. Khi thầy sắp mất trong nhà của một người thợ gốm thì Bụt tới thăm). Bụt nói:

– Nhục thân của tôi, hình hài năm uẩn của tôi đây là vô thường, sinh diệt. Thầy đã có pháp thân của tôi rồi thì tại sao thầy phải cần hình hài này làm gì nữa?

Nếu một ngày nào nhục thân chấm dứt thì pháp thân vẫn còn tồn tại mãi mãi. Bụt cũng là pháp thân (principe vivant), dharmakāya. Bụt cũng là một nguyên lý tâm linh (principe spirituel), là Phật tánh (buddha nature).

Nhìn lại hình hài của mình, ta thấy hình hài này một ngày kia thế nào cũng sẽ tan rã. Sự thật thì nó đang tan rã chứ không phải sẽ tan rã. Nhưng nếu có tu tập, ta sẽ chế tác được năng lượng của niệm, định và tuệ. Năng lượng này sẽ luân lưu trong thế giới và còn mãi. Những tư tưởng lành, tư tưởng tha thứ, thương yêu vẫn còn. Những lời nói, những câu chuyện, những bài pháp thoại vẫn còn. Ta thấy rõ là ta cũng có pháp thân như Bụt. Một lời nói dễ thương, có tha thứ, bao dung không bao giờ mất được, nó vẫn còn trong người kia và còn trên thế giới. Đó là pháp thân của ta, khi hình hài này không còn nữa thì pháp thân vẫn tiếp tục. Vì vậy pháp thân là bất diệt, chúng ta có cơ sở để thiết lập một vị Bụt ngàn đời (the living Buddha).

Sau khi Bụt nhập diệt khoảng 140 năm, giáo đoàn đã chia làm hai bộ phái: Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ.

Chư Phật, Thế Tôn giai thị xuất thế (các vị Bụt thuộc về thế giới xuất thế gian) Đại Chúng Bộ chủ trương rằng Bụt rất khác người, tất cả những gì thuộc về Bụt đều có tính cách thiêng liêng hay xuất thế gian (lokottara), còn những gì thuộc về thế gian (loka) thì không có tính cách thiêng liêng. Uẩn xứ và giới của Bụt đều xuất thế gian. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức của Bụt là thanh tịnh, xuất thế gian, còn năm uẩn của chúng ta là thế gian. Mười hai xứ tức sáu căn và sáu trần của Bụt là xuất thế gian, còn sáu căn và sáu trần của chúng ta, những người trần mắt thịt, là thế gian. Mười tám giới (gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức) của Bụt là xuất thế gian, còn sáu căn, sáu trần và sáu thức của chúng ta là thế gian.

Chủ trương thứ tám của Đại Chúng Bộ là:

Chư Phật thọ lượng diệc vô biên tế (mạng sống của Bụt không có biên giới)

Trong kinh Pháp Hoa tư tưởng trên đã được khai triển một cách tuyệt đối: thọ mạng của chư Bụt là không có biên giới hay vô lượng thọ (infinite life).

Do đó chúng ta biết có một khuynh hướng muốn thần thánh hóa Bụt, làm Bụt trở thành đối tượng của sự thờ phụng, sự tín mộ và biến đạo Bụt thành ra một tôn giáo. Đạo Bụt của tuệ giác trở thành ra đạo Bụt của sự tín mộ. Chư Bụt thuộc về thế giới xuất thế gian, có thọ mạng không biên giới còn chúng ta là những phàm phu có sinh có diệt. Chư Bụt là không sinh không diệt. Nếu bề ngoài chúng ta thấy chư Bụt như có sinh diệt thì đó là do chư Bụt giả bộ như vậy thôi.

Với chủ trương đó, Đại Chúng Bộ đã vạch một ranh giới giữa thế gian và xuất thế gian, giữa phàm và thánh. Bụt là hoàn toàn thánh còn chúng ta là hoàn toàn phàm. Đó là thế lưỡng nguyên, không trung thực với giáo lý bất nhị mà Bụt đã dạy. Sen chỉ là sen, bùn chỉ là bùn và sen không dính líu tới bùn. Trong khi đó chúng ta biết rất rõ không có bùn thì không có sen. Làm gì có xuất thế nếu không có nhập thế, không biết các thầy trong Đại Chúng Bộ có nhớ tới điều này trong khi đưa ra những định đề này: Muời tám giới của chư Bụt là xuất thế gian và thọ mạng của chư Bụt là vô lượng vô biên trong khi chúng ta chỉ sống tới một trăm năm là tối đa.

Đứng về phương diện đạo Bụt của tuệ giác, nếu quán chiếu thì chúng ta thấy không có gì là không thuộc về xuất thế gian và thế gian cùng một lúc. Ví dụ như đám mây là không sinh không diệt. Tuy không còn ở trên trời nhưng không có nghĩa là đám mây đã chết. Nếu khôn khéo ta sẽ thấy được sự tiếp nối của đám mây trong cơn mưa, trong lọn tuyết hay trong dòng sông. Không phải chỉ có đức Thế Tôn mới có thọ mạng vô lượng mà đám mây cũng có thọ mạng vô lượng và chính chúng ta, những phàm phu tục tử, cũng có thọ mạng vô lượng. Bản chất của chúng ta là không diệt, khoa học hiện nay cũng nói vật chất và năng lượng là bất sinh bất diệt. Chia chẻ xuất thế gian và thế gian thành hai thế giới khác nhau là một sai lầm căn bản.

Chủ ý của Đại Chúng Bộ là tạo ra một đối tượng để cung kính, tôn thờ. Đó là một nhu yếu rất con người. Chỉ có đạo Bụt của tuệ giác thôi thì không đủ vì đạo Bụt của tuệ giác chỉ dành cho một số ít người, những người có thì giờ để nói về sắc và không, chân như và Niết bàn, những người có chút trí tuệ. Nếu cuộc sống quá chật vật, đầu tắt mặt tối để kiếm cơm áo thì làm sao người ta có thì giờ nghiên cứu về uẩn, xứ, giới, chân như hay Bát nhã? Đạo Bụt của tuệ giác chỉ phục vụ được một số ít người. Bụt là người đại từ đại bi, giáo lý của Ngài phải ôm trùm được tất cả mọi người, giàu cũng như nghèo, già cũng như trẻ, dại cũng như thông minh. Vì vậy phải có đạo Bụt của sự tín mộ. Đó là nhu yếu tất nhiên của con người. Khi đạo Bụt đã trở thành một tôn giáo có tính cách toàn cầu, có rất đông người theo thì phải tạo ra đạo Bụt của sự tín mộ. Chúng ta có thể pha loãng đạo Bụt của tuệ giác thành ra đạo Bụt tín mộ. Một bên thì dạy ngồi thiền bảy năm thì mới giác ngộ còn một bên thì nói chỉ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” mười lần thôi cũng đã giác ngộ rồi. Nếu không dễ như vậy thì những người làm ăn đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm làm sao có được cơ hội? Trong khi nghiên cứu đạo Bụt, chúng ta có thể hiểu đạo Bụt tín mộ là do lòng từ bi rất lớn mà có.

Lý lẽ (logic) của tuệ giác chỉ dành cho những người có đủ thông minh. Nếu Bụt và chúng sanh không khác nhau thì ta cần gì phải lạy Bụt? Nếu Ta bà và Tịnh độ là một thì ta cần gì phải niệm Bụt để cầu xin sang Tịnh độ? Nếu không có dơ, không có sạch (bất cấu bất tịnh) thì ta cũng có thể sống bê bối sao?

Vì vậy lý lẽ của đạo Bụt tuệ giác chỉ dành riêng cho một số người ưu tú nào thôi. Chúng ta cần có một đạo Bụt của sự tín mộ cho đại đa số quần chúng.

Khi lạy Bụt chúng ta có thể nghĩ rằng đức Thích Ca vẫn còn tuy hình hài của Ngài ngày xưa đã buông bỏ rồi. Đó là Bụt ngàn đời (the living Buddha). Ngài còn đó cho chúng ta lạy xuống. Người ta học hỏi tuệ giác từ Bụt, người ta khâm phục Bụt đã đành nhưng người ta còn thương thầy của mình nên có khuynh hướng muốn thần hóa thầy của mình. Tuy có sự nguy hiểm nhưng đó là một chuyện rất là tự nhiên của con người. Sau này chúng ta có một đạo Bụt hoàn toàn trông cậy vào tha lực. Người ta chấp nhận sự thật là mình còn yếu kém, không có khả năng tự cứu, chỉ hoàn toàn trông cậy vào tha lực. Khi lạy xuống năm vóc nằm sát đất, ta nghĩ: Con hoàn toàn không làm được gì hết, con không có khả năng tự cứu mình. Con đặt hết thân mạng của con cho Bụt, để Bụt lo hết cho con. Trong trạng thái đó, người đang lễ lạy có sự bình an, có chỗ nương tựa là giúp cho người đó đỡ hơn rồi, dù cho đó là một hình thức rất pha loãng của đạo Bụt. Chúng ta đừng đứng vào vị trí của đạo Bụt tuệ giác mà phê phán hay lên án những hình thái thực tập khác. Chúng ta chưa có đủ cái thấy nên chưa có từ bi, chưa có đủ cái hiểu nên chưa có cái thương. Cho rằng “đạo Bụt của anh là sai, đạo Bụt của tôi là đúng” là chưa hiểu, mà chưa hiểu thì không thương được.

Nhưng đứng về phương diện đạo Bụt của tuệ giác chúng ta vẫn có thể nói: Sau khi đã nhập diệt, đức Thích Ca vẫn còn với chúng ta. Chúng ta thấy pháp thân của Ngài vẫn tiếp tục. Tuy hình hài của Bụt đã tiêu hoại rồi, nhưng giáo lý và sự hành trì đạo Bụt vẫn tiếp tục giúp cho nhiều chế độ độc tài, tàn bạo trở nên nhân bản, đã cứu độ cho biết bao thế hệ con người từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Tuy không còn hình hài, nhưng Bụt vẫn còn. Cũng như trên trời không còn đám mây nhưng ta vẫn có dòng sông, có trà để uống, có nước để nấu cơm.

Nhưng trong Bụt ngàn đời đó, ta phải thấy tất cả đều chuyển biến. Ta phải thấy Bụt trong hình dáng bất ngờ. Tôi có câu thư pháp: ”Smile to the cloud in your tea.” (Hãy cười với đám mây trong chén trà của anh). Nhìn vào chén trà mà thấy đám mây là ta bắt đầu có cái nhìn vô tướng. Tuy không có hình tướng của đám mây, nhưng đám mây đang ở trong trà. Không có hình ảnh của Siddhārtha, nhưng Bụt vẫn đang có trong đời sống hằng ngày của mình. Tôi có viết câu thư pháp: You may be in the company of a Buddha, you may be in the company of several Boddhisattvas but you don’t know. Bạn có thể đang cùng đồng hành với một vị Bụt, hay với rất nhiều vị Bồ tát mà bạn không hề biết. Bụt của thế hệ chúng ta có thể đang mặc quần Jeans hay T- shirt mà ta không biết. Có những vị Bồ tát ăn mặc lôi thôi, còn rất trẻ nhưng có tâm rất lớn và trong sáng. Khi viết câu thư pháp đó tôi rất vui: Anh có thể sống với một vị Bụt mà không biết. Anh có thể sống với những vị Bồ tát mà không hay. Anh có mắt mà như không. Bụt Thích Ca vẫn còn đó cho chúng ta trong đời sống hằng ngày. Học được pháp môn vô tướng, ta thấy Bụt Thích Ca đang có mặt thật sự dưới những hình thái khác, có thể là những hình thái rất bất ngờ, cũng như trong ly trà có đám mây ngũ sắc ngày xưa. Ta đừng bị kẹt vào tướng. Làng Mai chúng ta ý thức được điều đó nên ta rất cẩn thận, ta phải có khả năng nhận diện được một vị Bụt hoặc một vị Bồ tát. Chúng ta tập nhận diện hành tinh xanh là một vị đại Bồ tát, mẹ của các vị Bụt và các vị Bồ tát, mẹ của muôn loài. Ta tiếp xúc với vị Bồ tát này suốt ngày đêm mà không biết và ta đi tìm một vị Bồ tát ở một hành tinh khác mà ta không chắc là có hay không. Trong khi đó đất Mẹ là một vị Bồ tát có thật mà ta có thể tiếp xúc được, không chỉ bằng tâm mà còn có thể tiếp xúc bằng hai bàn tay hay hai bàn chân. Trong khi trồng rau, ta nắm lên hai nắm đất, đó là vị Bồ tát của mình. Với chánh niệm, định lực và tuệ giác, ta có thể thấy được điều này.

Chúng ta có Bụt Thích Ca, ta biết Bụt Thích Ca không phải là vị Bụt duy nhất. Chính đức Thế Tôn có nói tới bảy vị Bụt (thất Phật) trong đời của Ngài, hay 24 vị Bụt, hay 1000 vị Bụt. Chúng ta có thể thấy mặt trời của chúng ta là một vị Bụt, gọi là Bụt A Di Đà, Bụt Vô Lượng Thọ, Bụt Vô Lượng Quang. Đó là một vị Bụt có mặt cho ta mỗi ngày mà ta thờ ơ, ta lơ là. Nếu không có mặt trời, tức Bụt Tỳ Lô Giá Na thì làm gì có hơi ấm, có sự sống trên thế giới. Chúng ta đi tìm gì trong khi người thương của ta có mặt 24 giờ đồng hồ cho ta mà ta không hề có ý thức. Ta đi tìm một hình ảnh nào đó để cung kính, để thờ phụng trong khi các vị Bụt và Bồ tát lớn đang có mặt thật trong đời sống hằng ngày của ta mà ta coi như không có. Ngay chính dòng sông chảy qua thành phố của ta cũng là một vị Bụt. Tôi thường nhắc các thầy, các sư cô và các Phật tử ở Paris, mỗi khi tới thiền đường Hơi Thở Nhẹ và đi thiền hành xuống sông Marne thì hãy nhìn sông Marne như một vị Bồ tát, một vị Bồ tát tươi mát, trung kiên luôn luôn có đó cho chúng ta. Chúng ta có thể bước những bước chân thiền hành rất hạnh phúc trên bờ sông Marne.

Chúng ta có Bụt Akṣobhya (Bất động), Bụt Amitābha (Ánh sáng vô lượng) hay Bụt Amitāyus (Thọ mạng vô lượng), Bụt Bhaiṣajyaguru (Dược sư) có thể trị liệu cho ta trong đời sống hằng ngày. Chúng ta có Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Văn Thù. Bồ tát Văn Thù là Bồ tát của trí tuệ, khi có hiểu thì ta có thể tha thứ, thương yêu và chấp nhận được. Bồ tát Văn Thù có thể ở ngay bên cạnh chúng ta. Chúng ta có thể có một người anh, người chị hay người em có khả năng hiểu. Đó là một vị Bồ tát, chúng ta phải học từ người anh, người chị, người em đó để ta cũng có thể hiểu và tha thứ được. Ta không có hạnh phúc là vì ta không hiểu. Ta trách móc người kia không hiểu mình, làm khổ mình, nhưng thực ra thì chúng ta cũng không hiểu mình và không thấy chung quanh ta có những vị Bụt và Bồ tát.

Vì nhu yếu muốn độ được nhiều người nên ngoài đạo Bụt của tuệ giác, chúng ta còn cần tới đạo Bụt của tín mộ. Nhưng ta phải luôn luôn nhớ là đừng để đạo Bụt của tín mộ ở một mình, vì đạo Bụt tín mộ là một đạo Bụt pha loãng nên chúng ta phải có đạo Bụt nguyên chất. Chúng ta tu và có cơ hội tiếp xúc được với đạo Bụt tuệ giác là một sự may mắn, một ân huệ lớn. Chúng ta có bổn phận phải giữ cho đạo Bụt nguyên chất đừng mất đi, và với đạo Bụt nguyên chất ta mới có thể pha loãng. Chúng ta phải giữ được chất liệu tâm linh và tuệ giác, điều này rất quan trọng. Khi pha loãng chúng ta cũng phải rất cẩn thận, vì nếu thấy thành công quá thì ta có thể nghĩ rằng mình không cần cái nguyên chất nữa. Trong y khoa có loại thuốc gọi là thuốc trấn an (placebo), trong thuốc đó không có chất gì cả, chỉ là giả dược. Nhưng khi người ta uống thuốc đó vào thì thấy khỏe ngay, tại vì người ta có niềm tin. Ở Việt Nam có những người làm ăn như thế này: họ lấy một chén nước lạnh để lên bàn thờ, họ đọc một câu chú, đốt một đạo bùa rồi lấy tro quậy vào nước cho người bệnh uống và người này lành bệnh. Đó là thuốc trấn an. Thấy làm ăn được, ta nghĩ mình không cần đạo Bụt nguyên chất nữa và hoàn toàn đi về phía mê tín, đánh mất tuệ giác, như vậy thì rất tội cho Bụt.

Quý vị đã học được bài học của bao dung, hiểu biết. Chúng ta có thể cùng đi tới kết luận: Nếu có cơ duyên, có phúc tiếp xúc được với đạo Bụt nguyên chất thì ta phải tìm cách bảo hộ đạo Bụt của tuệ giác. Nếu cần ta có thể có đạo Bụt tín mộ, là đạo Bụt pha loãng nhưng đừng bao giờ quên là nếu không có nguyên chất thì pha loãng một hồi sẽ chỉ còn lại nước lạnh mà thôi. Thần thánh hóa đức Thế Tôn, biến đạo Bụt thành một tôn giáo thuần túy tín mộ là một trong hai quyến rủ lớn trong lịch sử của đạo Bụt. Việc làm này có thể phát xuất từ tâm từ bi hay ý muốn thành công, nhưng có sự nguy hiểm là nếu ta không duy trì được đạo Bụt nguyên chất thì mai này chúng ta sẽ đánh mất di sản quý báu mà đức Thế Tôn đã để lại.

Quyến rũ thứ hai: Tìm một cái ngã để giải thích rõ ràng và hướng dẫn sự tu học

Đức Thế Tôn nói không có ngã, mà nói không có ngã thì rất khó giải thích. Không có ngã thì ai đi luân hồi? Không có ngã thì cái gì thoát ra khỏi thân này, đi vào thân khác để luân hồi? Không có ngã thì ai trong kiếp này làm người, kiếp sau làm chim, kiếp sau nữa thì làm cá, làm trời rồi xuống làm người trở lại? Không có ngã thì ai gây nghiệp và ai thọ báo? Không có ngã thì ai thương ai?

Trong đạo Bụt tuệ giác, đi sâu vào ta thấy không cần có một cái ngã mà vẫn có sự thương yêu, vẫn có sự luân hồi. Ví dụ như đám mây không có ngã mà vẫn đi luân hồi hoài hoài, đám mây là bất sinh bất diệt. Trong đạo Bụt tuệ giác thì không có ngã nhưng vẫn có luân hồi, có tạo nghiệp và có quả báo. Nhưng có bao nhiêu người hiểu được điều này? Chỉ một phần nhỏ ưu tú có thể hiểu được mà thôi, nên nếu chỉ giảng dạy cho một phần nhỏ đó thì rất tội cho đại đa số quần chúng. Đạo Bụt tuệ giác chỉ để dành cho một số thầy tu may mắn có thì giờ chuyên tu. Đạo Bụt đó không phải để cho đại đa số quần chúng đang đau khổ. Chúng ta phải có một đạo Bụt của đại chúng, của sự tín mộ. Vì vậy có một khuynh hướng rất mạnh muốn tạo ra một cái gì tương đương với một cái ngã để giải thích về luân hồi và nghiệp báo một cách dễ dàng. Trong đạo Bụt xuất hiện những tông phái như Độc Tử Bộ, Chánh Lượng Bộ hay Kinh Lượng Bộ. Những bộ phái này chủ trương là có ngã để làm chủ thể cho sự luân hồi, sự tạo nghiệp và sự thọ báo. Để không trái chống lại những lời Bụt đã dạy trong kinh điển liễu nghĩa, họ gọi cái ngã đó là cái ngã thắng nghĩa, tức thắng nghĩa bổ đặc già la. Bổ đặc già la (pudgala) là ngã. Các bộ phái này có cơ sở lý luận dựa trong kinh. Họ cho rằng trong kinh rõ ràng là Bụt nói có ngã, ví dụ như trong kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya) có đoạn nói: Có một người mà sự xuất hiện của người đó đem lại lợi lạc cho biết bao người khác. Người đó là ai? Người đó là đức Thế Tôn. Trong khi đó Thượng Tọa Bộ chủ trương là Bụt dạy không có ngã, chỉ có năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mà không có người. Nhưng khi Bụt nói “thầy A Nan, tôi với thầy lên đồi chơi” thì rõ ràng là có người. Thật ra Bụt nói không có một linh hồn bất tử (ātman). Trong đoàn thể của đức Thế Tôn có bốn đôi và tám bậc thánh quả (tứ song bát bối): Nhập lưu hướng và Nhập lưu quả, Thất lai hướng và Thất lai quả, Nhất lai hướng và Nhất lai quả, A la hán hướng và A la hán quả. Đó là những người (pudgala) rõ ràng. Ngay trong kinh Bụt đã sử dụng những từ như “tôi với ông”, “người này với người kia”, như trong kinh Trọng Đảm (kinh Gánh Nặng): Có năm gánh nặng là năm uẩn và có người gánh cái gánh đó lên và bị ràng buộc vào năm gánh nên người đó khổ đau. Bây giờ nhờ tu tập đúng pháp môn mà người đó đặt được gánh nặng xuống và giải thoát. Ngoài năm uẩn phải có người gánh tại vì cái gánh không tự nó gánh được. Vì vậy rõ ràng là Bụt nói có cái ngã. Họ đã trích dẫn không biết bao nhiêu câu trong kinh để chứng tỏ đức Thế Tôn nói có ngã rõ ràng.

Đức Thế Tôn dạy tất cả đều vô thường, nếu đã vô thường thì không có một cái ngã thường tại. Nhưng nếu cho cái ta đó là cái gì không thường tại, biến chuyển từng giây từng phút thì có thể được. Bên Thượng Tọa Bộ thì quá hình thức và cố chấp. Ví dụ như quân đội chỉ là những người lính tập hợp lại, cho nên ta có cảm giác là có quân đội nhưng thật ra chỉ có những người lính mà không có quân đội, không có rừng mà chỉ có cây thôi. Chủ trương của Thượng Tọa Bộ là ngã không pháp hữu. Những người lính là có thật nhưng quân đội chỉ là sự tập hợp nhất thời.

Một người đi ngang qua một thầy đang ngồi thiền, người đó hỏi:

– Bạch thầy, thầy có thấy một người đàn bà vừa đi ngang qua đây không?

Thầy đó trả lời:

– Tôi không thấy người đàn bà nào hết. Tôi chỉ thấy có một sự tập hợp của năm uẩn chạy qua đây thôi.

Chủ trương của Thượng Tọa Bộ quá cứng và quá giáo điều nên các bộ phái khác đã phản ứng lại mà trước hết là Độc Tử Bộ. Độc Tử Bộ đặt ra những danh từ như “phi tức phi ly uẩn ngã” 非 即 非 離蘊 我 , có nghĩa là ngã không phải là uẩn, cũng không nằm ngoài uẩn. Họ đưa ra cái gọi là Thắng nghĩa bổ đặc già la 勝 義 補 特 伽 羅. Người ta phân biệt ra:

  • Phàm ngã
    • Thần ngã (atma) tức ngã của Bà la môn giáo, sau này thần ngã sẽ đoàn tụ với đại ngã (brahman) và được giải thoát hoàn toàn.
    • Thắng nghĩa ngã
  • Đại ngã, tức cái ngã trong Niết bàn, không còn phân biệt ra thành từng cá nhân.

Thắng nghĩa bổ đặc già la không phải là năm uẩn mà cũng không nằm ngoài năm uẩn. Cũng như lửa và củi, lửa không thể tự nó có mà phải nương vào củi mới có được. Thắng nghĩa ngã phải có năm uẩn mới biểu hiện được. Lửa không phải là củi nhưng ngoài củi thì không thể có lửa. Đó là một ví dụ đưa ra để nói về ngã. Vì vậy đức Thế Tôn nói không có phàm ngã nhưng có thắng nghĩa ngã, và người ta dùng thắng nghĩa ngã để giải thích luân hồi, nghiệp và quả báo. Các vị chủ trương có một cái ngã, nhưng trình bày cái ngã đó như thế nào để đừng đi ngược lại với những điều đức Thế Tôn đã dạy, và họ vẫn được các bộ phái khác trong đạo Bụt chấp nhận. Người ta đã theo rất đông vì giáo lý đó dễ hiểu: có cái ngã thì mới có người đi luân hồi, có người gây nghiệp và có người nhận quả báo. Đó là một nhu yếu rất cần thiết. Luân hồi, nghiệp báo mà không có ngã thì quá khó hiểu, giáo lý này chỉ dành cho rất ít người. Lúc thầy Huyền Trang sang Ấn Độ du học vào thế kỷ thứ VII thì số các vị xuất gia thuộc Pudgalavāda đã lên tới sáu mươi ngàn thầy, họ là một bộ phận quan trọng của tăng đoàn.

Khi học ta thấy rõ ràng sở dĩ có những bộ phái chủ trương Thắng nghĩa bổ đặc già la là vì phía Thượng Tọa Bộ có thái độ hơi cứng và giáo điều nên đạo Bụt chỉ giới hạn trong một số ít người. Người ta khó hiểu được nghiệp báo, luân hồi theo lối vô ngã. Sau này Đại Thừa xuất hiện và cũng muốn trung thực với giáo lý vô ngã của đức Thế Tôn. Tuy không dùng “phi tức phi ly uẩn ngã” hay “thắng nghĩa bổ đặc già la” nhưng Đại Thừa cũng sử dụng một cái rất gần với cái ngã. Duy Thức thì dùng thức A lại da (Alaya), gần giống như cái ngã. A lại da thức hay tàng thức là phần tâm thức chứa đựng tất cả những kinh nghiệm của chúng ta. Ngay trong Thượng Tọa Bộ cũng có hữu phần thức (bhavānga), trong Đại Chúng Bộ có căn bản thức (mūla vijñāna). Cả hai bộ phái lớn này cũng có khuynh hướng tìm một cái gần như cái ngã. Người ta còn nói tới cùng sinh tử uẩn, tức là cái uẩn tồn tại cho tới khi ta giải thoát sinh tử mới thôi. Đó là sự quyến rủ thứ hai: muốn lập ra một cái tương đương với cái ngã để có thể giải thích luân hồi, nghiệp báo một cách dễ dàng. Khuynh hướng này có trong tất cả các tông phái Phật giáo.

Đại Thừa Duy Thức tông (Pháp Tướng tông) chủ trương A lại da thức, Tam Luận tông (Pháp Tánh tông) chủ trương Phật tính, Chân như, Như Lai tạng, Pháp thân. Đây đều là những cái ngã trá hình. Tuy rằng Đại Thừa khéo hơn, dùng những danh từ không làm cho người ta nghĩ tới cái ngã, nhưng A lại da thức, Phật tính, pháp thân đều là những cái gần như là thường tại.

Khi vừa lớn lên tôi đã được tiếp cận với đạo Bụt Đại thừa, đó là một sự may mắn. Sau đó khi lớn hơn, tôi được tiếp cận với đạo Bụt Tiểu thừa, đạo Bụt Nguyên thỉ. Đó cũng là một sự may mắn lớn, như một sự trở về với suối nguồn. Điều hay nhất trong đạo Bụt Đại thừa là cái nhìn phóng khoáng. Đại thừa ý thức được là mình đang sử dụng những hình thức mới để chuyên chở những cái rất cũ, dùng bình mới để đựng rượu cũ. Những tinh hoa trong đạo Bụt Nguyên thỉ cần có một cách diễn bày mới để người ta có thể tiếp cận dễ dàng hơn, đó là mục đích của Đại thừa. Đại thừa không khác với Tiểu thừa, tuy dùng hình thức mới nhưng đã chuyên chở được tất cả những tinh ba của đạo Bụt nguyên thỉ.

Trong kinh Đại Bát Nhã có những câu mà khi đọc ta biết nó đã được lấy ra từ các kinh Nguyên thỉ. Ví dụ như trong kinh Niệm Xứ có câu: Khi vị tỳ kheo cúi xuống thì vị tỳ kheo biết là mình cúi xuống. Khi vị tỳ kheo ngẩng lên thì vị tỳ kheo biết là mình đang ngẩng lên. Khi vị tỳ kheo khoác áo cà sa (sanghati) thì vị tỳ kheo biết là mình đang khoác áo cà sa (sanghati). Khi vị tỳ kheo ôm bát thì vị tỳ kheo biết là mình đang ôm bát. Đó là sự thực tập chánh niệm. Kinh Đại Bát Nhã chỉ sửa lại một chữ: Khi vị Bồ tát cúi xuống thì vị Bồ tát biết là mình đang cúi xuống. Khi vị Bồ tát ngẩng lên thì vị Bồ tát biết là mình đang ngẩng lên. Khi vị Bồ tát đắp sanghati thì vị Bồ tát biết là mình đang đắp sanghati. Khi vị Bồ tát ôm bát thì vị Bồ tát biết là mình đang ôm bát.

Đại thừa đã trình bày lại những kinh Nguyên thỉ rất hay, rất khéo và hấp dẫn. Ví dụ như trong kinh Pháp Hoa có nhiều phẩm và mỗi phẩm giống như một màn kịch. Hồi đó ở Ấn Độ người ta rất thích xem kịch và tư trào đó thấm vào trong đạo Bụt nên kinh Pháp Hoa được dựng lại theo phong cách của kịch. Đọc kỹ ta thấy những tinh ba của kinh Nguyên thỉ có rất nhiều trong kinh Đại thừa. Theo nguyên tắc thì Bụt Thích Ca đã tịch, không còn tiếp tục nói pháp trên núi Thứu hay trong tu viện Cấp Cô Độc. Nhưng đó chỉ là nhục thân, pháp thân của Bụt vẫn còn và pháp thân có thể có mặt ở nhiều chỗ trong nhiều thời gian. Ngay trong thời Bụt đã có từ pháp thân, Bụt đã nói: Khi hình hài của tôi tan hoại thì pháp thân của tôi vẫn còn để hướng dẫn quý vị. Trong đạo Bụt Đại thừa, danh từ pháp thân có một ý nghĩa mới là pháp thân của Bụt đang có mặt cho chúng ta trong giây phút hiện tại và bất cứ ở đâu. Nếu có niệm, định ta có thể nghe pháp thân thuyết pháp bất cứ lúc nào. Pháp thân chưa bao giờ ngừng thuyết pháp, bông hoa vẫn chưa bao giờ ngưng lời hát ca.

Nếu biết lắng nghe tiếng gió thổi qua cây thông thì ta nghe được giáo lý Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần. Ngồi trên bờ biển nghe tiếng hải triều lên là ta đang nghe tiếng đức Thế Tôn thuyết pháp. Đức Thế Tôn vẫn còn và vẫn đang thuyết pháp qua lời chim, qua tiếng thông reo, tiếng hải triều. Pháp thân vẫn đang thuyết pháp, tại ta điếc nên ta không biết lắng nghe mà thôi. Trong kinh A Di Đà cũng có nói: Này Xá Lợi Phất, ở cõi Tịnh độ có hàng cây bảy báu mà mỗi khi gió thổi qua, nếu biết lắng nghe thì ta sẽ nghe thuyết pháp Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần. Nghe tiếng gió xào xạc trong cây, nghe tiếng thuyết pháp thì ta trở về niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng. Kinh A Di Đà là một kinh Đại thừa.

Nhìn mặt trăng có chánh niệm thì ta thấy mặt trăng đang thuyết pháp, mặt trăng là sự tiếp nối của đức Thích Ca. Nhìn một buổi sáng bình minh hùng vĩ, chói lọi ta thấy đó là một bài thuyết pháp rất hùng tráng. Đức Thích Ca vẫn đang còn tiếp tục. Phật giáo Đại thừa cung cấp cho chúng ta một nguồn thi ca rất lớn. Chim hót, thông reo, hoa nở, đó là tiếng nói của pháp thân. Hồi còn trẻ tôi có làm bài thơ thế này:

Sáng hôm nay

Tới đây

Chén trà nóng

Bãi cỏ xanh

Bỗng dưng hiện bóng hình em* ngày trước

Bàn tay gió

Dáng vẫy gọi

Một chồi non xanh mướt

Nụ hoa nào

Hạt sỏi nào

Ngọn lá nào

Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh

Tiếng gọi (thơ Nhất Hạnh)

(* em ở đây là Bụt)

Không cần phải lên núi Thứu mới được nghe kinh Pháp Hoa. Ngồi ở Úc, uống một ly trà, nhìn bãi cỏ xanh cũng nghe được tiếng của Ngài đang thuyết pháp. Trúc vàng, trúc tím, hoa thủy tiên đều là những pháp thân đang thuyết pháp. Đó là cái đẹp của Đại thừa. Đại thừa đã thay thế vị A la hán gầy ốm bằng hình ảnh của một vị Bồ tát tươi mát, đẹp đẽ để có thể hấp dẫn được con người của thời đại mới. Vị Tỳ kheo tu cho mình nhiều hơn, còn vị Bồ tát thì vừa tu cho mình vừa tu cho người. Đại thừa chỉ thay thế chữ “vị Tỳ kheo” bằng chữ “vị Bồ tát”.

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà ta có thể có đủ tư liệu về các tông phái Phật giáo như Nguyên thỉ, Tiểu thừa, Đại thừa. Chúng ta có rất nhiều may mắn nhưng chúng ta cũng nên cẩn thận bởi hai sự quyến rủ rất hấp dẫn của đạo Bụt:

  1. Thần thánh hóa đức Thế Tôn. Thần thánh hóa đức Thế Tôn cũng hay nhưng cũng có sự nguy hiểm.
  2. Tìm một cái thay cho cái ngã để giải thích được sự luân hồi, nghiệp báo một cách dễ dàng hơn. Nếu không giáo điều thì chúng ta không cần phải chống đối nhau. Không có ngã cũng đúng mà có ngã cũng đúng. Nếu ta biết cái ngã đó là một sự tiếp tục không thường tại, không vĩnh viễn, không có bản tính riêng biệt thì ta cũng có thể nói tới cái ngã.

Chúng ta có Bụt Thích Ca, ta biết Bụt Thích Ca không phải là vị Bụt duy nhất. Chính đức Thế Tôn có nói tới bảy vị Bụt (thất Phật) trong đời của Ngài, hay 24 vị Bụt, hay 1000 vị Bụt. Chúng ta có thể thấy mặt trời của chúng ta là một vị Bụt gọi là Bụt A Di Đà, Bụt Vô Lượng Thọ, Bụt Vô Lượng Quang. Đó là những vị Bụt đang có mặt cho ta mỗi ngày mà ta ơ thờ, ta lơ là. Nếu không có mặt trời, tức Bụt Tỳ Lô Giá Na thì làm gì có hơi ấm, có sự sống trên thế giới. Chúng ta đi tìm gì trong khi người thương của ta có mặt 24 giờ đồng hồ cho ta mà ta không hề có ý thức. Ta đi tìm một hình ảnh nào đó để cung kính, thờ phụng trong khi các vị Bụt và Bồ tát lớn có mặt thật trong đời sống hằng ngày của ta mà ta coi như không có. Ngay chính dòng sông chảy qua thành phố của ta cũng là một vị Bụt, một vị Bồ tát. Chúng ta có thể bước những bước chân thiền hành rất hạnh phúc trên những bờ sông như thế.

Quý vị đã học được bài học của bao dung, hiểu biết. Chúng ta đi tới kết luận: Nếu có cơ duyên, có phúc tiếp xúc được với đạo Bụt nguyên chất thì ta phải tìm cách bảo hộ đạo Bụt của tuệ giác. Nếu cần ta có thể làm một đạo Bụt tín mộ, pha loãng nhưng đừng bao giờ quên là nếu không có nguyên chất thì pha một hồi sẽ chỉ còn lại nước lạnh mà thôi. Thần hóa đức Thế Tôn, biến đạo Bụt thành một tôn giáo thuần túy tín mộ là một trong hai quyến rủ lớn trong lịch sử của đạo Bụt. Việc làm này có thể phát xuất từ tâm từ bi hay ý muốn thành công, nhưng có sự nguy hiểm là nếu ta không duy trì được đạo Bụt nguyên chất thì mai này chúng ta sẽ đánh mất di sản quý báu mà đức Thế Tôn đã để lại.

Chương 20: Chuyển luân Thánh vương

Giáo lý dạy cho các vương quốc: Kinh Chuyển Luân Thánh Vương

Chúng ta đã học kinh Người Áo Trắng và kinh Giáo Hóa Người Bệnh là hai kinh Bụt đã dạy cho thương gia Cấp Cô Độc. Phần lớn các kinh là Bụt nói cho người xuất gia, người xuất gia trong truyền thống của Bụt và người xuất gia trong các truyền thống khác. Các vị xuất gia từ các truyền thống khác thường rất muốn tới thăm giáo đoàn của Bụt và nghe Bụt thuyết pháp. Bụt dạy nhiều kinh cho các vị tỳ kheo và nhiều kinh cho các vị Bà la môn, các vị phạm chí. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có những kinh Bụt dạy cho người cư sĩ mà kinh Người Áo Trắng là một trong những kinh đó. Chúng ta thấy rõ là Bụt cho người cư sĩ một chiều hướng tâm linh trong cuộc đời của họ. Bụt nói trong kinh Người Áo Trắng, người cư sĩ chỉ cần thực tập Năm giới và Bốn phép tùy niệm là bảo đảm không bị sa đọa vào những con đường xấu, không những trong kiếp này mà ngay cả trong kiếp sau. Thực tập đúng đắn Năm giới là ta đã ở được bờ bên kia rồi. Nếu thực tập thêm Bốn phép tùy niệm thì tâm ta tịnh hóa và ta có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Ta không cần phải trông ngóng hạnh phúc ở tương lai. Có 3 điều lợi ích khi ta thực tập Năm giới và Bốn phép tùy niệm:

  1. Lợi thứ nhất là không bị sa đọa
  2. Lợi thứ hai là có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại mà không cần chờ tới tương lai.
  3. Lợi thứ ba là chứng được quả vào dòng và cứ đi theo một mạch là tới giác ngộ hoàn toàn.

Thật ra, kinh Người Áo Trắng là kinh mà Bụt đã dạy đặc biệt riêng cho các nhà doanh thương, khoảng 500 vị doanh thương đã có mặt vào buổi đó. Trong các năm gần đây, Làng Mai có tổ chức các khóa tu cho những nhà doanh thương ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Đại Hàn và Hồng Kông. Chúng ta cũng căn cứ trên giáo pháp của kinh Người Áo Trắng để giúp cho các doanh thương có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, đừng đánh mất mình trong công việc, có thì giờ để chăm sóc mình và chăm sóc người thương của mình, đem lại hạnh phúc cho mình, cho người thương và cho công nhân của mình. Chúng ta đã theo rất sát lời dạy của Bụt để cung cấp giáo lý và sự thực tập cho giới doanh thương.

Cho giới chính trị thì Bụt đã dạy những gì? Các nhà chính trị đóng một vai trò rất quan trọng trong xã hội nên chúng ta cần phải học thật kỹ kinh Bụt dạy cho các nhà chính trị. Chúng ta cũng đã từng mở các khóa tu cho những dân biểu quốc hội ở các nước như Hoa Kỳ, Ái Nhĩ Lan, v.v… Trong khóa tu sắp tới ở Thái Lan, chúng ta cũng có một ngày tu cho các nhà chính trị Thái Lan. Mahanama là vua kế tiếp vua Tịnh Phạn. Thỉnh thoảng Bụt cũng về thăm và dạy cho Mahanama cách trị dân. Vua Mahanama thường thỉnh Bụt và tăng đoàn đến nhà để cúng dường và nhân những cơ hội đó, Bụt đã dạy cho Mahanama nghệ thuật trị dân. Ngài dạy gần giống như đã dạy cho trưởng giả Cấp Cô Độc, nghĩa là Ngài cũng dạy Bốn phép tùy niệm và Năm giới nhưng có thêm vào năm lực, tức là tín, tấn, niệm, định và tuệ. Bụt nói người làm chính trị phải có niềm tin (tín), tin rằng nếu làm đúng thì mình sẽ có hạnh phúc và dân trong nước mình sẽ có hạnh phúc. Nhà chính trị phải trị dân theo chánh pháp gọi là đức trị, mà không trị bằng uy quyền. Phần lớn các vua chúa trên thế giới đều là những nhà độc tài. Bụt và giáo đoàn tìm cách hướng dẫn các vua chúa để họ có từ bi hơn trong việc cai trị dân chúng. Bụt cho họ một niềm tin, nếu có đức tin thì vua có hạnh phúc và có thể làm hạnh phúc cho những người khác, trước hết là cho dân trong nước của mình. Bụt dạy vua Mahanama thực tập Năm lực (the five powers), nghĩa là thực tập tín, tấn, niệm, định và tuệ. Tấn là sự siêng năng. Niệm, định và tuệ là ba năng lượng mà chúng ta đã học. Trong niệm có Bốn phép tùy niệm, tức là phải luôn luôn nhớ tưởng tới Bụt, Pháp, Tăng và Giới. Ngoài ra với các nhà chính trị, Bụt dạy thêm hai phép tùy niệm nữa là niệm thí và niệm thiên.

1.   Niệm thí

Thí (the practice of generosity) là đừng khư khư giữ của trong kho, phải chia của cải cho người nghèo, phải giúp vốn cho họ. Ví dụ đối với những nông dân nghèo thì ta phải cho họ hạt giống, phân bón, đối với những tiểu thương thiếu vốn thì ta cho họ vốn, đối với những cô nhi quả phụ không có khả năng tự lập thì ta phải tổ chức cho họ những cơ hội để họ có thể sinh sống. Khi thực tập thí thì trong lòng ta có hạnh phúc ngay, ta không mong cầu sự báo đáp, đền trả trong tương lai. Bố thí là sự hiến tặng, ta đừng trông cầu quả báo trong tương lai như là một sự đổi chác. Ta bố thí một cách vô tướng, thấy được niềm vui của người khác là tự nhiên mình đã được đền bù.

Nhưng có người trong chúng ta nghĩ bố thí là bỏ vào trương mục tiết kiệm siêu hình của mình một số công đức để dành xài sau này trong tương lai. Bố thí như vậy cũng hay, nhưng chưa hay lắm. Bố thí vô tướng thì hay hơn. Bố thí cho ta niềm vui ngay trong giây phút hiện tại. Thấy hành động bố thí của mình làm cho người khác vui và bớt khổ đó là phần thưởng cho mình ngay lập tức. Ở Việt Nam chúng ta có câu “Ăn ở hiền lành để phước cho con”, hay câu “Cha ăn mặn thì con khát nước”. Bố thí rộng rãi thì các con thế nào cũng có tương lai. Niềm tin đó cũng rất hay. Đối với các ông vua, Bụt đề nghị sự thực tập niệm thí, luôn luôn nghĩ tới sự hiến tặng. Hiến tặng hạnh phúc là phận sự của một vị vua.

2.   Niệm thiên

Niệm thiên là niệm các cõi trời và các cư dân trên cõi trời đó. Từ xưa người ta tin có các thiên nam và thiên nữ, tiếng Anh là Gods. Nhưng trong đạo Bụt, trên cõi trời cũng có sinh ra và chết đi. Nếu có phước chúng ta sinh ra ở cõi trời, tuy sống lâu và có hạnh phúc nhưng rốt cuộc cũng vẫn phải chết. Nhưng nếu ở cõi trời mà ta biết thực tập Bốn phép tùy niệm và Năm giới thì sau khi chết ta sẽ sinh lại ít nhất là ở cõi trời chứ không bị thoái đọa.

Các vị vua thường nghĩ mình là người đặc biệt, nếu không đặc biệt thì tại sao họ lại làm vua? Ở Trung Quốc các ông vua thường nghĩ mình là con của trời (thiên tử) được sai xuống để trị dân gọi là Thiên tử. Niềm tin đó rất phổ biến trên thế giới như ở Ai Cập, Tây Tạng, Miến Điện, v.v… Ở nhiều nước Âu châu người ta cũng tin rằng ông vua được trên trời gửi xuống để trị dân. Vì vậy trong đạo Bụt người ta xây dựng một hình tượng gọi là Chuyển luân thánh vương. Chuyển là xoay, luân là bánh xe.

Đức Bụt là một vị Chuyển luân vương nhưng bánh xe của Ngài là bánh xe pháp. Ngài là một ông vua đi chân đất, một ông vua pháp (dharma king) không có quyền lực chính trị nhưng trong tay có rất nhiều quyền lực tinh thần, tâm linh. Trong khi đó, một vị Chuyển luân thánh vương thì lại có những quyền lực khác. Chuyển luân thánh vương là một hình ảnh mà đạo Bụt dựng lên để các nhà chính trị đi theo. Một Chuyển luân thánh vương là một ông vua đã chinh phục rất nhiều đất đai, có rất nhiều tướng tài, nhiều chiến xa, nhiều voi và ngựa ra trận, có những cố vấn rất giỏi, có nhiều hoàng tử thông minh và nhiều anh hùng có thể giúp vua trị nước… Niềm tin đó đã có sẵn trong thời của Bụt. Khi Siddharta ra đời, các nhà tiên tri đã đoán đứa bé này lớn lên sẽ trở thành một vị Chuyển luân thánh vương (universal monarch) hay là sẽ đi tu và sẽ dạy đạo cho toàn thế giới. Cuối cùng thì Siddharta không làm vua với quân đội, lính hầu mà làm vua với chiếc bình bát và những bước chân khất thực thảnh thơi. Trong kinh có đưa ra hình ảnh của một vị Chuyển luân thánh vương, một Chuyển luân thánh vương phải có bảy loại châu báu: luân, tượng, mã, châu, nữ, cư sĩ, chú binh thần.

  • Luân, tức chiến xa
  • Tượng, tức voi trận
  • Mã, tức ngựa trận
  • Châu, tức châu báu, vàng bạc
  • Nữ, tức cung tần mỹ nữ xinh đẹp
  • Cư sĩ, tức là các vị bộ trưởng rất giỏi lo về quân sự, giáo dục, kinh tế,v.v…
  • Chú binh thần, tức những tướng tá rất tài giỏi

Có bảy thứ báu đó trong tay thì vua có quyền lực rất lớn. Trong kinh Thiên Nghiệp Thí Dụ (Divyāvadāna) tả một vị Chuyển luân thánh vương như thế này: Vị vua đó đứng đầu quân đội của mình, một vị vua rất công bằng, một vị vua dựa vào chánh pháp, có bảy thứ báu: chiến xa, voi, ngựa, châu báu, hoàng hậu và cung phi mỹ nữ, có các bộ trưởng, các tướng tá. Vị đó có 100 đứa con trai, đứa nào cũng đẹp và hùng mạnh, là những anh hùng có khả năng tiêu diệt được quân đội thù nghịch. Vị vua đó đã chinh phục được đất đai rộng lớn cho đến đại dương. Vị đó dẹp bỏ tất cả những hình phạt độc tài và trị nước không bằng gươm đao mà chỉ sử dụng đức độ.

Các ông vua thường nghĩ mình từ trên trời đưa xuống để trị dân. Là vị Chuyển luân thánh vương thì phải làm đúng sứ mệnh trời giao, phải trị nước bằng đức độ, bằng giáo pháp, không được sử dụng những phương pháp bạo động, gian dối và hận thù. Vua phải làm được những điều mà dân trông chờ như phải biết bố thí, lấy của trong kho ra giúp cho người nghèo, đừng áp dụng những hình phạt nặng nề. Nếu vua làm được như vậy thì tất cả dân chúng đều yểm trợ, dân chúng trong nước tuân phục nên vua sẽ trị nước một cách dễ dàng. Một Chuyển luân thánh vương trị nước căn cứ hoàn toàn trên pháp (Dharma), đó là hình ảnh của một vị Chuyển luân thánh vương do Bụt đưa ra.

Trong kinh 26 của Trường Bộ hay kinh 6 trong Trường A Hàm gọi là Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành Kinh, Bụt dạy cho vua phương pháp trị nước để vua có hạnh phúc và dân chúng trong nước cũng có hạnh phúc. Giáo lý mà Bụt ban phát cho giới chính trị rất đầy đủ. Sau đây là vài nét đã được ghi lại trong kinh:

Y ư pháp lập pháp cụ pháp.

Y ư pháp là nương tựa vào pháp. Lập pháp là thành lập chánh pháp. Cụ pháp là đầy đủ chánh pháp.

Một vị Chuyển luân thánh vương chỉ nương tựa vào pháp, lấy giáo pháp làm nền tảng của sự trị dân.

Cung kính tôn trọng quán sát ư pháp

Là một vị vua phải có tâm cung kính, tôn trọng và quán chiếu về pháp.

Dĩ pháp vi thủ hộ chánh pháp

Lấy chánh pháp làm đầu mối và phải biết bảo hộ cho chánh pháp.

Nếu vua biết bảo hộ chánh pháp thì chánh pháp sẽ yểm trợ cho vua. Khi vua biết tu tập theo Năm giới và Sáu phép tùy niệm thì vua sẽ có sức khỏe, sống lâu và trị dân lâu dài. Vua thực tập rồi khuyến khích hoàng hậu, cung phi cùng thực tập theo. Tu thân rồi mới tề gia, lo cho thân mình rồi mới lo tới gia đình. Sau khi tu tập được thì vua phải dạy cho hoàng hậu, các cung phi, các hoàng thái tử cùng tu tập với vua. Tiếp theo vua phải mời các quan đại thần cùng thực tập theo. Khi các quan đại thần đã thực tập theo vua rồi thì lúc đó mới ra chỉ dụ khuyên dân chúng trong nước cùng thực tập. Như vậy chắc chắn thế nào trong nước cũng có đoàn kết và an cư lạc nghiệp. Đó là những lời Bụt dạy trong kinh “Sự Thực Tập Của Một Chuyển Luân Thánh Vương”.

Nếu trong nước có những vị A la hán, có những nhà tu thành đạo (một nhà tu thật có đức tính khiêm cung, có trí tuệ, có nhẫn nhục, có biện tài, có lòng nhân ái,v.v…) thì vua phải tới thăm hỏi, gần gũi để học hỏi từ các vị đó. Nếu có vấn đề khó khăn trong nước thì vua phải tới tham vấn rồi vâng theo lời chỉ dạy của các vị đó, vì các vị trưởng lão thật tu đại diện được cho Pháp. Vấn đề không phải chỉ là cúng dường hay ban cho cà sa màu tím và đưa vị đó lên địa vị quốc sư. Cái chính là vua phải thân cận với vị đó để học hỏi, tham vấn khi gặp khó khăn trong sự trị nước.

Ngay lúc Bụt chưa thành đạo, vua Tần Bà Sa La đã muốn mời Ngài về làm quốc sư. Một ông vua làm chính trị luôn luôn phải có một nhà đạo đức bên cạnh mình. Đứng về phương diện hình thức thì đó là một hình ảnh rất đẹp, dù cho về phương diện nội dung ông vua đó có nghe theo lời khuyên dạy của nhà đạo sư hay không. Vua Quang Trung, người đã đánh bại quân Thanh cũng đã tìm La Sơn phu tử về làm thầy. Có nhiều nhà tu trốn vào trong núi, vậy mà vua cũng cho thám tử đi tìm để mời về kinh. Thời triều Nguyễn, các vua cũng cho mời các thầy giỏi về giảng dạy cho gia đình hoàng gia như vua cuối cùng của triều Nguyễn đã mời hòa thượng Thập Tháp về giảng dạy trong cung. Những ông vua trị nước luôn khao khát có một vị đạo cao đức trọng ở gần bên mình. Đứng về phương diện hình thức thì đó là một loại trang điểm, nhưng đứng về phương diện nội dung thì vị đó giúp cho vua được an tâm khi trong nước xảy ra những vấn đề lớn và chỉ dẫn cho vua cách hành xử có từ bi.

Dân chúng và cả cộng đồng Phật giáo đòi hỏi vua phải tu tập. Khi trong nước có bệnh truyền nhiễm làm chết rất nhiều người hay trong nước bị mất mùa, hạn hán, dân chúng đói kém liên tiếp nhiều năm thì dân chúng thường đổ trách nhiệm cho vua. Họ cho rằng vua tu hành không đàng hoàng nên đất nước mới có vấn đề. Vua bị áp lực phải thực tập phạm hạnh, không đụng tới nữ sắc, phải ăn chay, nằm đất, còn các thầy trong chùa thì cầu nguyện, phóng sinh. Chính các vua triều Nguyễn, trước khi lên đàn Nam Giao ở Huế để tế trời, phải ăn chay nằm đất để tịnh hóa rồi mới có tư cách tế trời. Khi một ông vua tự nhận mình là Chuyển luân thánh vương thì dân chúng, các thầy, các bậc đạo sư trong nước trở thành cảnh sát tâm linh của vua. Vua có nhiệm vụ phải tu thì đất nước mới được bình an. Đó là phương pháp của đạo Bụt và phương pháp đó rất thành công.

Nếu học lịch sử của các nước Á châu, chúng ta thấy hầu hết các nước đều có những nhà quân sự độc tài, tàn bạo. Ở Miến Điện, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn hay Việt Nam, v.v… đều có những nhà chính trị rất tàn bạo. Khi đạo Bụt đi tới các nước đó thì sự thực tập đạo Bụt đã nhân từ hóa những nhà chính trị rất nhiều.

Ở Việt Nam, trong đời nhà Đinh, những hình phạt còn rất dã man như đem tội nhân cho cọp ăn, bỏ vào vạc dầu sôi, v.v… Nhưng khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, vua đã dẹp bỏ hết những hình phạt dã man đó. Vua là một tập sự xuất gia, là đệ tử của thiền sư Lý Khánh Vân, tức anh của thiền sư Lý Vạn Hạnh. Thầy Khánh Vân gửi học trò của mình là Lý Công Uẩn cho thiền sư Vạn Hạnh nuôi. Thầy Vạn Hạnh thấy Lý Công Uẩn thông minh nên tiến cử vào cung để giúp vua. Cuối cùng thì Lý Công Uẩn đã trở thành vua đầu tiên của triều Lý. Vì đã được huấn luyện trong chùa nên vua Lý Thái Tổ trị nước rất nhân từ, vua dùng chánh pháp để làm nền tảng cho việc trị nước. Theo giáo sư sử gia Hoàng Xuân Hãn triều đại nhà Lý với mấy trăm năm trị vì là một triều đại từ bi nhất trong lịch sử Việt Nam. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết: “Triều Lý là một triều đại thuận từ nhất trong lịch sử Việt Nam”. Nhà Trần cũng tiếp tục được như vậy nên triều đại Lý và Trần kéo dài được mấy trăm năm trong hòa bình, an lạc. Vua và dân rất thương nhau. Chuyện này đã xảy ra ở khắp các nước như Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v… Nhiều nhà chinh phục rất tàn bạo, nhưng khi họ đã nhận theo đạo Bụt, muốn làm một Chuyển luân thánh vương thì họ thay đổi. Một vị vua khác mà ai cũng biết đến là vua A Dục (Asoka), vào thế kỷ thứ III trước Thiên chúa. Vua là một nhà chinh phục và đã chinh phục toàn cõi Ấn Độ. Vua thấy rằng tuy cuộc chinh phục thành công nhưng đã làm tổn hại biết bao nhiêu mạng người nên vua đã hối hận và cuối cùng vua đã xin được quy y Phật pháp. Sau khi vua quy y thì có nhiều điều mầu nhiệm đã xảy ra như: vua cho đào giếng, trợ cấp cho người nghèo, yểm trợ cho các thầy, cấm sát sanh, v.v… Vua Aśoka trở thành Dharmāśoka. Aśoka là vô ưu, dharmāśoka là pháp vô ưu. Vua Aśoka đã đóng vai Chuyển luân thánh vương một cách hoàn hảo. Không những vua đã yểm trợ đạo Bụt hết lòng mà vua cũng đã yểm trợ các tôn giáo khác không hề kỳ thị. Nếu không có vua Asoka thì đạo Bụt sẽ không thể trở thành một tôn giáo quốc tế. Vua đã gửi các phái đoàn truyền giáo đi khắp mọi nơi, đi xuống miền Nam đến tận Tích Lan, đi lên miền Bắc đến tận Kashmir, đi qua miền Tây đến tận Hy Lạp. Trong khi Bà la môn giáo và Kỳ na giáo vẫn ở trong biên giới nước Ấn Độ thì Phật giáo vượt khỏi biên giới Ấn Độ và trở thành một tôn giáo quốc tế. Đó là công trình của vua A Dục. Vua đã xứng đáng là một vị Chuyển luân thánh vương. Những kinh xuất hiện sau này đã mô tả vua A Dục là một vị Bồ tát của Đại thừa, vì nếu không có vua thì đạo Bụt sẽ không hưng thịnh như bây giờ.

Sau vua A Dục có vua Milinda, vua Milinda là một nhà chinh phục Hy Lạp. Vương quốc của vua Milinda nằm ở phía Tây Ấn Độ. Vua mời một vị xuất sĩ là Na Tiên tỳ kheo (Nāgasena) về làm quốc sư cho mình. Vua Milinda và thầy Nāgasena đã cùng nhau đàm thoại rất nhiều và khá sâu sắc về Phật pháp. Những câu hỏi của vua đã được ghi chép trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo. Vua sống đúng theo tinh thần của một Chuyển luân thánh vương nên rất được dân chúng thương. Khi vua băng hà thì các tiểu bang ở Ấn Độ đều đến xin tro của vua để thờ, không khác gì tro của một vị Bồ tát hay một vị Bụt.

Vào thế kỷ thứ II sau Thiên chúa có vua Kaniṣka, vua cũng đã đi chinh phục, đã theo đạo Bụt và trở thành một vị Chuyển luân thánh vương. Vua đã đưa đạo Bụt lên miền Bắc để truyền sang Trung Quốc và các nước khác.

Trong lịch sử của Á châu có rất nhiều vua tự nhận mình là Chuyển luân thánh vương. Ngay cả vua Mông Cổ Genghis Khan cũng tự nhận mình là một vị Bồ tát nhất sinh bổ xứ. Kublai Khan cũng là một Chuyển luân thánh vương. Ở Cambodia, vua Jayavarman VII cũng nghĩ mình là một vị Bồ tát, một vị Bụt. Khi mẹ vua mất, vua đã cho tạc tượng Bát Nhã Ba la mật. Ngày xưa ở Ấn Độ, Bát Nhã ba la mật là mẹ của các vị Bụt. Kinh Bát Nhã có nói tất cả các vị Bụt đều do Bát Nhã Ba la mật sinh ra. Trí tuệ ba la mật (perfect understanding), prajñā- pāramitā là mẹ của tất cả chư Bụt. Người ta đã nhân cách hóa và tạc tượng prajñā-pāramitā dưới hình tướng của một nữ nhân. Ở Thái Lan, đến thế kỷ XX mà vua vẫn nghĩ mình là một vị Bụt. Các vua Miến Điện hay vua Tây Tạng, ai cũng nghĩ rằng mình là một vị Bồ tát, một vị Bụt. Muốn làm Bồ tát hay Bụt cũng được, nhưng vua phải thực hành chánh pháp và dân chúng đều là những vị cảnh sát để nhắc nhở vua.

Với phương pháp của mình, đạo Bụt đã từ bi hóa, nhân từ hóa biết bao nhiêu chế độ chính trị ở các nước Á châu. Trước đó những người cầm quyền là những nhà độc tài tàn bạo, nhờ sự giáo hóa của đạo Bụt mà những ông vua đã được thuần hóa. Đạo Bụt đưa ra hình ảnh của một vị Chuyển luân thánh vương trị nước theo chánh pháp và bắt buộc vua phải làm theo hình ảnh đó thì mới nhận được sự yểm trợ của dân chúng. “Chuyển Luân Thánh Vương Tu Tập Kinh” là kinh Bụt đã giảng khi Ngài còn tại thế.

Giáo lý Bụt dạy cho các nước dân chủ

Ngày xưa, phần lớn các nước theo chế độ quân chủ, nhưng trong thời của Bụt có một nước nhỏ đã bắt đầu muốn theo chế độ dân chủ. Đó là nước Vajji ở miền Bắc sông Hằng, có thể đó là một nước dân chủ sớm nhất trên thế giới. Vì vậy Bụt đã dạy những phương pháp hành trì theo thể thức dân chủ. Khi nghiên cứu sự song hành giữa chính trị và tôn giáo, chúng ta thấy có một điều rất lạ là tổ chức chính trị có lưng tựa ở tôn giáo. Lúc đầu chúng ta chưa có những vương quốc lớn do một ông vua thống lĩnh mà chỉ có những bộ lạc (tribut) do các ông trùm làm chúa tể. Tín ngưỡng của thời đó là tín ngưỡng đa thần (polytheism). Trong một xã hội có nhiều bộ lạc và mỗi bộ lạc là do một ông có quyền tuyệt đối đứng trên. Nhưng khi một nhà chinh phục liên kết các bộ lạc lại với nhau thành một vương quốc (monarchie) thì tín ngưỡng đa thần trở thành tín ngưỡng nhất thần (monotheism). Tín ngưỡng đa thần đi với chế độ bộ lạc và tín ngưỡng nhất thần đi với chính trị vương quốc. Có những nước hoàn toàn theo một tôn giáo và vị quốc vương là người lãnh đạo tôn giáo đó, như ở nước Tây Tạng thì đức Dalai Lama vừa là vua vừa là giáo chủ. Những nước đó được gọi là thần quốc (theocracy). Ở Ai Cập vua cũng là thần, hay ở nước Anh nữ hoàng cũng là người cầm đầu giáo hội Anh quốc.

Nhưng khi người ta không còn thích chế độ vương quốc nữa và nghĩ rằng toàn dân phải cùng nhau chịu trách nhiệm thì họ đi tới chế độ dân quốc. Quyền quyết định không còn từ một người nữa. Đó là bước thứ ba về chính trị và tôn giáo: tín ngưỡng duyên sinh. Niềm tin thích hợp cho chế độ dân chủ là niềm tin nơi đạo lý duyên khởi, có nghĩa là: Nhờ anh mà tôi có thể sống được. Tôi là nhà chính trị nhưng nếu anh không dệt vải thì tôi không có áo mặc, anh không cày ruộng thì tôi không có cơm ăn. Anh cũng quan trọng như tôi. Chúng ta nương vào nhau mà sống. You are therefore I am. Tu es donc je suis. Đó là tín ngưỡng thích hợp nhất cho chế độ dân chủ. Trong lịch trình của sự tiến hóa, trên phương diện chính trị, chúng ta đi từ chế độ bộ lạc tới chế độ dân chủ thì trên phương diện tôn giáo chúng ta đi từ tín ngưỡng đa thần tới tín ngưỡng duyên sinh.

Bụt đã để thì giờ dạy cho những người trẻ ở nước Vajji cách thức tổ chức một xã hội dân chủ. Mỗi khi Bụt về Vajji thì người trẻ Licchhavis tới chơi rất đông. Người Licchhavis rất trẻ và cởi mở, họ tới nghe Bụt dạy những phương pháp để có một nước cộng hòa dân chủ tốt đẹp. Trong kinh thứ 2 của Trường A Hàm hay kinh thứ 16 của Trường Bộ có ghi những điều Bụt dạy cho họ. Lúc đó vua Bimbisāra đã qua đời và vua A Xà Thế (Ajãtaśatru) lên thay. Vua A Xà Thế có nhiều cố vấn hung dữ và vua đã từng đem quân đi chinh phục nước Kosala. Hồi đó Bụt đang ở tu viện Cấp Cô Độc thì vua A Xà Thế đem quân tới đánh Kāsi (Benares). Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), khi gã công chúa sang thành Vương Xá thì vua tặng theo một phong ấp (tức là một đồn điền rất lớn và thu hoạch rất nhiều) để làm của hồi môn. Nhưng thấy vua A Xà Thế quá dữ, đã giết cha để lên làm vua nên vua Ba Tư Nặc lấy lại phong ấp đó. Vua A Xà Thế giận quá, đem quân đội sang đánh và vua Ba Tư Nặc phải ra nghinh chiến. Trong trận đó vua Ba Tư Nặc thua và A Xà Thế chiếm được thành Vārāṇasī. Các thầy ở thủ đô Śrāvasti nhốn nháo lên báo tin cho Bụt. Bụt nói: Này các thầy, tuy vua Ba Tư Nặc thua nhưng vua có

nhiều cố vấn rất giỏi, có bộ trưởng và bằng hữu thông minh, có tài và trung kiên. Thế nào vua cũng tự vệ được. Còn vua A Xà Thế tuy hung mãnh như vậy nhưng chung quanh toàn là những bạn xấu thì sẽ không thành công được lâu dài. Các thầy phải thấy được điều đó và đừng nên sợ. Sau khi chiếm được Benares, quân đội của vua A Xà Thế tiếp tục tiến về thủ đô Śrāvasti. Nhưng vua Ba Tư Nặc đã cho chuẩn bị đối phó, tổ chức kháng chiến trong nội thành và ra lệnh cho các đội binh khác chuẩn bị sẵn sàng. Trong trận đánh thứ hai vua A Xà Thế thua và đã bị bắt sống. Biết bao nhiêu voi, ngựa và quân lính của thành Vương Xá cũng bị bắt. Người ta bảo phải giết vua A Xà Thế. Vua Ba Tư Nặc đã lên thăm Bụt ở tu viện Cấp Cô Độc và Bụt khuyên vua: Dù sao thì A Xà Thế cũng là cháu của vua. Nó có những sai trái thì vua nên kêu vào dạy như thế này:

– Con làm như vậy là sai. Con đã gây ra biết bao tổn thất, đã giết biết bao nhiêu mạng người. Ta sẽ chiếm hết tất cả những voi, ngựa, binh lính và sẽ tha cho con về để học lại cách trị dân, và đừng để chuyện này xảy ra lần nữa.

Theo chính sách nhân từ của Bụt, vua Ba Tư Nặc đã tha cho vua A Xà Thế. Nhưng sau đó vua A Xà Thế lại có ý muốn chiếm nước Vajji. Trước khi cất binh đi, vua A Xà Thế gửi một viên đại thần là Vassakāra đến thăm dò phản ứng của Bụt. Hôm đó trời nóng, đại thần Vassakara thuộc giai cấp Bà la môn tới thăm Bụt và hỏi Ngài:

– Vua chúng con muốn chinh phục nước Vajji, không biết Bụt nghĩ thế nào?

Lúc đó thầy A Nan đang quạt cho Bụt, Ngài quay sang hỏi thầy A Nan:

– Thầy A Nan, thầy có nghe tình hình của nước Vajji như thế nào không?

– Bạch đức Thế Tôn, Ngài muốn hỏi về mặt nào?

– Tôi đã từng dạy cho họ phương pháp thực tập để nước mạnh dân giàu. Không biết họ có làm theo lời tôi dặn hay không? Thầy A Nan, họ có đi họp đều hay không?

– Bạch đức Thế Tôn, họ đi họp rất đều. Trong khi tụ tập, họ tụ tập rất đoàn kết và trong khi giải tán thì họ giải tán rất là hoan hỉ.

– Hay quá đi! Đi họp chuyên cần đã đành rồi mà tới với nhau trong đoàn kết và giải tán trong đoàn kết là đã đủ làm cho họ mạnh rồi.

– Họ có tuân thủ những đạo luật đã làm ra trước đây không? Họ có theo những tuệ giác của truyền thống không?

– Dạ có, họ rất tuân thủ những đạo luật của truyền thống. Nếu họ có thêm thắt chỉ là làm cho đạo luật hợp lý hơn chứ không bao giờ làm ngược lại đạo luật cũ.

– Như vậy là họ đang mạnh lắm. Này A Nan, người trẻ có biết tôn kính những người lớn tuổi có kinh nghiệm không?

– Dạ có, họ biết tôn trọng những bậc đạo cao đức trọng và họ biết nghe lời những người lớn tuổi.

– Như vậy là họ đang mạnh, chắc tới đánh không được đâu.

– Này A Nan, họ có lạm dụng tình dục với con nít và ép uổng phụ nữ ở với họ không?

– Dạ không, họ không lạm dụng tình dục với con nít và không ép uổng phụ nữ tới ở với họ.

– Nếu vậy thì khá lắm. Vậy họ có đi chùa để làm công đức không?

– Dạ họ đi chùa rất đàng hoàng.

– Họ có che chở, bảo hộ các vị A la hán hay không? Họ có tới tham vấn ý kiến của các vị đó không?

– Dạ có, họ rất tôn sùng các vị A la hán. Họ luôn tới thỉnh cầu ý kiến và họ thực tập những lời dạy của đức Thế Tôn rất tinh chuyên.

Hai thầy trò nói chuyện với nhau cốt ý để cho đại thần Vassacara nghe. Sau khi nghe thầy A Nan báo cáo, Bụt nói:

– Này thầy A Nan, tôi nghĩ rằng xứ đó mạnh lắm, không nước nào có thể xâm chiếm nổi đâu.

Bụt nhìn đại thần Vassacara và hỏi:

– Đại thần nghĩ thế nào?

– Bạch đức Thế Tôn, con đã nhận được thông điệp. Nếu xứ Vajji làm được một trong bảy điều đó thì cũng đủ mạnh để không thể bị xâm chiếm rồi, huống chi họ đã thực tập luôn bảy điều đó thì làm sao nước con có thể tới đánh họ được.

Nhờ cuộc nói chuyện này mà chúng ta biết Bụt đã dạy cho một nước dân chủ như thế nào. Bụt dạy rất rõ cho các nhà chính trị. Khi tổ chức khóa tu hay ngày quán niệm cho các dân biểu quốc hội thì chúng ta phải biết phương pháp này. Chúng ta phải chỉ cho họ cách thực tập ái ngữ, lắng nghe, thực tập Bốn phép tùy niệm và áp dụng chánh pháp vào trong đời sống của họ để họ có thể giúp cho những người trong gia đình và giúp các cử tri cùng thực tập với họ. Khi giảng dạy cho các nhà chính trị tôi luôn luôn theo đúng phương pháp Bụt đã dạy. Không những Bụt dạy cho các thầy, các sư cô, các xuất sĩ của các giáo phái khác mà Bụt còn dạy rất kỹ cho dân chúng. Chúng ta có thể viết sách nói về những giáo lý mà Bụt dạy cho nhà doanh thương, dạy cho nhà chính trị để học hỏi, ôn tụng và chia sẻ với những người có quyền lực trên thế giới hiện nay.

Nếu đạo Bụt đã trở nên một nếp sống tâm linh toàn cầu, một phần công đức khá lớn là do các vị quốc vương đóng góp. Ngay từ hồi Bụt còn tại thế, các vị quốc vương như Ba Tư Nặc và Tần Bà Sa La đã là những nhà chính trị có tâm hộ pháp. Các vị vua ấy đã nghe lời Bụt trị nước và giữ nước bằng đạo đức nhiều hơn bằng gươm giáo. Hình ảnh quốc vương là một vị Bồ tát hộ pháp đã được tiếp tục xây dựng qua nhiều thế hệ. Vua A Dục là biểu trưng cho một hình ảnh như thế. Sau khi chinh phục được toàn cõi Ấn Độ, thấy được cảnh bao sinh linh bị tàn sát, vua đã phát tâm quy y Bụt và do đó có biệt hiệu là Pháp A Dục (Dharmāsoka), nghĩa là một vị vua tên A Dục trị nước theo chánh pháp. Vua đã yểm trợ tự viện, tăng đoàn, đã yểm trợ đại hội Phật giáo kết tập, đã dựng trụ đá ca ngợi Bụt và khuyến khích dân chúng tu học và làm lành, đã gửi những phái đoàn truyền giáo ra nước ngoài. Hình ảnh những vị vua hộ pháp trị nước theo tinh thần đạo đức như thế đã đi vào trong các kinh điển, như kinh Hộ Pháp Nhân Vương. Nhân Vương là ông vua nhân từ, cai trị không phải bằng gươm đao mà bằng đức độ. Nếu ở Trung quốc ngày xưa người ta tin vua là con trời được sai xuống để trị dân thì trong truyền thống này, vua là một vị Bồ tát, một vị vua Phật. Sau vua Asoka, có vua Milinda (165-130B.C), vua Kanishka (78-102 A.C.), vua Harsavardhama (606-647 A.C) và các vua trong triều đại Bà la (750-1150), vị nào cũng muốn mình có hình ảnh của bậc Nhân Vương Bồ Tát. Đạo Bụt đã tạo ra hình ảnh đó để làm mẫu mực lý tưởng cho những vị quốc vương noi theo, đó là hình ảnh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravartirājan).

Trong kinh Du Hành (Trường A Hàm 2, D 16), vua cũng nói về những biện pháp khiến cho một nước dân chủ như Vajji có thể trở nên hùng mạnh mà không một nước nào có thể xâm chiếm được. Có bảy biện pháp như thế gọi là Bảy Pháp Bất Thối, trong đó có sự thực tập hội họp thường xuyên, đến với nhau trong đoàn kết, chia tay nhau trong tình huynh đệ, tôn trọng và sống theo luật pháp đã có sẵn, biết tôn trọng các bậc trưởng thượng, nghe theo lời dạy của họ, không bắt ép và lạm dụng nữ giới, siêng năng tới chùa viện để tu tập, tụng giới, và biết che chở cho các vị A la hán đang có mặt trong đất nước của mình.

Trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành (Trường A Hàm 6, D 26) Bụt có đưa ra hình ảnh lý tưởng của một vị Chuyển Luân Thánh Vương (Universol monarch) như sau: “Vị vua ấy nương trên chánh pháp, trị nước hoàn toàn theo chánh pháp, cung kính, tôn trọng, học hỏi chánh pháp, lấy chánh pháp làm tiêu chuẩn, yểm trợ chánh pháp. Tu tập chánh pháp cho tự thân, vua dạy cho hoàng hậu, cung phi và các vương tử cùng thực tập theo. Vua lại khuyên các đại thần bách quan tu tập theo chánh pháp, và khuyên dân chúng nên thực tập theo chánh pháp. Vua thường tới lui thăm hỏi các vị sa môn và bà la môn để tham vấn và học hỏi. Nếu trong vương quốc có những vị sa môn đắc đạo, tu hành thanh tịnh, có tinh tiến, có nhẫn nhục, không kiêu mạn thì vua phải tới tham vấn về các vấn đề thiện và ác, tôn trọng và vi phạm, nên gần giũi ai, nên không gần gũi ai, nên làm gì, nên không làm gì, thực tập theo những pháp môn nào mà có được hạnh phúc lâu dài. Vua biết chu cấp cho cô nhi, quả phụ, tôn trọng luật pháp cổ truyền, v.v…”

Các vị cao tăng trong nước có bổn phận nhắc nhở các vị nhân vương hành xử theo chánh pháp, và các vị quốc vương biết rằng nếu được quần chúng Phật giáo yểm trợ thì việc cai trị sẽ dễ dàng hơn, cho nên các vị quốc vương ấy cố gắng đi theo con đường đức trị hơn là pháp trị. Các kinh như kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa ra đời là để xây dựng lên hình ảnh của một nhà vua như thế, một bậc Chuyển Luân Thánh Vương. Ở Việt Nam, vào đời Lý Trần, các vua đều có tu học, đều muốn noi theo con đường đức trị, và vua Trần Nhân Tông đã đi thật xa: thoái vị, xuất gia, và sử dụng cuộc đời còn lại của mình để dạy dân theo chính pháp. Chúa Nguyễn Phúc Chu cũng rất muốn là một vị vua như thế. Các vị vua , các nhà làm chính trị đến khi về già thế nào cũng có những thao thức, những mối quan tâm về sinh tử, cho nên sự xuất hiện của các kinh về đề tài trị nước theo chính pháp cũng là một trong những phương thức hoằng pháp giáo hóa quan trọng của truyền thống đạo Bụt.

Chương 19: Tâm Linh và Tín Mộ

Bụt giáo hóa người cư sĩ bằng tuệ giác mà không phải bằng sự tín mộ.

Có người cho rằng đạo Bụt là dành cho người tu, còn cư sĩ thì chỉ yểm trợ, cúng dường để làm phước và thực tập tín mộ mà thôi, điều này không đúng. Ngay từ thời Bụt còn tại thế, Ngài đã quan tâm và đã cung cấp cho giới cư sĩ những sự thực tập rất căn bản. Tín mộ là bhakti (devotion). Đọc kinh Bụt dạy cho ông Cấp Cô Độc, ta thấy rất rõ là Bụt đã giáo hóa cho người cư sĩ bằng tuệ giác, còn sự tín mộ thì chỉ phát sinh thêm sau này. Trong khóa tu này chúng ta sẽ học hai kinh dành cho người cư sĩ, là kinh Bụt giảng cho ông Cấp Cô Độc:

Kinh Người Áo Trắng

Hôm đó doanh thương Cấp Cô Độc tới thăm Bụt và dẫn theo năm trăm nhà doanh thương. Ông tới thăm thầy Xá Lợi Phất trước. Giữa ông Cấp Cô Độc và thầy Xá Lợi Phất có một mối giao tình rất thân mật. Ngày ông từ trần chính thầy Xá Lợi Phất đã ngồi bên giường bệnh để giúp cho ông qua đời một cách thoải mái và an lạc. Ông Cấp Cô Độc lần đầu tiên gặp Bụt trong một chuyến đi giao dịch từ Śrāvasti tới Rajagaha. Ông Cấp Cô Độc tới ở trọ nhà của người em dâu, mỗi khi ông tới thì người ta tiếp đón niềm nở, nhưng hôm đó thì chủ nhà có vẻ lơ là với ông. Ông hỏi:

– Nhà có đám cưới hay sao mà sửa soạn đẹp vậy? Sao tôi lại bị bỏ lơ vậy?

Người em nói:

– Tụi em đang chuẩn bị để cúng dường đức Thế Tôn, cúng dường Bụt.

Nghe chữ Bụt tự nhiên ông Cấp Cô Độc rúng động:

– Bụt ở đâu, cho tôi đi thăm với!

Ông Cấp Cô Độc cũng có mối quan tâm tối hậu. Ông đã giàu, đời sống ông đã được thỏa mãn nhưng ông muốn tìm một cái gì đẹp hơn.

Người em nói:

– Ngày mai đức Thế Tôn và giáo đoàn của Ngài sẽ tới đây và anh sẽ được gặp.

Nhưng tối đó ông Cấp Cô Độc không ngủ được, ông thức dậy rất sớm và tìm đường tới chỗ Bụt ở, tức vườn Trúc Lâm. Buổi sáng, khi trời còn mờ sương ông đã gặp được đức Thế Tôn đang đi thiền hành. Hai người đã nói chuyện và ông đã trở thành một đệ tử rất thân thiết của Bụt. Chính ông đã mời đức Thế Tôn về thành phố Sravasti và cúng dường đất mua được của thái tử Kỳ Đà để đức Thế Tôn làm tu viện.

Ông xin phép Bụt cho một người đi về xứ với ông để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm và giáo hóa của Bụt trên quê hương của ông. Và Bụt đã cho thầy Xá Lợi Phất đi tiền trạm để chuẩn bị cho chuyến du hành giáo hóa đầu tiên của Bụt tại thành phố Sravasti. Ông Cấp Cô Độc và thầy Xá Lợi Phất đã đi với nhau mấy tuần lễ từ thủ đô Rajagaha về thủ đô Sravasti nên họ đã nói chuyện nhiều với nhau và trở nên thân thiết.

Khi ông Cấp Cô Độc đem năm trăm doanh thương tới thì vào thăm thầy Xá Lợi Phất trước, rồi thầy mới dẫn mọi người vào gặp Bụt. Vì vậy trong kinh Người Áo Trắng thay vì nói “này ông Cấp Cô Độc” thì Bụt nói “này thầy Xá Lợi Phất”. Ý của Bụt là thầy Xá Lợi Phất phải giáo hóa người cư sĩ theo chiều hướng này. Hồi đó thầy Xá Lợi Phất được coi như cánh tay phải của đức Thế Tôn. Thầy tổ chức sự tu học cho người cư sĩ và cho các thầy, các sư cô trong giáo đoàn xuất sĩ. Trong kinh thay vì gọi thẳng tên của nhà doanh thương thì Bụt gọi tên của thầy Xá Lợi Phất. Bụt nói:

Những người áo trắng không cần phải đi tìm cầu hạnh phúc trong tương lai. Họ có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại nếu họ thực tập theo những điều tôi chỉ dẫn.

Bụt dạy nhà doanh thương phải làm việc như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Bụt muốn gửi gắm cho thầy Xá Lợi Phất phương pháp giáo hóa người cư sĩ, phải nói với họ là họ không cần phải tìm hạnh phúc trong tương lai. Điều này rất quan trọng. Vì trong một kinh ngắn như kinh Người Áo Trắng mà cụm từ “hiện pháp lạc trú” (dṛṣṭadharmasukhavihāra), nghĩa là sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại được lặp lại sáu lần trong kinh. Ở thế kỷ của chúng ta, nhà doanh thương đi tìm hạnh phúc trong sự thành công của mình. Trong nhiều chùa, người xuất sĩ cũng như người cư sĩ đều không được học giáo lý quan trọng đó mà cứ đi tìm Niết bàn và giải thoát trong tương lai. Người ta nghĩ rằng hạnh phúc và con đường đưa tới hạnh phúc là hai cái khác nhau.

Bụt đưa ra hai phương pháp thực tập:

  1. Thực tập Năm giới
  2. Thực tập Bốn phép tùy niệm

Nếu một người áo trắng thực tập Năm giới và Bốn phép tùy niệm thì người đó sẽ có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Trong kinh đức Thế Tôn đã dùng danh từ thánh đệ tử 聖 弟 子 , tức vị đệ tử có chất thánh (the aryan disciple). Không phải chỉ có người xuất gia mà người cư sĩ cũng có chất liệu tâm linh và thánh thiện. Nếu ta thực tập theo Năm giới và Bốn phép tùy niệm thì ta sẽ có chất liệu thánh trong con người của mình, ngay trong thời Bụt còn tại thế Ngài đã dạy như vậy rồi. Không phải chỉ có đức Giáo hoàng, đức Dalai Lama hay các thầy các sư cô mới có chất thánh mà người cư sĩ cũng có chất thánh nếu người cư sĩ biết thực tập Năm giới và Bốn phép tùy niệm, vì Năm giới bảo đảm cho sự tự do và an ninh của con người. Nếu đã từng thọ Năm giới và sống theo Năm giới, thì chúng ta biết rằng Năm giới bảo hộ ta, đem lại cho ta rất nhiều tự do và hạnh phúc. Hạnh phúc và tự do đó ta không cần phải đi tìm trong tương lai mà có thể có ngay trong giây phút hiện tại.

Hơn nữa, nếu người thánh đệ tử áo trắng thực tập Bốn phép tùy niệm, tức niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, thì sẽ làm tăng thêm chất thánh trong mình và người đó có hạnh phúc ngay lập tức. Cách giải thích của Bụt không có chút mê tín nào. Khi tâm ta chuyên chú vào những đối tượng cao đẹp như Bụt, Pháp và Tăng thì tâm của ta sẽ nhẹ nhàng, thư thái và hạnh phúc. Ta không suy nghĩ tới những chuyện tiêu cực, khổ đau, đam mê và giận hờn. Bốn phép tùy niệm tịnh hóa thân và tâm của mình.

Xin các thầy, các sư cô, các Phật tử cư sĩ đọc kinh Người Áo Trắng để biết phương pháp Bụt dùng để giáo hóa người cư sĩ. Bụt giáo hóa người cư sĩ bằng tuệ giác mà không phải bằng sự tín mộ. Một tôn giáo làm sao lớn mạnh và sống còn nếu chỉ có người xuất gia mà không có người cư sĩ? Người cư sĩ cũng có khả năng thực tập một cách sâu sắc.

Kinh Người Áo Trắng, nguyên bản là Ưu Bà Tắc kinh, upāsaka sutra, là kinh 128 Trung A Hàm, hay kinh A. III. 211 Tăng Chi Bộ của tạng Pāli. Ưu Bà Tắc là cư sĩ nam, là người thân cận với người xuất gia. Người tại gia là người thân cận với người xuất gia, thân cận để học hỏi và thực tập nên gọi là cận sự: cận sự nam (upāsaka) và cận sự nữ (upāsikā). Người xuất gia cần người tại gia và người tại gia cần người xuất gia.

Đi xuất gia thì không được mặc áo trắng mà phải mặc áo màu gọi là hoại sắc.

Hai pháp môn chính trong kinh Người Áo Trắng

Bụt dạy người cư sĩ chỉ cần thực tập hai pháp môn sau đây là có đủ hạnh phúc trong giây phút hiện tại:

  1. Năm giới
  1. Bốn phép tùy niệm, tức bốn tâm cao đẹp (tăng thượng tâm)

Bụt nói rất rõ: Nếu người tại gia thực tập theo hai pháp môn trên thì có thể dễ dàng có được hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại mà không có khó khăn gì. Không có khó khăn có nghĩa là sự thực tập rất đơn giản, dễ chịu mà ta không cần phải lao tác cực nhọc. Thực tập theo hai pháp môn trên thì:

  • Ta có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại gọi là hiện pháp lạc trú.
  • Ta chắc chắn không rơi trở lại vào những con đường khổ đau, tức con đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và atula.
  • Ta có thể đạt được quả vị Nhập lưu (quả vào dòng), tức là gia nhập vào một dòng để đi về hướng có hạnh phúc và giải thoát, cũng như ta muốn đi Paris và ta đã ngồi trên tàu TGV hướng về Paris thì chắc chắn ta sẽ tới Paris. Bụt nói, vào dòng thì thế nào ta cũng được giải thoát hoàn toàn, ta chỉ sinh ra lại trong cõi hệ lụy bảy lần là tối đa. Nếu làm ăn khá thì ta sinh trở lại một hay hai lần hoặc ngay trong kiếp này ta cũng có thể được giải thoát hoàn toàn.

Cụm từ “an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng và không có khó khăn gì” được lặp lại nhiều lần trong kinh.

Xá Lợi Phất, thầy nên ghi nhớ rằng một người đệ tử áo trắng, nếu thực tập được như thế là đã chấm dứt được sự sa đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các đường dữ khác; đã chứng được quả Tu đà hoàn (vào dòng), không còn thối đọa vào các ác pháp. Người ấy chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác và chỉ cần qua lại tối đa là bảy lần nữa trong các cõi trời và người là có thể đạt được biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ.

Kinh chỉ cho chúng ta rất nhiều điều:

  1. Đức Thế Tôn dạy rằng chúng ta thực tập không phải để có hạnh phúc trong tương lai hay để có sự giải thoát và giác ngộ sau này mà thôi. Trước hết ta phải có hạnh phúc, giải thoát và giác ngộ ngay bây giờ. Trong đó có hàm ý: Không có con đường đưa tới hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường. Nếu ta thấy đau khổ trong khi tu thì không đúng, trong khi tu ta phải có hạnh phúc thì mới đúng. Nếu nghĩ rằng phải cực khổ bây giờ để trong tương lai có được hạnh phúc thì ta không đi đúng con đường. Giáo lý “hiện pháp lạc trú” (dṛṣṭadharmasukhavihāra) rất quan trọng trong đạo Bụt. Dṛṣṭa là hiện pháp, sukhavihāra là lạc trú hay lạc cư. Nhưng nhiều tông phái, nhiều chùa đã đánh mất giáo lý này. Ta tu như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại dù ta là cư sĩ. Ta không cần phải lao nhọc mà vẫn có hạnh phúc trong giây phút hiện tại (không có khó khăn gì), ta phải tu cho khéo (khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm). Cũng với pháp môn đó, nếu khéo tu thì ta có hạnh phúc ngay lập tức, còn không khéo tu thì ta cứ chật vật hoài mà vẫn không đưa tới kết quả.

Quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, những gì chúng ta thấy trong hiện tại là hiện pháp. Hạnh phúc phải có trong hiện pháp. Ta phải có hạnh phúc trong khi tu và tu như thế nào để đừng mệt nhọc, mất sức và chịu đựng. Ta ngồi thiền như thế nào để có hạnh phúc, đi thiền như thế nào để có hạnh phúc, tụng kinh như thế nào để có hạnh phúc. Nếu ta cố gắng mệt nhọc, thân tâm rã rời là không đúng. Ta phải khéo tu.

  1. Hiện tại bảo đảm cho tương lai. Ta không rơi trở lại con đường của hệ lụy, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
  2. Ta được vào dòng giải thoát và thế nào ta cũng được giải thoát hoàn toàn.

Kinh này không chỉ trả lời cho những mối quan tâm thường nhật của con người mà còn trả lời cho mối quan tâm tối hậu của con người. Mối quan tâm thường nhật của con người là làm sao để có sức khỏe, để được che chở, để được an cư lạc nghiệp, v.v… Nhưng người cư sĩ cũng có những mối quan tâm tối hậu. Họ cũng muốn biết: Sau này mình sẽ đi về đâu? Họ rất bận, họ không có thì giờ nhưng lâu lâu họ cũng hỏi: “Không biết mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu? Sau khi chết mình sẽ như thế nào?” Đó là những mối quan tâm tối hậu.

Giữa ba chất liệu tín mộ, chất liệu tâm linh và chất liệu chú thuật không có ranh giới rõ ràng

Tuy dạy cho cư sĩ nhưng Bụt cũng làm thỏa mãn hai loại quan tâm của họ như: “Làm sao để có hạnh phúc trong đời này và làm sao để thấy được tương lai, thấy được mình đang đi về đâu”. Trong kinh có rất nhiều chất liệu tâm linh. Chúng ta phải để ý một chi tiết là trong kinh Bụt đã gọi các cư sĩ là thánh đệ tử. Thánh đệ tử là đệ tử, tuy là cư sĩ nhưng trong họ có chất thánh (holy element). Khi có năng lượng của niệm, định và tuệ thì trong ta có chất thánh. Chất thánh đó bảo hộ ta, làm cho ta hạnh phúc và đưa ta đi tới. Chất thánh không từ ngoài đi vào mà do tự ta chế tác ra bằng sự tu tập Năm giới và Bốn phép tùy niệm.

Đạo Bụt cung cấp cho người cư sĩ chất liệu tâm linh (the spiritual element) chứ không phải chỉ cung cấp sự tín mộ như nhiều người đã hiểu lầm. Tín mộ là chỉ tin tưởng vào những thế lực bên ngoài. Giữa chất liệu tâm linh và chất liệu tín mộ (the devotional element) không có một ranh giới rõ ràng, vì vậy có những phép thực tập mà nhìn bề ngoài ta thấy giống như là tín mộ nhưng nội dung bên trong rất tâm linh vì trong đó có niệm, định và tuệ. Ví dụ như chúng ta lạy trước tượng Bụt, bề ngoài trông giống như một sự tín mộ. Bụt là người, ta cũng là người, người này lạy người kia vì trong người kia có chất liệu thánh. Ta là người hoàn toàn không có khả năng và ta lạy xuống cầu xin một vị Bụt, một vị Bồ tát, một vị thánh nhân cứu giúp mình. Lạy như vậy rất giống như một sự tín mộ.

Tùy theo cách lạy, trước khi lạy ta quán chiếu: Người lạy và người được lạy đều không có tự tính riêng biệt.

Lạy đức Thế Tôn, Ngài là Bụt, con là chúng sanh, nhưng con thấy Bụt được làm bằng những chất liệu không phải Bụt, trong đó có chúng sanh. Con tuy là chúng sanh nhưng trong con cũng có chất Bụt. Nhận thức được như vậy con thấy trong con có Bụt và trong Bụt có con.

Quán chiếu được như vậy rồi lạy xuống thì sự lễ lạy không còn là sự tín mộ, sự cầu xin mà đó là sự thực tập. Lạy xuống trước tượng Bụt, bề ngoài giống như một sự tín mộ nhưng bên trong là một hành động quán chiếu. Người ta thường hay lẫn lộn tín mộ và tâm linh.

Ngoài chất liệu tín mộ và chất liệu tâm linh còn có chất liệu chú thuật (the magical element). Người theo đạo Thiên chúa cũng tin tưởng vào những thế lực ma quái. Khi cảm thấy có thế lực ma quái thì người ta đưa cây thánh giá ra trước mặt và nghĩ rằng ma quái phải rút lui. Cây thánh giá tuy được làm bằng gỗ hay bằng sắt nhưng nó có thần lực. Đó là chất liệu chú thuật. Chúng ta cũng có câu thần chú để mỗi khi gặp ma ta đọc lên thì ma chạy, đó cũng là chất liệu chú thuật.

Không có ranh giới rõ ràng giữa ba chất liệu tín mộ, tâm linh và chú thuật. Ví dụ như Tâm Kinh Bát Nhã, Tâm Kinh là một kinh nói về tuệ giác cao nhất (the perfect understanding). Tâm Kinh Bát Nhã giúp ta quán chiếu để thấy được tất cả các pháp đều không có tự tánh, để ta vượt thoát những khổ đau, sợ hãi (độ nhất thiết khổ ách). Tâm Kinh Bát Nhã là một hình thái sinh hoạt tâm linh cao nhất (prajñāpāramitā). Nhưng có người tụng Tâm Kinh là để có công đức, sáng trưa chiều đều tụng, tụng ba bốn chục năm mà vẫn không hiểu nghĩa của Tâm Kinh. Cũng như chú Chuẩn Đề và chú Đại Bi, người ta tụng năm này sang năm khác mà không hiểu gì cả. Người ta tin tưởng rằng tụng chú để đuổi tà ma. Cũng như có những thầy tụng chú Lăng Nghiêm là để nữ sắc đừng tới lôi kéo mình, nhưng cũng có thầy mặc dù tụng năm này sang năm khác mà nữ sắc vẫn kéo đi như thường. Ta có câu thần chú, khi nằm mơ thấy ma ta đọc lên câu thần chú đó nhưng con ma còn nhe răng cười chẳng sợ gì cả. Tâm linh có thể trở thành tín mộ và tín mộ có thể trở thành chú thuật.

Có những thuyền nhân vượt biển chỉ đem theo một bản Tâm Kinh. Họ tin rằng bản Tâm Kinh có thể cứu họ khỏi những cơn sóng gió ngoài biển, tránh thoát loài thủy quái và những tên hải tặc. Tôi có những đệ tử đem theo cuốn “Nẻo về của ý” khi vượt biển. Họ nghĩ cuốn sách đó rất linh thiêng, trong đó có nói về Tâm Kinh. Khi sử dụng văn bản Tâm Kinh để bảo hộ cho mình thì có thể ta có sử dụng một ít chất liệu tâm linh nhưng ta sử dụng chất liệu tín mộ nhiều hơn. Có thể ta tin rằng có Tâm Kinh trên thuyền thì hải tặc không dám tới. Đó là chất liệu chú thuật. Khi người Anh tới xâm chiếm nước Miến Điện bằng máy bay, xe tăng và súng đạn, thì có những Phật tử mang bùa chú đi tới trước súng đạn vì họ nghĩ rằng có bùa chú trong người thì súng bắn không lủng. Họ đưa tay lên trời bắt ấn vì họ tin rằng làm như vậy thì máy bay sẽ rớt xuống.

Thọ trì Năm giới để bảo đảm tự do và hạnh phúc

Khi đọc kinh Người Áo Trắng, chúng ta thấy chủ ý của Bụt là hiến tặng cho người cư sĩ chất liệu tâm linh. Năm giới là sự thực tập giúp cho ta đừng sa đọa vào cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Mỗi giới bảo đảm cho ta một tự do. Ví dụ như giới thứ năm là “không vướng vào vòng ma túy”. Nếu ta giữ được giới này thì ta không bị vướng vào ma túy rất rõ ràng. Năm giới bảo đảm cho ta năm không gian tự do. “Không rơi trở lại vào tình trạng hệ lụy” không phải là chuyện siêu hình mà là chuyện rất thực tế và rất khoa học. Giữ Năm giới thì ta có năm khoảng trời tự do thật lớn, thân tâm ta được thanh tịnh, mạnh khỏe và ta có nhiều niềm vui. Đây không phải là một sự hứa hẹn hảo huyền về một hạnh phúc tương lai. Giữ được Năm giới thì ta có hạnh phúc ngay lập tức. Ai đã thọ Năm giới thì biết thời điểm mà ta quỳ xuống tiếp nhận Năm giới là giây phút cho ta nhiều hạnh phúc. Ta thấy mình có một con đường và Năm giới sẽ bảo hộ cho ta, ta sẽ có rất nhiều tự do khi thọ trì Năm giới. Bụt dạy người cư sĩ phải thọ trì Năm giới thì mới bảo đảm được hạnh phúc của mình. Hạnh phúc đó ta không phải chờ lâu, ta có thể có ngay trong giây phút hiện tại.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là người xuất gia không cần giữ Năm giới. Người xuất gia thọ 250 giới, nhưng trong 250 giới đó cái chính yếu vẫn nằm trong Năm giới. Tuy 250 giới có nhiều chi tiết hơn nhưng chúng vẫn phát xuất từ Năm giới. Theo truyền thống thì Năm giới rất đơn sơ: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Nhưng Năm giới trong kinh Người Áo Trắng có giới tướng rất rõ ràng. Nương trên tinh thần của kinh Người Áo Trắng, ở Làng Mai chúng ta có Năm giới tân tu với đầy đủ giới tướng, phản chiếu được tinh thần Tứ đế và Bát chánh đạo, trong đó có chánh kiến. Khi quyết tâm thực tập theo Năm giới thì chắn chắc ta có tự do, có hạnh phúc và niềm vui ngay trong giây phút hiện tại. Điều này rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan. Đó là chất liệu tâm linh trong đó có niệm, định và tuệ.

Bốn tâm cao đẹp

Bốn tâm cao đẹp là niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới.

Niệm Bụt

Niệm Bụt không phải là cầu xin ân huệ từ một thế lực bên ngoài. Niệm Bụt làm cho tâm ta được tịnh hóa. Bụt là một con người như tất cả chúng ta, nhưng nhờ sự thực tập mà Ngài đã giác ngộ, chuyển hóa được những phiền não và khổ đau. Khi niệm Bụt ta có thêm niềm tin là ta cũng có thể làm được như Bụt, vì nếu Bụt là con người mà Ngài làm được thì ta là con người, ta cũng có thể làm được. Vì vậy diễn tả Bụt như một vị thần linh là một điều tai hại, làm cho người ta có cảm tưởng là không thể với tới được. Bụt đích thực là một con người. “Đường Xưa Mây Trắng” là bộ sách mà trong đó tác giả đã tìm đủ mọi cách để phục hồi tính người của Bụt. Thấy Bụt như một con người ta sẽ dễ dàng tiếp cận, còn nếu thấy Ngài là một thần linh thì rất khó để tiếp cận được. Bộ sách “Đường Xưa Mây Trắng” có công đức giúp cho ta thấy được Bụt là một con người để ta tiếp cận được dễ dàng và ta có niềm tin là ta cũng sẽ làm được như Bụt. Những đức tính của như Như Lai như: Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn là những đức tính mà chúng ta cũng có thể có được. Đó là mười danh hiệu của Bụt.

Mỗi khi cư sĩ Cấp Cô Độc nghĩ tới Bụt là ông có hạnh phúc ngay. Trong cuộc đời, nếu ta có được một người quen để mỗi khi nghĩ tới người đó là ta có hạnh phúc tràn trề như vậy thì rất quý. Thầy Xá Lợi Phất đến thăm bệnh ông Cấp Cô Độc, thầy biết rất rõ là ông đang rất đau nhức, nhưng nếu thầy nhắc tới Bụt thì chắc chắn là ông sẽ bớt đau ngay nên thầy Sariputra đã rất khôn ngoan nhắc đến Bụt khi làm thiền hướng dẫn cho người bệnh.

Niệm Pháp

Pháp là một đối tượng của tùy niệm, anusmṛti. Niệm Pháp cũng cho ta hạnh phúc rất nhiều. Pháp đại diện cho Bụt, Pháp là chất liệu của một vị Bụt. Bụt có Pháp thân. Pháp thân là sự thực tập, là tuệ giác, là cái mang đến cho ta tự do và hạnh phúc.

Pháp không phải là một cái gì mơ hồ xa xôi, ta có thể trực tiếp tiếp cận Pháp mà không cần phải qua trung gian một người nào khác.

Pháp có tính cách thiết thực có thể chứng nghiệm ngay trong hiện tại mà không phải đợi đến tương lai. Đặc tính của Pháp là sandiṭṭhika, nghĩa là có tính cách thiết thực có thể tiếp xúc được ngay trong giây phút hiện tại như hơi thở vào, hơi thở ra của ta. Thở vào, thở ra là chuyện chúng ta có thể thấy trong giây phút hiện tại. Nếu để tâm vào hơi thở vào và hơi thở ra ta sẽ thấy trong khi thở, ta đem tâm về với thân. Hơi thở làm cho thân của ta hay cảm thọ của ta lắng dịu xuống. Đó là chuyện thiết thực ta có thể làm được trong hiện tại.. Pháp vượt thoát thời gian (akālika), nghĩa là nó có hiệu nghiệm ngay trong giây phút hiện tại. Sự thực tập và hạnh phúc xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Giáo pháp mầu nhiệm này ta có thể tự mình thực chứng (ehipassika) mà không cần phải qua một trung gian. Ehipassika là tự mình tiếp cận và chứng nghiệm. Đây không phải là sự tín mộ hay sự cầu xin.

Diệu pháp của đức Thế Tôn, con đường mà chúng con đang nguyện đi theo, là giáo pháp đã được nhiệm mầu tuyên thuyết. Giáo pháp đó là thiện thuyết (well proclamed), là giáo pháp có thể chứng nghiệm ngay trong giây phút hiện tại (sandiṭṭhika), là giáo pháp có giá trị vượt thoát thời gian (akālika), là giáo pháp mọi người có thể đến mà tự thấy (ehipassika), là giáo pháp có công năng dẫn đạo đi lên, là giáo pháp có công năng dập tắt phiền não, là giáo pháp mà người trí nào cũng có thể tự mình thông đạt.

Đây không phải là sự lạy lục cầu xin, không phải là sự tín mộ mà trước hết là tâm linh, là tuệ giác. Vì vậy giáo pháp của đức Thế Tôn hiến tặng cho người tại gia là một loại giáo pháp thâm sâu, thuần túy, không dựa vào một niềm tin mù quáng. Khi tâm ta tiếp cận được với ba viên ngọc quý, tức Bụt, Pháp Và Tăng thì ta có được hạnh phúc ngay, ta cảm thấy có sự che chở bởi năng lượng của niệm-định-tuệ được chế tác ra trong khi ta thực tập.

Hạnh phúc ngay trong hiện tại

Ta niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới mà không cần phải niệm Thiên để được sinh lên cõi trời. Người ta muốn được sinh Thiên hay sinh cõi Tịnh độ, nhưng nếu ta đang có hạnh phúc ở đây, ngay trong giây phút hiện tại thì cõi này đã là cõi trời rồi, ta không cần Thiên giới hay cõi Tịnh độ nữa. Cụm từ “hiện pháp lạc trú” đã được lặp lại sáu lần trong kinh Người Áo Trắng. Là người xuất gia, nếu ta muốn đem Phật pháp chia sẻ với người cư sĩ thì ta phải chia sẻ thế nào để họ biết cách sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, đừng hứa hẹn với họ Niết bàn, Tịnh độ hay Thiên đường. Đó là ý của Bụt. Ta phải sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Chuyện này không khó làm và phương pháp thực tập lại rất dễ chịu. Ta cũng có thể làm hay hơn nữa, khi có được hạnh phúc thì ta chứng được quả vào dòng, cùng đi với tứ chúng như một dòng chảy. Nếu đi một mình như một giọt nước thì ta sẽ bốc hơi, đi như một dòng sông với đại chúng thì chắc chắn ta sẽ đi ra biển. Vào dòng là không đi lui nữa. Đã vào dòng rồi, dù có được giải thoát hoàn toàn trong năm kiếp hay trong hai kiếp nữa thì ta cũng đã yên, ta không còn lo sợ. Hơn nữa ta đang có hạnh phúc nên ta không cần phải giải thoát mau một cách hấp tấp.

Chuyển tải được chất liệu tâm linh hay chỉ là tín mộ?

Chúng ta có những phép thực tập dành cho người cư sĩ mà người xuất gia cũng có thể tham dự được. Nếu khéo léo thực tập thì những pháp môn đó có chất liệu tâm linh nhiều hơn chất liệu tín mộ. Có tất cả mười hạnh nguyện của đức Bồ tát Phổ Hiền mà chúng ta cần nên biết:

Nhất giả, lễ kính chư Phật.

Nhị giả, xưng tán Như Lai.

Tam giả, quảng tu cúng dường.

Tứ giả, sám hối nghiệp chướng.

Ngũ giả, tùy hỉ công đức.

Lục giả, thỉnh chuyển pháp luân.

Thất giả, thỉnh Phật trụ thế.

Bát giả, thường tùy Phật học.

Cửu giả, hằng thuận chúng sanh.

Thập giả, phổ giai hồi hướng.

Lễ kính: “Nhất giả, lễ kính chư Phật”

Sự thực tập đầu tiên là bày tỏ sự kính ngưỡng của mình đối với Bụt. Nhìn bên ngoài sự thực tập này giống như một hành động tín mộ, nhưng nếu ta biết cách thì sự thực tập đó có chất liệu tâm linh rất cao. Muốn lễ Bụt ta phải quán chiếu Bụt là ai, ta là ai, giữa ta và Bụt có sự liên hệ nào. Biết được giữa ta và Bụt không có sự ngăn cách thì tuệ giác của ta sẽ phát sinh trong khi ta lạy xuống. Sáng nay, khi đọc Sám Pháp Địa Xúc tôi cũng lạy xuống như các thầy, các sư chú và các đạo hữu. Nhưng trong khi lạy, tôi quán chiếu là mình đang lạy với tất cả dòng họ tổ tiên huyết thống và tâm linh mà không phải là một cá nhân riêng lẻ. Lạy như vậy là có chất liệu tâm linh. Ta cũng thấy được là giữa người đang lạy và người được lạy không tách rời nhau, vì trong tổ tiên tâm linh cũng có Bụt. Trong khi lạy ta tiếp xúc được tính vô ngã, tiếp xúc được tính bất nhị giữa Bụt và chúng sanh. Cái lạy đó không phải là tín mộ. Tuy bên ngoài có vẻ giống như ta đang cầu xin sự che chở, cầu xin một chút hạnh phúc, một chút tâm linh nhưng thật ra trong khi lạy, ta đang chế tác ra hạnh phúc, chế tác tự do và chế tác tâm linh.

Xưng tán: “Nhị giả, xưng tán Như Lai”

Xưng tán là ca ngợi, ta ca ngợi Bụt là bậc thầy của loài trời, loài người. Bụt đã qua tới một cách nhiệm mầu, đã diệt trừ được những phiền não, đã điều phục được con người dù là những người ngang ngược nhất. Nếu biết quán chiếu, ta thấy mình đang đi trên con đường của Bụt và mình cũng đang thực hiện những điều Bụt đã làm. Xưng tán Bụt đem lại cho ta tuệ giác, tự do và làm cho phiền não, tham vọng, hận thù trong ta tan biến, vì chúng ta đang hướng về một cái gì rất đẹp. Phương hướng rất quan trọng, khi biết được phương hướng để quay về thì ta buông bỏ được rất nhiều hệ lụy. Vì vậy con người phải có một hướng đi. Kinh có nói: “Làm thân con lạc đà chở nặng cũng chưa thật sự là khổ, vô minh không biết được hướng đi mới thật là khổ”. Khi lễ kính và xưng tán Bụt là ta biết đi về hướng của Bụt, của Bồ tát, là ta quay lưng lại với những cái bất thiện. Xưng tán Như Lai đem lại hạnh phúc cho ta ngay trong khi xưng tán.

Cúng dường: “Tam giả, quảng tu cúng dường”

Chúng ta thường nghĩ cúng dường là cung cấp cho người xuất gia bốn thứ cần thiết như: thức ăn, áo quần, thuốc men và chỗ ở gọi là tứ sự cúng dường. Cúng dường thì có công đức, công đức này giống như ta bỏ vào một trương mục tiết kiệm để ta xài dài dài sau này. Sự thật, nếu cúng dường bằng tâm thành kính thì ngay trong lúc cúng dường ta thực tập được sự buông bỏ, ta có niềm vui, có hạnh phúc, có tự do liền. Khi ta giúp cho người bớt khổ và cho họ có thêm niềm vui thì hạnh phúc sẽ có ngay lúc đó chứ không phải chỉ có trong tương lai.

Có rất nhiều cách cúng dường: tài thí, ta cúng dường thực phẩm, áo quần, thuốc men; pháp thí, ta cũng có thể cúng dường Phật pháp. Ta đem pháp Bụt để giúp cho người khác bớt khổ. Ta cho họ một giờ tham vấn và với kinh nghiệm, với tuệ giác của ta thì trong một giờ đó ta có thể kéo họ ra khỏi địa ngục. Cúng dường cách đó thật ra còn quan trọng hơn là cúng dường cơm áo. Ta ngồi lắng nghe một người đang bị trầm luân, khổ não, không có lối ra và ta quán chiếu, nhìn rõ, hiểu thấu nỗi khổ niềm đau của người đó rồi tìm cách giúp họ thoát ra khỏi thế giới của địa ngục, thế giới của khổ đau hệ lụy. Đó cũng là một hình thức cúng dường. Không cần phải có tiền mới cúng dường, chỉ cần có tình thương và tuệ giác là ta có thể cúng dường rất nhiều; vô úy thí, ta hiến tặng cho người khác sự bình an và giúp họ thoát ra khỏi nỗi sợ hãi. Cúng dường Pháp là như vậy.

Cúng dường hương không phải là cúng dường mùi thơm. Thay vì đốt một cây nhang, ta đốt cả nắm, tưởng rằng làm như vậy là có nhiều công đức. Chư tổ đã dạy ta phải biết cách cúng dường hương. Chúng ta có những bài kệ dâng hương rất hay:

Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. (Con có giới, có định, có tuệ, có giải thoát và con đem cúng dường lên Bụt).

Cúng dường như vậy thì công đức vô lượng, cúng dường không cần nhiều tiền mà chỉ cần tâm của mình.

Sám hối: “Tứ giả, sám hối nghiệp chướng”

Sám hối không phải là xưng tội. Với sự chứng minh của tăng thân, của sư anh, sư chị, của chư Bụt và chư Bồ tát, ta nhìn lại con người của mình để thấy ta đã đi tới đâu, ta đã thành công chỗ nào và chưa thành công chỗ nào để ta có thể đi tới.

Sám pháp địa xúc là một pháp môn rất hay, là một quá trình quán chiếu để chuyển hóa mà không phải là một hành động thú tội và cầu xin. Ở xóm Thượng sáng nào quý thầy cũng thực tập Sám pháp địa xúc. Ví dụ ta nói: Bạch đức Thế Tôn, lâu nay con đi như bị ma đuổi, con không có an lạc trong từng bước chân. Con sinh ra đời để đi như vậy thì rất uổng. Trong khi đức Thế Tôn đi từng bước thảnh thơi, an lạc, hạnh phúc, nuôi dưỡng trị liệu mà con lại đi như vậy thì con không xứng đáng làm học trò của Ngài. Con lạy xuống ba lạy và hứa với đức Thế Tôn là từ nay trở đi, mỗi bước chân của con sẽ có vững chãi, an lạc, thảnh thơi, nuôi dưỡng và trị liệu. Đó là một pháp sám đưa tới tuệ giác và lành mạnh hóa đời sống của ta.

Tùy hỉ: “Ngũ giả, tùy hỉ công đức”

Chúng ta phải có tâm niệm vui khi thấy người khác thành công. Người kia có hạnh phúc thì ta mừng cho người đó. Ta không ganh tị, tranh đua với người đó. Thấy bất cứ điều gì có tác dụng đưa nhân loại đi tới, giúp cho con người bớt khổ thì ta đều yểm trợ. Đó gọi là tùy hỉ công đức. Ta thấy những thực hiện của người đó cũng là những thực hiện của mình và những gì ta thực hiện cũng là để cho người đó có hạnh phúc.

Phóng sinh

Chúng ta có sự thực tập như phóng sinh, tức thả chim, thả cá. Sự thực tập này không hẳn chỉ là sự tín mộ mà có thể là tâm linh. Hành động này có thể đem lại hạnh phúc và niềm vui vì ta bảo hộ được cho các loài chúng sinh. Ăn chay là một trong những hành động phóng sinh đẹp nhất. Trong khi ăn chay, ta có hạnh phúc, có niềm vui, vì ta không cần ăn thịt của chúng sinh, ta góp phần bảo hộ môi sinh để cho trái đất này có một tương lai.

Ngoài ra, còn có rất nhiều những phương tiện khác như tu tạo công đức bằng cách giúp người nghèo, người cô đơn, xây tháp, đúc chuông, in kinh, cúng thí thực. Ta cũng cần nói thêm về việc đeo tượng Bụt.

Đeo tượng Bụt hay thờ Bụt là để nhắc nhở ta nhớ về hình ảnh của Bụt, để nhắc rằng ta đã có con đường. Đeo tượng Bụt như vậy thì có tính cách tâm linh. Nếu nghĩ tượng Bụt này rất linh thiêng, đem theo trong xe ta sẽ không bao giờ gặp tai nạn thì đó là sự tín mộ.

Trong kinh, Bụt dạy về tâm linh nhiều hơn sự tín mộ. Ngài rất coi trọng người cư sĩ, Ngài biết người cư sĩ có khả năng thực tập thành công rất lớn. Chúng ta có thể nghĩ rằng sự thực tập trước tiên là để có chất liệu tâm linh, có khả năng chế tác giới, định và tuệ. Nhưng nếu không khéo thì tất cả sự thực tập tâm linh trở thành sự tín mộ, trong đó có thể có cả sự ma thuật. Muốn đem Phật pháp truyền bá rộng rãi trong nhân gian, ta phải nắm được vấn đề để đừng làm thoái hóa đạo Bụt, để đừng làm mất đi bản chất của đạo Bụt. Ví dụ trong kinh Bụt dạy người cư sĩ phải thực tập như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại và hạnh phúc trong hiện tại sẽ bảo đảm cho tương lai. Nếu khuyên người ta nên phát tâm nhàm chán cõi đời này để cầu sang một cõi khác là không đúng theo nguyên ý của Bụt. Bỏ hiện tại để tìm cầu tương lai là không đúng với hoài bảo của Bụt. Trong kinh Bụt có nói tới cõi trời như một nơi ta có thể sinh ra trở lại để tu học mà không phải là đích đến cuối cùng. Mục đích cuối cùng của chúng ta là giải thoát hoàn toàn.

Người ta nói cúng dường cho các thầy thì sau này được sinh lên cõi trời là không đúng. Ta có thể được sinh lên cõi trời nhưng đó không phải là mục đích chính. Mục đích đầu tiên là phải có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại và được sinh lên cõi trời hay lên cõi Tịnh độ chỉ là những sản phẩm phụ mà thôi. Lấy sản phẩm phụ làm mục tiêu là không đúng. Mục tiêu là sống hạnh phúc ngay lập tức. Ta phải giúp Bụt, ta phải phục hồi lại giáo lý Nguyên thỉ của Ngài. Ta phải cống hiến phương pháp tu như thế nào để người ta có hạnh phúc, có giải thoát, có tự do ngay trong giây phút hiện tại và hạnh phúc đó bảo đảm cho tương lai. Không phải là Bụt không nghĩ tới tương lai, nhưng Ngài nói tương lai tùy thuộc hiện tại, nếu hiện tại ta có hạnh phúc thì chắc chắn là ta sẽ có hạnh phúc trong tương lai.

Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

Kinh Giáo Hóa Người Bệnh hay kinh Độ Người Hấp Hối là kinh 26 Trung A Hàm hay kinh M. 143 Trung Bộ của tạng Pāli.

Kinh kể lại giờ phút sắp qua đời của ông Cấp Cô Độc. Trong kinh chúng ta thấy một điều rất hay: Khi ông Cấp Cô Độc sắp từ trần thì thầy Xá Lợi Phất và thầy A Nan ngồi bên cạnh. Thầy Xá Lợi Phất đã dạy cho ông Cấp Cô Độc một sự thật không nằm trên bình diện của sự thật tương đối mà thuộc về bình diện của thắng nghĩa đế. Đó là sự thật không sinh không diệt, không tới không đi, không có không không, không còn không mất. Chỉ với tuệ giác đó thì người chết mới có thể ra đi nhẹ nhàng, thoải mái. Thầy Xá Lợi Phất đã khôn khéo cung cấp cho ông Cấp Cô Độc một bài thiền tập hướng dẫn. Trong vòng 30 phút ông Cấp Cô Độc đã tiếp thu được và thực tập thành công. Thầy Xá Lợi Phất đã hướng dẫn rất thành công và ông Cấp Cô Độc mở được lòng ra, thấy được tự tánh không sinh không diệt, không có không không và ông được giải thoát ngay trong giây phút đó. Nước mắt của ông chảy ròng ròng. Thấy ông khóc thầy A Nan tưởng rằng ông còn tiếc nuối điều gì nên hỏi:

– Cư sĩ, tại sao ông khóc, ông còn tiếc nuối gì không?

– Tôi không tiếc nuối gì cả.

– Ông thực tập không thành công sao?

– Thưa thầy, tôi thực tập rất thành công?

– Vậy tại sao ông khóc?

– Thưa thầy, tôi khóc tại vì tôi cảm động quá. Tôi phụng sự đức Như Lai và tăng đoàn trên ba mươi năm nay mà chưa bao giờ tôi được nghe giáo lý nào thâm diệu, mầu nhiệm như vậy. Giáo lý không sinh không diệt, không có không không, không còn không mất làm cho tôi hoàn toàn không còn sợ hãi nữa.

Thầy A Nan ngây thơ nói:

– Cư sĩ, ông không biết chứ giáo lý này chúng tôi nghe hầu như mỗi ngày.

Trong ba tháng của mùa An Cư, buổi giảng nào tôi cũng luôn bắt đầu bằng những pháp môn thực tập trên bình diện của thế tục đế, rồi còn thì giờ tôi mới từ từ đi xuống bình diện của thắng nghĩa đế. Ngày xưa các thầy cũng dạy cho cư sĩ những phép thực tập để đáp lại mối quan tâm thường nhật của họ. Nhưng đến khi họ chết thì những phép thực tập đó không đủ để giúp cho họ.

Sau khi nghe thầy A Nan nói như vậy, ông Cấp Cô Độc nói:

– Bạch thầy A Nan, xin thầy về thưa lại với đức Thế Tôn rằng những cư sĩ áo trắng như chúng con phần lớn đều rất bận rộn, họ có những mối quan tâm rất thường nhật. Nhưng cũng có một số chúng con có thể có khả năng tiếp nhận và thực tập được giáo lý vi diệu này. Sau khi thành công trong sự nghiệp, chúng con cũng muốn được học giáo lý mà các thầy đã học. Người cư sĩ chúng con cũng có mối quan tâm tối hậu, tại vì chúng con rất cần nó trong lúc đi vào tình trạng sắp lìa đời. Chúng con cũng muốn biết mình sẽ đi về đâu?

Sau khi đã thực tập dưới sự hướng dẫn của thầy Xá Lợi Phất thì ông Cấp Cô Độc thoát ra khỏi sự sợ hãi. Người sắp chết thường rất sợ hãi, họ không biết mình sẽ đi về đâu. Một khi đã biết rõ được tính chất của vạn pháp là không tới, không đi, không có, không không, không sinh, không diệt, cư sĩ Cấp Cô Độc đã qua đời một cách rất nhẹ nhàng. Cư sĩ đã nhắn lại một lời thỉnh cầu: Phần lớn người cư sĩ chỉ lo chuyện làm ăn buôn bán, chuyện gia đình, sự nghiệp mà không có thì giờ để học hỏi giáo pháp nhiều. Tuy vậy trong số những người cư sĩ cũng có những người có khả năng và có thì giờ để học hỏi, để tiếp thu và hành trì giáo pháp mầu nhiệm mà thầy Xá Lợi Phất đã trao truyền như hôm nay. Xin thầy A Nan về bạch với đức Thế Tôn cũng nên ban phát giáo lý bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai cho giới cư sĩ.

Vì vậy trong những khóa tu Làng Mai tổ chức tại Âu châu hay Mỹ châu đều có một bài giảng cuối cùng về không sinh không diệt. Đó là thể theo lời thỉnh cầu của cư sĩ Cấp Cô Độc, một khóa tu bảy ngày mà không có giáo lý về sinh tử để đáp ứng lại mối quan tâm tối hậu của người cư sĩ thì vẫn còn chưa đầy đủ.

Ngay từ hồi Bụt còn tại thế, giáo lý và sự thực tập đã cung cấp cho giới tại gia có đủ chất liệu tâm linh (spirituality) và tín mộ (devotion), nhưng chủ yếu là chất liệu tâm linh. Bởi vì dù sao đạo Bụt cũng là một đạo chủ trương cứu hộ bằng tuệ giác hơn là bằng ân huệ, chú trọng về tự lực hơn là tha lực. Các kinh dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc chẳng hạn, biểu trưng cho tinh thần và phương pháp này. Người đệ tử áo trắng (nghĩa là cư sĩ) nếu thực tập theo Năm giới và Bốn phép tùy niệm (bốn tâm cao đẹp – tứ tăng thượng tâm) là có thể có hạnh phúc ngay trong đời hiện tại, trong giây phút hiện tại, chứ không cần đợi đến kiếp sau hoặc sinh lên các cõi trời mới có hạnh phúc. Theo Kinh Người Áo Trắng (Ưu Bà Tắc Kinh, Trung A hàm 128) thì thực tập theo Năm giới và Bốn phép tùy niệm (niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới) thì thân tâm được tịnh hóa, được bảo hộ bởi những năng lượng lành do sự thực tập chế tác từ bi mà không còn sợ bị sa đọa vào những nẻo khổ đau như địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Người hành giả có chất thánh nhờ có sự thực tập ấy nên được gọi là thánh đệ tử. Người ấy có thể chứng được quả Vào dòng (Nhập lưu) chỉ cần bảy lần sinh ra trong cõi trời hay cõi người là có thể đạt tới giải thoát hoàn toàn như một vị xuất gia đạt tới quả A la hán và sống trong Niết bàn hiện tại.

Trì giới là để tự bảo hộ mình. Niệm Bụt, Niệm Pháp, Niệm Tăng không phải là để cầu xin sự che chở của những thế lực bên ngoài mà là để cho tâm được thanh tịnh, đạt tới niềm vui, diệt trừ được các tâm niệm tham đắm, nhiễm ô, sầu khổ, nghi ngờ và lo lắng (nhược hữu ác dục tức hữu đắc diệt, tâm trung hữu bất thiện, uế ô, sầu khổ, ưu hoặc phục đắc diệt). Hành trì như thế có nghĩa là nương vào tự lực hơn là tha lực, có chất liệu tâm linh hơn là chất liệu tín mộ, khoa học hơn là tôn giáo. Nhưng giữa tâm linh và tín mộ không có một ranh giới rạch ròi. Tâm linh có thể làm sinh khởi thêm tín mộ, và tín mộ có thể giúp cho tâm linh lớn mạnh hơn. Điều quan trọng là đừng để cho tín mộ chiếm hết chỗ của tâm linh, nghĩa là làm mất đi sự thực tập tự lực. Nhưng bản chất của con người là có nhu yếu tín mộ, cho nên nếu không khéo léo dạy dỗ và duy trì thì một ngày nào đó sự tín mộ sẽ lấn hết chỗ của tâm linh, và người hành giả chỉ còn tin vào Bụt Pháp Tăng như những lực lượng che chở, bảo hộ, đến từ bên ngoài.

Niệm Bụt trước tiên là tin tưởng ở khả năng giác ngộ và tự độ trong chính bản thân mình. Bụt trước hết là một con người, nhưng nhờ có hành trì cho nên thành Bụt. Vì vậy, là con người mình cũng có thể làm như Bụt. Nhưng nếu thực tập không khéo, mình sẽ rơi vào tình trạng tin rằng mình hoàn toàn bất lực, mình chỉ có thể nương vào sức mạnh cứu hộ đến từ bên ngoài. Chủ ý của Kinh không phải như thế. Nhưng nếu ta thực tập thông minh thì những phép hành trì bên ngoài có tính cách tín mộ cũng có thể đem tới chất liệu tâm linh và tuệ giác, có khả năng tịnh hóa, làm lắng dịu và đem lại nguồn vui sống ngay trong lúc thực tập. Đó là những pháp lễ lạy, xưng tán, cúng dường, sám hối, phóng sinh, tu tạo công đức (bố thí, in kinh), ăn chay, tụng kinh, niệm Bụt, v.v…

Kinh Độ Người Hấp Hối chứng tỏ rằng người cư sĩ cũng có thể có những quan tâm tối hậu (ultimate concern) liên quan tới vấn đề sống chết, và cung cấp những giáo lý đáp ứng được với những quan tâm tối hậu ấy. Trong kinh ta thấy thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn cho cư sĩ Cấp Cô Độc thực tập quán chiếu về thực tại không sinh, không diệt, không tới, không đi để giúp ông qua đời một cách thanh thản. Vì vậy cho nên nói rằng đối với người cư sĩ tại gia, sự thực tập của họ chỉ là tín mộ và cúng dường để có công đức là không đúng. Đạo Bụt đi từ cạn tới sâu, từ thấp lên cao, và sử dụng cả hai loại sự thực thế tục đế và thắng nghĩa đế, không thấy gì quan ngại. Tinh thần không cố chấp không giáo điều được trông thấy rất rõ. Muốn đem Phật pháp truyền bá rộng rãi trong nhân gian, ta phải nắm được vấn đề để đừng làm thoái hóa đạo Bụt, để đừng làm mất đi bản chất của đạo Bụt.

Chương 18: Bất thối chuyển

Quan niệm bất thối chuyển

Trong đạo Bụt có quan niệm bất thối chuyển, có nghĩa là không rơi trở lại trong cõi hệ lụy và luân hồi. Mọi người đều mong muốn là khi đạt tới Niết bàn rồi thì ta ở đó hoài không rơi xuống nữa. Cũng như một người bị bệnh trầm cảm đã được chữa trị khỏi bệnh, nhưng nếu không thay đổi cách sống thì người đó sẽ rơi vào trầm cảm trở lại. Đạt tới chỗ không rơi trở lại nữa gọi là bất thối chuyển.

Nhiều người tin rằng khi tu mà đạt tới quả vị bất thối chuyển thì sẽ không bao giờ đau khổ nữa. Vì vậy có quan niệm Niết bàn hữu dư y và Niết bàn vô dư y. Niết bàn hữu dư y là Niết bàn chưa tuyệt đối, những phiền não còn ngủ đâu đó và ta có thể buồn, giận trở lại. Niết bàn vô dư y là Niết bàn tuyệt đối, những phiền não không bao giờ trở lại. Chúng ta, người nào cũng khao khát cái tuyệt đối nên mục đích cuối cùng là phải đạt tới chỗ toàn giác.

Chúng ta mong muốn một sự toàn hảo (perfection), tức là sự vắng mặt của sự không toàn hảo (imperfection). Toàn hảo và không toàn hảo cũng là một cặp đối nghịch mà ta phải thoát ra. Tôi thường quán chiếu và thấy rằng: Người ta nói đức Thế Tôn đã chứng ngộ, Ngài là một bậc giác ngộ hoàn toàn. Nhưng tại sao mỗi ngày Ngài cũng ngồi thiền, đi thiền và thực tập như các thầy khác? Đã thành Bụt rồi mà Ngài còn thực tập làm gì? Chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao thành Bụt rồi mà còn phải ngồi thiền? Ngồi thiền có phải để thành Bụt hay không? Như vậy là chưa đạt tới bất thối chuyển hay sao?

Theo nguyên tắc thì tất cả đều vô thường (chư hạnh vô thường). Nếu ta tin đó là sự thật thì Bụt cũng vô thường, niềm vui cũng vô thường, giác ngộ cũng vô thường. Niềm vui là một thực tại sống động, sự giác ngộ cũng là một thực tại sống động. Bất cứ thực tại sống động nào cũng đều vô thường. Vì vậy niềm vui hay sự giác ngộ cũng có thể tàn hoại. Niềm vui của ta cần phải được nuôi dưỡng thì nó mới duy trì được lâu dài. Sự giác ngộ của ta cũng cần được nuôi dưỡng thì nó mới duy trì lâu dài. You have to nourish your enlightenment because it is also impermanent. Bụt cũng phải nuôi dưỡng sự giác ngộ và tâm bồ đề của mình, nuôi dưỡng niềm vui và sự giải thoát của mình. Vì vậy Bụt vẫn tiếp tục thực tập. Bất thối chuyển có nghĩa là nếu biết phương pháp thì ta sẽ không rớt trở lại. Bất thối chuyển không có nghĩa là đi tới một trạng thái vĩnh viễn không bao giờ rơi xuống, vì trong ánh sáng của vô thường thì không có gì là vĩnh viễn cả. Nếu tất cả đều vô thường thì Bụt cũng vô thường.

Vậy thì Phật tánh có vô thường hay không? Phật tánh là một ý niệm, và ý niệm đó được thành lập bằng một ý niệm khác là chúng sinh tánh. Một bên là phàm (worldliness) còn một bên là thánh (holiness), không có phàm thì sẽ không có thánh. Cũng như sen với bùn, không có bùn thì không thể làm ra bông sen. Chất thánh được làm bằng chất phàm, hết chất phàm thì chất thánh cũng không còn. Nếu theo đúng con đường trung đạo và tuệ giác vô thường thì ta phải công nhận điều này. Có thánh là có phàm, phàm nằm ngay trong thánh, cũng như nhìn vào bông sen ta thấy có bùn, lấy bùn ra khỏi bông sen thì bông sen cũng không còn. Đó là cái thấy bất nhị. Chúng ta thử tưởng tượng chỉ có bông sen mà không có bùn, chỉ có thánh mà không có phàm, có thể xảy ra điều đó chăng? Nếu tưởng tượng có bồ đề mà không có phiền não là không đúng. Nhưng có một sự thật mà ta phải công nhận là ta có thể chuyển phiền não thành bồ đề và nếu ta tu không đúng pháp thì bồ đề lại trở thành phiền não. Đức Thế Tôn biết rõ điều đó nên Ngài vẫn ngồi thiền như chúng ta, Ngài không muốn bồ đề của mình trở thành phiền não.

Chúng ta phải hiểu chữ bất thối chuyển là như vậy, khi có sự thực tập vững vàng thì ta không còn sợ phải rơi xuống trở lại nữa. Ta phải bỏ đi sự tin tưởng ngây thơ rằng một khi đã đạt tới toàn giác rồi thì ta không cần phải làm gì nữa cả. Chất thánh, chúng ta có thể chế tác được. Ta có tham lam, giận hờn, si mê, quên lãng, nhưng nếu biết cách ta có thể chế tác niệm, định và tuệ. Niệm, định và tuệ là những năng lượng thánh, mà những năng lượng thánh đó được chế tác bằng năng lượng phàm. Nếu biết cách ta có thể chuyển năng lượng phàm thành năng lượng thánh, cũng như ta có thể chuyển bùn thành sen. Theo cái thấy bất nhị thì phàm và thánh tương tức với nhau.

Một hôm tôi chiêm nghiệm thì thấy rằng mình không nhất thiết phải cần Niết bàn vô dư y, có Niết bàn hữu dư y là đủ rồi. Tuy còn một chút phiền não nhưng đã biết cách chuyển hóa thì ta không cần phải lo lắng nữa. Là một người tu ta có khả năng chuyển hóa phiền não hay không? Những phương pháp chuyển hóa thì Bụt đã dạy và thầy đã trao truyền cho ta rồi. Vấn đề là ta có biết xử lý nỗi khổ niềm đau, cơn giận hay nỗi buồn của ta hay không? Nếu đã biết cách thì ta không lo sợ nữa, ta có hạnh phúc ngay bây giờ. Bùn vẫn có đó nhưng ta không sợ vì ta đã biết cách làm ra sen. Phiền não có đó nhưng ta không lo vì ta đã biết cách làm ra bồ đề. Hạnh phúc có thể có ngay trong giây phút hiện tại.

Ta đã có con đường rồi, con đường đó là con đường bát chánh. Bụt đã dạy con đường bát chánh để đưa ta tới Niết bàn, chỉ cần nhìn vào con đường là ta thấy được Niết bàn. Cũng như chúng ta đã nói: Giữ một giới là ta có một tự do, giữ hai giới là ta có hai tự do, ta có tự do ngay lập tức. Niết bàn là tự do, là sự lắng dịu đó. Niết bàn hay giải thoát không phải là cái gì ta nhắm tới ở một nơi nào khác hoặc ở tương lai. Niết bàn, giải thoát, an lạc, niềm vui có thể có ngay trong giây phút hiện tại. Nếu đã có con đường thì trong đời sống hằng ngày ta có thể chế tác được hỷ, lạc, hạnh phúc và tự do. Nếu đã có con đường thì ta có thể xử lý được những nỗi khổ niềm đau, chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc. Ta không cần phải đi đâu, không cần phải tìm gì, ta đã có tất cả trong giây phút hiện tại.

Thánh và phàm cũng tương tức như mê và ngộ. Thánh được làm bằng những yếu tố không phải thánh, trong đó có phàm, cũng như hoa sen được làm thành bởi các yếu tố không phải sen, trong đó có bùn. Nếu không có phàm thì không có thánh. Vì vậy cho nên nghĩ rằng sự có mặt của cái thánh là sự vắng mặt vĩnh viễn của cái phàm là một tà kiến. Cái thánh là một pháp cũng như cái phàm. Mà hễ nó là một pháp thì nó cũng vô thường như bất cứ

một pháp nào khác. Vì vậy bất thối chuyển không có nghĩa rằng cái thánh là cái thường còn và cái phàm là cái vô thường. Cái thánh, cũng như cái an lạc lắng dịu mà nó đem tới, cần được nuôi dưỡng và bảo trì bằng sự thực tập thì mới có được tình trạng không thối chuyển. Điều này giúp ta hiểu tại sao đã đạt tới toàn giác, đã thành Bụt rồi, mà đức Thế Tôn vẫn thực tập thiền tọa và thiền hành mỗi ngày. Bất thối chuyển là một trạng thái chỉ có thể kéo dài được nhờ công phu thực tập. Nắm vững được pháp môn thực tập, áp dụng pháp môn trong đời sống hàng ngày và tiếp tục hành trì thì mới duy trì được tình trạng bất thối chuyển. Cũng như một khu vườn phải được chăm sóc hàng ngày mới không bị cỏ dại gai gốc xâm chiếm. Cỏ dại gai gốc, những bông hoa tàn, v.v.. tượng trưng cho phiền não. Khu vườn sạch cỏ, những bông hoa mới tiếp tục có mặt tượng trưng cho bồ đề. Phải có rác mới có hoa, phải có phiền não mới có bồ đề. Phiền não là phân bón, là thức ăn cho bồ đề. Phải tìm bồ đề ngay trong phiền não, vì vậy cho nên ta có các câu: “phiền não tức bồ đề” và “tìm Niết bàn trong sinh tử”.

Cho nên câu nói “sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không trở lại trạng thái này nữa” (sinh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, bất thọ hậu hữu) cần phải xét lại. Sinh là phiền não, là chất liệu luân hồi. Nếu nghĩ rằng yếu tố này tuyệt đối không còn nữa, đã hoàn toàn tiêu diệt, thì ta rơi vào đoạn kiến, ta ra khỏi con đường trung đạo, ta bị kẹt vào ý niệm sinh diệt, có không, còn mất. Phạm hạnh đã thành (đời sống người tu đã thành tựu) và việc cần làm đã làm, có nghĩa là bây giờ không cần phải làm gì nữa, không cần phải thực tập nữa, không cần phải tu nữa. Không còn trở lại tình trạng này nữa (bất thọ hậu hữu) nghĩa là không bị sinh tử luân hồi ràng buộc nữa. Ai trở lại và ai không trở lại? Có một cái ngã thường tại để trở lại hay không trở lại không? Theo cái thấy trung đạo thì làm gì có chuyện trở lại với không trở lại, bởi vì thực tính của các pháp là không khứ cũng không lai? Không trở lại có nghĩa là không trở lại cõi sinh tử luân hồi, mà an trú ở Niết bàn. Nhưng Niết bàn ở đâu? Niết bàn có thể có ngoài sinh tử hay không? Có thể lấy Niết bàn ra khỏi sinh tử, có thể lấy bồ đề ra khỏi phiền não hay không? Tại sao thiền sư Vân Phong nói “phải tìm Niết bàn ngay trong cõi sinh tử” ?

Khi đức Thế Tôn nói có một cái gì không sinh, không hữu, không tác, không hành, đức Thế Tôn đang nói về Niết bàn. Nhưng Thế Tôn không có ý nói rằng Niết bàn là một “cái”, nghĩa là một pháp. Nếu nó là một pháp thì Niết bàn cũng vô thường, cũng vô ngã, cũng hữu vi, nhưng Niết bàn là vô vi. Vô vi, thật sự không phải là một pháp. Nói vô vi là một pháp như những pháp hữu vi khác thì rất nguy hiểm, có thể đưa lại những hiểu lầm rất lớn. Niết bàn cũng không phải là một pháp, một “cái”. Niết bàn là tính chất đích thực của tất cả các pháp. Nhìn bề ngoài các pháp dường như có sinh có diệt, có hữu có vô nhưng tiếp xúc được vào chiều sâu nhờ quán chiếu duyên khởi và trung đạo ta thấy được tính chất đích thực của các pháp là không sinh, không diệt, không hữu, không vô, v.v… và tính chất ấy là Niết bàn. Sinh tử là cái tướng bên ngoài của các pháp. Niết bàn là bản chất đích thực của các pháp. Tiếp xúc được Niết bàn thì hết sợ hãi và khổ đau, đạt tới lắng dịu. Cho nên nói là phải tìm Niết bàn ngay trong sinh tử, cũng như phải tìm Bụt trong chúng sinh.