Thông điệp

trán tôi đã tng nhăn

ưu ca cuc đi đã v ghi du chân nng n

trên khong tri mai y

nhưng tr t tâm hn tôi hôm nay tr li

hoa v trên n i buông th

vô tình xóa m nhng nếp nhăn đi

như mưa chiu nay xóa đi nhng du chân trên bãi vng qua mt chu k

tôi đi gia rng cng gai như đi gia vưn k hoa d tho

đầu ct cao, n i ngày xưa còn đó

nhng vn t đã n trong tiếng gào súng đn

nưc mt ngày xưa khóc nng quái chiu hôm trên chiến trưng ng vt

bng đã tr thành mưa; tiếng mưa rơi êm êm trên mái

quê hương tui t thm gi tôi v

mưa xóa đi bao tâm su mun

 

tôi vn còn n i chiu nay bình lng,

trái ngt chín trên cây rng cay đng

ôm xác em thơ, tôi ng qua rung lúa quê hương đêm nay

đất m s gìn gi em

để trên bãi c xanh non, sáng mai này em s luân hi thành nhng ng hoa mi

nhng ng hoa i trm lng trong bình minh đng ni

giờ pt này em có còn khóc đâu qua mt đêm dài thăm thm sâu

sáng nay tôi qu trên bãi c xanh khi tng thy

nhng ng hoa mang n i huyn diu

tng đip ca hy sinh ca trm lng qu đã ti nơi ri.


Đây là một bài thơ rất được phổ biến trong giới nhân bản và tôn giáo Tây phương. Bài này đã được Thầy tự tay dịch ra Anh ngữ, vào khoảng năm 1965. Tổ chức F.O.R đã in bài thơ này trong một thiệp chúc giáng sinh. Bản dịch tiếng Anh đã được nhạc sĩ Donald Swann phổ nhạc. Tại đại nhạc hội tổ chức tại Luân Đôn ngày 16 tháng 3 năm 1971, có Thầy tham dự, nhạc sĩ Donald Swann đã trình diễn bản nhạc này. Tại Hoa Kỳ nhạc sĩ Richard Wunder cũng phổ nhạc bản dịch Anh ngữ của bài thơ và ông cũng đã trình diễn bài này với giọng tenor, nghệ sĩ Mary Ellen O’Neil đệm dương cầm trong một đại nhạc hội tổ chức tại Salt Lake City ngày 6 tháng 1 năm 1976. Bài thơ này cũng được nữ sĩ Michèle Chamant dịch ra Pháp văn. Bản dịch này được nhạc sĩ Graeme Allwright phổ nhạc và trình diễn tại rạp Olympia và sau đó đi trình diễn rất nhiều nơi trên đất Pháp trước khi đưa vào đĩa nhạc Questions do nhà Intersong thực hiện năm 1978. 

Đêm cầu nguyện

giờ phút linh thiêng

gió lặng chim ngừng

trái đất rung động bảy lần

khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt

bàn tay chuyển pháp

trong hương đêm tinh khiết

ấn cát tường nở trắng một bông hoa

thế giới ba ngàn đồng thanh ca ngợi Văn Phật Thích Ca

giờ phút linh thiêng

đóa bất diệt nở ngay giữa vườn hoa sinh diệt

nụ giác ngộ hóa thành muôn thi thiết

ngài về đây học tiếng nói loài người

đêm nao

từ trời Đâu Suất nhìn về

chư thiên thấy địa cầu quê hương tôi sáng hơn vì sao sáng

và tinh tú muôn phương chầu về

cho đến khi vừng đông tỏa rạng

cho đến khi vườn Lâm Tỳ Ni biến thành chiếc nôi êm chào đón Phật sơ sinh

nhưng đêm nay

từ địa cầu quê hương tôi

loài người mắt lệ rưng rưng

hướng cả về mấy từng trời Đâu Suất

tiếng kêu khóc của sinh linh ngã gục

dưới bàn tay bạo lực căm thù

trong bóng đêm

địa cầu quê hương tôi đã mòn mỏi trông chờ

giờ mầu nhiệm để vô biên hé mở

cho ng ti tan đi vi nim lo s

cho hi Long Hoa v

để pháp âm tiếp ni bng li ca tiếng hát em t

đêm nay xin mưi phương trăng sao chng minh

cho đa cu quê hương tôi ng li cu nguyn

cho Vit Nam khói la

cho Vit Nam điêu linh

cho Vit Nam, qun qui đm chìm trong u l,

sm vùng dy trong đau thương thế k

để biến thành chiếc nôi êm đón chào T Th

thêm mt ln hoa n Pht sinh

đêm nay cu cho kh đau trái kết hoa thành

cho sinh dit đi ngang ng pháp thân bt dit

cho sui tình thương chy tràn trên vn ng tha thiết

để loài ngưi hc tiếng nói chân như

để tiếng nói tr t thành ging chim ca.

Bài này tôi thuộc lòng vì nó đã được Thầy phổ nhạc và tôi đã hát hàng trăm lần trong các thánh đường Công giáo, Tin Lành. Hơi nhạc của bài này rất trang nghiêm và hùng mạnh. Tại Đại hội Tôn giáo và Hòa bình năm 1974 ở Louvain, hồi ấy có thầy Huyền Quang và Thiện Minh tham dự, tôi đã hát bài này để mở đầu buổi trình diễn của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam về cuộc tranh đấu bất bạo động cho hòa bình.

Trên trái đất, cách đây hai ngàn năm trăm ba mươi năm, một đức Phật đã ra đời, đó là đức Thích Ca. Sự xuất hiện của ngài được miêu tả như là bt dit đi ngang ng sinh dit, gây nên sự chấn động bảy lần liên tiếp của trái đất. Trên quê hương đổ nát, tác giả đã cầu nguyện cho những khổ đau Việt Nam được thành hoa, kết trái, cho sinh dit đi ngang dòng pháp thân bt dit để đất nước điêu linh này biến thành một chiếc nôi mới chào đón một đức Phật mới, đó là đức Di Lặc Từ Thị. Tôi rất ưa hình ảnh đức Phật giáng trần để học tiếng nói loài người, cũng như hình ảnh loài người bập bẹ học nói tiếng chân như, và một sáng mai nào đó tiếng nói trẻ thơ nghe như tiếng chim ca…

Bản dịch Anh văn của bài thơ này đã được tổ chức Fellowship of Reconciliation in trong một thiệp chúc Noel cùng với một bức tranh của họa sĩ Võ Đình. Bức tranh này anh Võ Đình vẽ để tặng tổ chức F.O.R, hiện còn được trưng bài tại Nyack, New York.

Sáng nay em đi

cho tương lai

một khoanh trời loáng bạc

cánh phụng hoàng vươn

vút cao trời lồng lộng!

sóng bạc níu chân cầu

ánh sáng gọi dậy đàn chim non

chỗ trú ẩn năm xưa

nay là nơi tiễn em

trở về với

chốn sông dài biển rộng.

Đêm hội trăng rằm

cái gì sẽ xảy ra khi Sắc chạm phải Không

và cái gì sẽ xảy ta khi tưởng đi vào phi tưởng?

kẻ trượng phu ơi hãy ở lại cùng tôi quan sát:

hai tên hề Sinh Tử đang cùng nhau bày trò

ảo thuật trên sân khấu thế gian

a thu lá chín, lá bay

vàng đỏ diễn phô, đầy trời ngoạn mục

đã từ bao lâu cành nâng niu nắm giữ

sáng hôm nay cành buông: lá hồng theo gió bay đi

           đèn đã treo cờ đã giăng

           đêm hội trăng rằm đủ mặt

bậc trượng phu ơi còn đợi gì?

vầng sáng trên cao chưa tắt

đêm nay trời không một gợn mây

đèn lửa hỏi thêm phiền

lo chi chuyện cơm nước

ai tìm, mà ai được?

cùng trăng vui suốt đêm.

 

Hai câu “đèn lửa hỏi thêm phiền, lo chi chuyện cơm nước” gợi nhớ tới hai câu của thiền tổ Liễu Quán:

tảo tri đăng thị hỏa

phạn thục dĩ đa thì.

(nếu sớm biết đèn là lửa

cơm chín đã lâu rồi.)

“Chuyện cơm nước” ở đây chắc hẳn là chuyện công phu thiền quán, “Sắc chạm phải Không” thì cũng như matière chạm phải anti-matière, cái gì sẽ xảy ra. Sinh và Tử, Sắc và Không, Tưởng và Phi Tưởng đều là hiện tướng. Xin các bạn tham khảo lại bài Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng và bài Hãy gọi đúng tên tôi.

Ngày nào tôi tháo được trái tim

  1. Ngưi anh em (da u) ca tôi đói. Đa ngc sát ngay mt n. Tôi ngn ngơ ngơ ngn làm sao, đ cho ông chiếm mt miếng tht bò.
  2. Ngưi anh em (da ng) ca tôi khn cùng. Đa con anh bui sáng kng có c khoai vào bng, xu ngt trên ghế nhà trưng. Tôi còn lo tranh đu đ ch nhà đng tăng tin nhà, t ông đã trang b đưc máy mi ri, tôi tht nghi
  3. Ngưi anh em (da đen) ca tôi thiếu ăn mà kng ngt sinh con n cháu, anh ơi, sinh ra nhiu quá cơm go đâu mà nuôi. Nhưng anh biết làm sao? Ngưi v kng có sa có cơm, m con b bên v đưng, hy vng có ngưi đng tâm đem v nuôi ng. Mưi hai triu tr em chết đói ti các nưc chm tiến mi năm. Tôi ngày đêm tranh đu đ tăng đng ơng smic. Tôi ngày đêm tranh đu đ chng g sinh hot vt T gi đâu mà lo lng cho ngưi anh em khn kh.
  4. Ngưi anh em (da trng) ca tôi làm 3 x 8, ăn ng tht thưng, t nhà máy v ni đóa đp v la con. Đa ngc ngay đây. Cng tôi bn tranh đu ngay ti nơi này, t gi đâu lo cho ngưi anh em chúng tôi nơi khác?
  5. Ông bo vì quyn li quc gia, không th ngưng đà phát trin kinh doanh. Ông mun thu dng tôi vào xưng chế to đn bom cung cp v các nưc A, Phi chm tiế Tôi tht nghip, đói mèm, thiếu điu đưa tay cho ông ràng trói. Ngưi anh em tôi bên đó thiếu go thiếu cơm, nào phi cn đn cn bom đ tương tàn tương hi?
  6. Vì tôi ngn ngơ ông đã chiếm mt miếng tht bò. Vì tôi ngn ngơ, ông đã chiếm cái TV mu, chiếc xe Mustang, ngôi nhà ngh mát bên b bi Ông bo tôi mun có nhà có TV có xe hơi không khó; ch cn ký giy làm vic chung thân. Tôi đã b ràng buc nhiu ri, không dám theo ông đi vào mê l. Ông bo tôi gàn d, phn c gánh cái v cng ca mình chưa ni mà c nghĩ chuyn đ núi Thái Sơn.
  7. Vc ht có th đem cu đói ngưi anh em tôi, ông đã dùng chế to nên miếng tht bò. Đng tht đã cao bng trái i. Trái i che khut mt tri, kng thy ngưi thương. Vc ht có th đem cu mng đa gi này đang nm thiêm thiếp Ethiopie, đã đem làm thành chai rưu. u i lên đng tht bò. Máu i trên ngưi đng loi. Ngày nào tôi tháo đưc trái tim, tôi s nm đưc phn thng trong tay.

Tôi không hiểu những tình cảm trong bài thơ này có thể được diễn tả bằng thơ lục bát hay những loại thơ khác hay không. Miếng thịt bò trong xã hội Tây phương là tượng trưng cho cuộc sống dễ thở. Anh mà nghèo chị mà nghèo thì mỗi tuần chỉ ăn thịt được một lần.

Francois Perroux, giáo sư tại Collège de France và là giám đốc Viện Toán học và Kinh tế học thực hành tại Paris có nói rằng nội một việc các nước Tây phương bớt ăn thịt và uống rượu cũng đủ thay đổi số phận của các nước chậm tiến.[1]

Hoa Kỳ và Âu châu sản xuất lúa mì rất nhiều, nhưng dân chúng các quốc gia Á Phi vẫn đói vì phần lớn lúa gạo là để nuôi bò và để làm rượu. Tôi đã từng gặp những người trẻ ở Đan Mạch và Hòa Lan từ chối ăn thịt và uống rượu vì lý do đó. Tôi cho những người trẻ đó là những người giác ngộ và có tâm từ bi. Thầy nói: “chỉ có sự giác ngộ mới cứu được nhân loại…”, tôi cũng tin như vậy. Nhưng mà sự thách thức lớn lao quá. Những người nghèo và những người thất nghiệp chưa tìm được con đường giải thoát cho họ, lấy thì giờ đâu để lo cho người anh em Á Phi. Họ còn bị trăm ngàn cạm bẫy chờ đợi: mua crédit để chung thân làm nô lệ, chấp nhận một guồng máy kinh tế nuôi dưỡng chiến tranh lại các nước chậm tiến. Nếu không có con mắt giác ngộ, nếu không có con tim biết cảm, biết thương cho thân phận người đồng loại thì sớm muộn gì cũng đưa cuộc đời mình vào những thứ cạm bẫy chung thân đó.

Trong bài thơ trên đây tôi tưởng các danh từ smic và 3 x 8 cần được giải thích. Smic là lương tối thiểu của công nhân tại Pháp (salaire minimum de croissance). 3 x 8 là thời gian làm việc của một số thợ thuyền tại các nhà máy mà ông chủ không muốn cho máy ở không. Tuần này làm từ 5 giờ sáng đến 1 giờ trưa, tuần tới làm từ 1 giờ trưa đến 9 giờ tối và tuần tới nữa từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng. Ba lần tám giờ và trở lại như cũ. Những người làm 3 x 8 ăn ngủ và làm việc thất thường cho nên rất “quạu”, dễ đánh lộn với bạn bè và vợ con. Nhưng nếu họ không chấp nhận giờ giấc đó thì họ mất việc.

[1] “On sait qu’une réduction de la consommation de viande et de l’alcool dans les pays developpés changerait le sort des pays en voie de développement.” F. Perroux, Encyclopedie Universalis.

Người hành khất năm xưa còn ngồi đó

từ khoáng, t khí, t sương

t tâm linh

từ nhng gii t du hành gia các tinh vân đi mau bng ánh sáng

em đã ti đây, đôi mt xanh ta rng

vô th vô chung đã cùng vch đưng đưa li em sang

trên đưng đi em bo em đã tri qua muôn triu kiếp luân hi sinh dit

đã tng làm bão la trên kng

đã tng đem thân đo tui i tui ng

làm c làm cây

làm sinh vt đơn tế bào

làm đóa hoa dim tuyt.

nhưng đôi mt em nhìn tôi sáng nay

li chng minh rng em chưa bao gi tng chết

nụ i kia vn mi tôi

tham d na vào t chơi đã bày ra t tin kiếp:

trò chơi đi trn đi m.

 

hỡi con sâu xanh sáng nay đang un mình đo chi cây chi cây non đã mc sut mt a năm ngoái

ai cũng bo em ch mi sinh ra trong a xuân năm nay. Thc ra, ngươi đã có mt t hi nào?

sao mãi ti pt này mi chu hin nguyên hình, đem theo n i trm lng?

u ơi, mi hơi th ca tôi làm tuôn ra hàng vn tinh cu

cái rt ln kia ai hay li kng ngoài cái thân em rt nh

mi chm trên thân em đã thiết lp muôn ngàn i Pht

mi cái đo ca em cn đến thi gian t vô th cho ti vô chung.

ngưi hành kht năm xưa vn còn trên Linh Thu Sơn

thn nhiên ngi nhìn mt tri huy hoàng đang ln

Gotama! ô hay! ai bo rng Ưu Bát Đa La triu năm mi có mt ln n?

tiếng hi triu kia, có chiếc tai nào chu lng mà li kng nghe?

Từ khoảng 1970 trở đi, tôi nhận thấy Thầy chú ý tới các tác phẩm của các khoa học gia như Broglie, March, Heisenberg, Planck, Capra… Thầy nói: “Ngôn ngữ của các nhà khoa học vật lý nguyên tử bây giờ càng lúc càng gần với ngôn ngữ Phật học”. Thầy cũng nói rằng nếu được khai thị, những người này sẽ có thể hiểu được Đại Thừa Phật giáo một cách dễ dàng. Vì vậy gần đây Thầy có dự định viết một cuốn sách nhỏ về Phật học cho họ. Trong bài thơ trên đây, danh từ giới tử không phải để chỉ cho hạt cải mà lại là tiếng dịch của danh từ mésons. Danh từ khí cũng có nghĩa là gaz.

Trong truyện T, Thầy thuật rằng bé Thạch Lang từ đá sinh ra. Có lần Thầy cười mà nói rằng tất cả chúng ta cũng đều sinh ra từ đá: từ khoáng, từ khí, từ sương… Đáng lý phải nói là “t khí, t khoáng, t sương...”. Bởi vì theo tôi thì trước hết là có những đám mây bằng gaz vĩ đại rồi sau đó mới có những vì sao…

Tại am Phương Vân, nhiều hôm chúng tôi được đi thăm vườn với Thầy. Ở đây Thầy không bao giờ dùng chất độc hóa học để giết sâu, ốc sên và limaces. Đã có lần tôi thấy Thầy đối xử với những con ốc sên như là đối xử với những đứa con nít. Có lần Thầy để ra mười phút để quán sát một con sâu con, và nếu không muốn cho con sâu đó ăn mất cái chồi cây mới lên, ông dùng một ngọn lá đưa nó ra ngoài đồng cỏ.

Theo Thầy thì từ khi là “khoáng” là “khí” đến nay, ta chưa bao giờ từng chết: nếu chết thì đã không có mặt hôm nay. Mà nếu trong hàng trăm triệu năm qua ta không chết thì làm sao ta lại có thể chết trong mấy năm hoặc mấy chục năm sẽ tới? Các nhà khoa học kia nhận rằng những hạt bụi sương nhỏ bé cũng hàm chứa những vũ trụ nhiệm mầu khôn tả. Sinh diệt chỉ là hiện tướng. Có con mắt siêu việt được hiện tướng thì có thể thấy được đức Thích Ca giờ này còn ngồi trên đỉnh núi. Pháp hội Linh Sơn còn đó. Tiếng giảng kinh Hoa Nghiêm vẫn còn sang sảng. Đó là cái thấy mà con sâu xanh đem lại cho Thầy.

Hãy gọi đúng tên tôi

đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi

bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới

y ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây

làm đọt lá trên cành xuân

làm con chim non cánh mềm chiêm chiếp vui mừng trong tổ mới

làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng

làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.

i còn tới để khóc để cười

để ưc mong đ lo s

s xut nhp ca tôi hơi th

nhịp sinh dit ca tôi cũng tiếng đp mt ln ca hàng triu trái tim

 

tôi con phù du thoát hình trên mt nưc

con chim sơn ca a xuân v trên sông đón bt phù du

i con ếch bơi trong h thu

cũng con rn nưc trưn đi tìm ch nuôi thân bng thân ếch nhái

tôi em nghèo Uganda, bao nhiêu xương sưn đu l ra, hai bàn chân bng hai ng sy

i cũng ngưi chế to bom đn

để cung cp kp thi cho các dân tc Á Phi

i em mưi hai b làm nhc nhy xung bin sâu

i cũng ngưi hi tc sinh ra vi mt trái tim chưa biết nhìn biết cm

i ngưi đng viên cao cp, cm quyn sinh sát trong tay

cũng k b coi có n u nhân dân đang chết dn mòn trong tri tp trung ci to

nỗi vui ca tôi thanh thoát như tri xuân, m áp c hoa muôn li

niềm đau ca tôi đng thành nưc mt, ngp v bn đi ơng sâu

y nh gi đúng tên tôi

cho tôi đưc nghe mt ln tt c nhng tiếng tôi khóc tôi i

cho tôi thy đưc ni đau nim vui mt

y nh gi đúng tên tôi

cho tôi git mình tnh thc

và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ

cánh cửa xót thương.

Đng bo ngày mai tôi đã ra đi”, câu này nghe như là tiếng vọng của câu “ngày mai tôi đã đi rồi” trong bài Kh lai. Theo tôi, bài này diễn tả được cái nhìn siêu ngã, một cái nhìn có thể thiệt sự khơi mở được đại – bi – tâm, như Thầy đã diễn đạt trong No v ca Ý.

Có lẽ bài này cho chúng ta thấy được thế nào là hành động trên lập trường Bát Nhã. Chia ra hai phía thù và bạn để mà tranh đấu, đó chưa phải thực sự là hành động phát xuất từ đại bi tâm. Chúng ta ai cũng có thể thương được con ếch, nhưng ít ai thương được con rắn nước. Con ếch bị con rắn nước nuốt, nhưng chính con ếch cũng không sống được nếu chính nó không nuốt những sinh vật khác nhỏ hơn. Hành động như thế nào để “không ghét cả những kẻ ác” như kinh Bát đi nhân giác dạy mới thật là hành động của người Bồ tát. Kẻ ác kia cũng cần được cứu độ, cũng nằm trong lĩnh vực hóa độ của Bồ tát.

Mỗi một cái tên chỉ nhốt được một mảnh vụn của sự sống. Gọi đúng tên tôi thì tất cả đều lên tiếng một lần. Chỉ có sự thc tnh mới mở được cánh cửa của đại bi tâm.

Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người

đêm này dù đã về ngôi

hồn thơ vẫn thấy luân hồi thế gian

bút hoa ngàn kiếp không tàn

đuốc thơ còn cháy trên trang sử người

có không mù mịt biển khơi

nẻo về đã rạng chân trời thênh thang

tỉnh say vẫn một cung đàn

lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu

 thơ lên bay vút bồ câu

triều âm chấn động phương nào chẳng nghe?

giấc mơ hồ điệp đi về

biển đông sóng vỗ, kình nghê vẫn còn.

Bài thơ này Thầy viết để tưởng nhớ Vũ Hoàng Chương. Vũ Hoàng Chương là một người đã đem cả thân mạng và sự sống của mình mà tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động để tranh thủ hòa bình và chống độc tài từ 1963 cho đến 1977. Ông đã từng bị tù tội nhiều lần trong thời gian đó. Đọc tác phẩm Bút nở hoa Đàm của ông, ta thấy được điều này. Ông đã tranh đấu bằng thơ của ông và biến cố lớn nào của cuộc tranh đấu cũng đều được đánh dấu bằng một bài thơ. Ông thật có tinh thần vô úy và phong độ anh hào. Trong bài Bút nở hoa Đàm, ông viết:

ai sẽ là ngươi trong tương lai

một sớm một chiều

vươn tay hái cành hoa thương yêu

làm bút viết?

Đọc tới những câu đó, thầy Nhất Hạnh nói với chúng tôi rằng: “Chính Vũ Hoàng Chương là người đã hái được cành hoa từ bi làm bút viết. Chính ông là người thi sĩ xứng đáng nhất của lịch sử tranh đấu bất bạo động cho hòa bình tại Việt Nam.”

Chỉ một hôm sau khi được chính quyền phóng thích thì thi sĩ mất. Ngày anh về, chị Vũ Hoàng Chương nấu được một nồi bún cho chồng nhưng anh chỉ lùa được vài cọng bún. Chị thuật lại rằng đầu năm 1976, ngày mà cán bộ và công an đến bắt, có tới năm sáu xe và một lực lượng vũ trang hùng hậu đến vây quanh nhà. Biết trước cơ sự, anh Vũ Hoàng Chương bảo chị yên lặng. Rồi anh ngồi lên trong tư thế kiết già trong khi cán bộ và công an làm ầm ĩ, đập cửa, lục soát không sót một ngõ ngách nào và quăng bừa bãi tất cả đồ đạc kéo từ các tủ ra. Suốt thời gian họ lục soát, anh vẫn ngồi bất động, không nói năng gì. Cuối cùng trước khi bắt anh, người chỉ huy tuyên đọc một bản cáo trạng. Vũ Hoàng Chương lắng nghe. Nghe xong anh chỉ khẽ nhún vai. Họ bắt anh từ đó và trong trại giam, sức khỏe của anh tàn lụi dần dần.

Có lẽ trong trại giam anh Vũ Hoàng Chương đã thiền tọa rất nhiều. Được tin anh mất, thầy Nhất Hạnh rất thương cảm. Thầy đã viết mấy dòng trên, trong đó có nhiều chữ đã lấy từ thơ của Vũ Hoàng Chương. Các bạn quen thuộc với thơ Vũ Hoàng Chương chắc nhận được tất cả những chữ đó.

Uyên nguyên

Himalaya là dãy i nào?

trong tôi có mt ngn ng phong đnh vươn cao tri mây khói

y đến cùng tôi i chân ng phong kng tên gi

ngi trên nhng tng đá xanh kng tui

lng nhìn thi gian xe tng si óng ánh dt thành bc la kng gian

sông Cửu Long chảy nơi đâu?

trong tôi có một trường giang cuồn cuộn, không biết đã bắt đầu nguồn tự chốn thâm sơn nào

ngày đêm nước bạc phăng phăng cuốn về nơi vô định

y cùng tôi tới thả thuyền trên dòng hung mãnh

để cùng tìm về chung đích của vũ trụ bao la.

Andromede là tên của đám mây sao nào?

trong tôi có một tinh hà chuyển vận âm thầm muôn triệu tinh cầu sáng chói

y cùng tôi bay, rách lưới không gian, đường mây mở lối

tiếng đập cánh của anh sẽ gây chấn động tới mỗi vì sao xa.

homo sapiens tên ging sinh vt nào?

trong tôi có mt chú tay trái vén màn đêm, tay phi cm mt ng hoa mt tri làm đuc

hai mt bé là hai vì sao c bé bay cun cun như y trên khu rng g gng bão

y cùng tôi ti hi tìm chi đang đi đâu?

đâu là uyên nguyên? đâu là quy xứ?

            đường về có những ngã nào?

ô hay, bé chỉ mỉm cười

bông hoa trên tay bé

bỗng trở thành một mặt trời đỏ chói

ri bé một mình đi tới giữa những vì sao.

Cảnh giới của nội tâm và cảnh giới của vũ trụ có thể chỉ là một. Bài thơ này là một trong những bài Thầy làm trong thời gian an cư tại Phương Vân am.

Lưu chuyển

gió lặng trưa nay

bốn cây trắc bá một hàng

bức tường gội nước thời gian loang lổ mỏi mòn

chìm lắng bơ vơ hồn gạch đá

trời xanh trời xanh ơi bình lặng

i tới hôm nay thăm dò tuổi gạch

nhng tảng đá chồng lên nhau

kiên nhẫn tháng này năm nọ

đợi chờ, thương biết mấy

thịt da tôi trên nẻo đường sa mạc ghé qua mau

để lại chút ấm lòng bàn tay, phập phồng trái tim nhịp thở

bóng xưa xa hút rồi

các ngươi còn ở đây chờ đợi

y có phải ngày xưa ta đã qua đây

trong một chu kỳ nào

để hôm nay dừng bước chân ngẩn ngơ, bâng khuâng tìm dấu chân kiếp trước

khoảng không giữa lòng bàn tay tôi

khi năm uẩn được trả về

ngày mai còn có những nguyên tử nào quần tụ?

ai chết bên bức tường vôi gạch giữa trưa hè trong lúc trời lặng yên mỉm nụ cười xanh biếc?

gạch đá ơi ai đi qua

và ai còn ở lại

tôi muốn chở người đi cùng trong tốc độ

nhưng tôi bỗng đã nghe rồi!

có kẻ từng đi tìm khứ lai

y chỉ cho tôi nơi nao là chỗ chân trời

để tôi có thể thấy cùng với các ngươi, tự kiếp xa xôi nào, lưu chuyển cùng trong tốc độ?

cho tôi thời gian gọi về cây khế cây chanh năm cũ

cùng với hôm nay hàng cây trắc bá

dừng chân nơi đây

cuộc hành trình kỳ lạ

tuy mầu trời xanh bình lặng muôn đời còn đó

nhưng mầu trời xanh bình lặng hôm nay ra đời.

Bài thơ tôi được nghe Thầy giảng cho anh Thomas Roep tại Phương Vân am cách đây chừng bốn năm. Thầy viết nó vào khoảng 1966. Thomas là giáo sư địa chất học tại Đại học Amsterdam. Anh có đọc sách thiền của Thầy và cũng có thực tập về thiền. Hôm đó ngồi uống trà trước sân Phương Vân am hai người nói chuyện về quan niệm thời gian qua mắt nhìn của nhà địa chất học. Ban đầu Thomas cho mọi người biết là vùng đồi núi này xưa kia vốn là biển cả. Nhiều người hết sức ngạc nhiên. Anh bảo mọi người đi theo anh vòng ra phía sau am. Rồi anh chỉ cho mọi người thấy những mẩu san hô nhỏ xíu hóa thạch trong những tảng đá dùng để xây am. Những tảng đá này là vật liệu xây cất địa phương. (Am Phương Vân cũng không phải mới xây. Am vốn là một ngôi nhà được xây cất trước đây chừng hai trăm năm, đã hư nát nhiều chỗ và được Thầy ra tay tu bổ lại với sự giúp đỡ của một anh con trai trong làng.) Sau đó mọi người ra ngồi uống nước phía trước am, gần giếng nước, bên cạnh gốc mận.

Tôi không nhớ hết những điều Thầy nói về bài thơ. Tuy vậy tôi cho rằng ý niệm về tốc độ rất quan trọng ở đây. Hình như Thầy có nói rằng gạch đá và da thịt không đi cùng một tốc độ, và vì vậy mỗi khi đi trọn một chu kỳ, con người lại gặp trở lại gạch đá, rồi có cảm tưởng rằng đây không phải là lần thứ nhất mình gặp chúng. Cảm tưởng này một lần kia tôi đã có, khi tôi đến thăm lâu đài Heisenberg. Hôm đó, lên tới lâu đài, tôi thấy cảnh tượng rất quen thuộc với tôi, từ góc thành cho đến mỗi tảng đá. Tôi nghĩ như kiếp trước tôi đã thấy lâu đài này rồi. Thầy nói có một bữa trưa nào đó trong khi đứng nhìn bức tường có những tảng đá chồng lên nhau, kiên nhẫn tháng này năm nọ bỗng nhiên Thầy thấy thoát ra khỏi hợp thể ngũ uẩn và bên cạnh bức tường kia, Thầy trông thấy xác thân ngũ uẩn của Thầy đang nằm chết, trong khi nhìn lên, Thầy lại thấy trời xanh đang mỉm một nụ cười xanh biếc. Cái cảm tưởng đầu tiên của Thầy là ước muốn được cùng gạch đá đi du hành chung một tốc độ. Nhưng sau đó, Thầy bỗng nhận ra rằng những ý niệm về khứ và lai (đến và đi) là những ý niệm mà các vật lưu chuyển (những vật còn trong vòng luân hồi sinh tử) tự tạo cho mình: thực sự thì từ hồi vô thỉ, cây khế, cây chanh, hàng cây trắc bá, tác giả bài thơ và những tảng đá chồng lên nhau đã cùng nằm trên một tốc độ như nhau. Cuộc hành trình kỳ lạ là một cuộc hành trình không có khởi thủy, không có nơi đến màu trời bình lặng kia đã có từ vô thỉ nhưng vì tác giả mới trông thấy nụ cười xanh biếc của nó hôm nay cho nên kể như mới được ra đời hôm nay.

Hình ảnh làm tôi suy nghĩ nhiều nhất là hình ảnh khoảng trống trong lòng bàn tay của tác giả. Cái khoảng không ấy chỉ lớn độ chừng năm sáu phân khối. Một ngàn năm sau, khi tác giả qua đời, có bao nhiêu nguyên tử sẽ đến quần tụ trong cái khoảng không đó, và trong số những nguyên tử ấy, có được mấy nguyên tử từng có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến ngũ uẩn của ông? Tôi nghĩ có lẽ cái hình ảnh đó đã giúp cho ông thoát ra khỏi ngũ uẩn của ông và làm cho ông thấy được nụ cười xanh biếc.

Chị Kirsten Roep đã dịch bài này ra tiếng Hòa Lan như sau:

 

Vloed Der Gedaanteveransereing

Dit middaguur, een zachte wind

vier cyprerssen op een rij

een muur, door het water der tijden schoongespoeld, versleten

de ziel van de grote rots weggeeeebd, verstild, opgelost 

O blauwe lucht, onbewegelijke blauwe lucht!

Ik ben vandaag gekomen om te vragen

naar de hoge ouderdom der stenen

Ik zou willen weten hoeveel maanden, jaren,

zij gedulding, opeéngestapeld, wachten. 

Mijn vlees en bloed op reis door de woestijn

stoppen éen seconde hier

en laten uit de holte van m’n hand een vleug je warmte achter vibrerend in de maat van m’n hartslag.

Oude beelden reeds in de verte verdwenen

jullie wachten hier nog

zeg mij, is het waar dat ik eerder hier voorbijkwam

in een kringloop van vroegere tijden

om vandaag hier weer te stoppen, bevreemd, vervuld van vage herinneringen, bij het ontdekken van voetsporen van vroeger leven?

Waneer mijn lichaam tot aarde is teruggekeerd

blijven dan morgegn om elkaar bewegen

           wal atomen om elkaar bewegen

in de lege ruimte van de holte van mn hand?

Wie ligt nu begraven bij de oude, witgekalkte muur

          op deze midzomerdag, terwijl de onbewogen lucht

          diepblauw glimlacht?

Grote steen, zeg mij: wie is voorbijgegaan

en wie is nog hier?

Ik zou je mee willen dragen

          met m’n eigen snelheid

maar plotseling heb ik iets vernomen!

Is er iemand die het komenengaan al heft ervaren?

Wijs mij de plaats van de horizon dan aan

zodat ik samen met jullie, uit een ander ver keven, devloed

          der verandering met dezelfde snelheid kan volgen,

Laat mij zien dat de tijd appelbomen, citroenbomen

          uit de oudhied weer tevoorschijn roept

om vandaag met de cypressen hier

          even de wonderbaarlijke reis te onderbreken.

Ofschoon de stille blauwe lucht de sporen 

             van tienduizend levens blijft volgen,

wordt de stille blauwe lucht

             vandaag geboren.