Ấm áp

tôi bưng mặt trong lòng hai bàn tay

có phải để khóc đâu anh

tôi bưng mặt để giữ cho ấm áp sự cô đơn

hai bàn tay chở che

hai bàn tay nuôi dưỡng

hai bàn tay ngăn cản

sự ra đi hờn dỗi của linh hồn.

Nghe kể lại thì bài này tác giả làm trong chuyến đi du thuyết tại Hoa Kỳ, trong một ngày mà báo chí đăng tải rất nhiều về những tàn phá do các cuộc đụng độ quân sự lớn ở Việt Nam, một ngày mà tác giả cảm thấy mỏi mệt sau bao nhiêu tháng trường lê gót vận động để mong cho cuộc chiến chấm dứt. Chị Michèle Chamant đã dịch bài này ra Pháp văn như sau:

POUR LA CHALEUR

je tiens ma tête entre mes mains

non, je ne pleure pas

je tiens ma tête entre mes mains

pour garder encore chaude ma solitude

deux mains qui protegent

deux mains qui nourissent

deux mains pour empêcher

mon âme de me quiter

en colère.

Anh Võ Đình và chị Teo Savory dịch Anh văn như sau:

FOR WARMTH

I hold my face between my hands

no I am not crying

I hold my face between my hands

to keep my loneliness warm

two hands protecting

two hands nourishing

two hands to prevent

my soul from leaving me

in anger.

Duy thị nhất tâm

thành trì em năm xưa

ai hứa sẽ xây cho vững chãi?

sáng hôm nay những người cũ bỗng thấy bập bềnh phiêu dạt trên sóng gió đại dương

khổ đau xây cho loài người một trú địa cuối cùng,

và nơi đó em sẽ ẩn náu qua đêm dài độc địa.

hãy nhắc lại cho tôi nghe những lời năm xưa

tôi đã hứa

để tôi có thể còn có mặt ngày mai mà làm chứng cho em

nhng mũi tên cắm vào thân thể tôi vẫn còn đây, nguyên vẹn, chưa bao giờ giao trả

sửa soạn khu vườn xanh của em cho sây trái

tôi cũng sẽ là một con chim như những con chim khác

 suốt đời chỉ tìm tới chốn suối ngọt cây lành.

y là Chuyển Luân Thánh vương

ngọn bút nội tâm em sẽ ký sắc lệnh đày khổ đau ra ngoài vòng hiện hữu

và gọi về từ muôn phương tản mác nào hoa nào bướm,

cho chồi non tuổi xanh căng nhựa sống,

vũ trụ cười khi hai mắt em cười.

Bài này viết năm 1965. Tôi được chú Thanh Tuệ cho xem bản thảo tại nhà Lá Bối Sài Gòn vì đây là một bài thơ Thầy cho chú.

Đường quê

đường quê đi mãi về vô tận

thầm kín trong tôi gợi quốc hồn:

hương lúa mùa thu, theo gió quyện

mang về sầu muộn khóc cô thôn.

gió mưa gội rửa lòng hoa gạo

trinh bạch hồn nhiên, giọt lệ buồn.

rơi rơi theo gió, buồn cô quạnh

hoa rụng âm thầm, hoa cô đơn…

đâu xa tiếng gọi trời xa vắng

một chuyến đò qua ngập lá vàng

dân quê đâu khúc thanh bình cũ

ut ức ngàn câu gợi khốc tàn;

nhà lá phất phơ xiêu cột đổ

một mùa trăng loạn, mấy cô đơn?

rưng rưng liếp gió mang trời lạnh

khói lửa nghìn thu khóc bạo tàn

pht phơ lau sậy đồng hoang vắng

kiếp số thơ ngây, phận tủi hờn

ai thấy đời tươi trên lá thắm

vườn cau xanh ngắt mộng quê hương?

hỡi ơi! bao kẻ còn luân lạc

chưa trở về nghe tiếng gọi đàn:

say trong ảo mộng phù hoa mãi

nức nở phiếm đời rơi tiếng than!

đường quê đi mãi trong vô tận

thầm kín trong tôi gợi quốc hồn

mùa lúa năm nay đầy hứa hẹn

nước xanh nhuần thấm hạt muôn phương

rau khoai xanh tốt trên nương cũ

cờ bắp phất phơ tận cuối làng

cô gái đồng quê về lối xóm

tươi cười gánh cả một hoàng hôn

tình yêu non nước về trên lá

nhân loại mừng vui rộn nẻo đường

hoa lòng trời đất vô cùng nhỉ

mi một mùa xuân lại nhả hương!

Đây cũng là một bài làm vào khoảng 1950 – 1951. Theo tác giả, bài thơ này nằm trong tập Đường quê gồm cả thảy tám truyện ngắn chép tay. Tập truyện này Thầy trao cho một văn hữu ở Sài Gòn để xuất bản, ông ta đã làm mất.

Vết thương nhân loại

gió về hơi bấc căm căm lạnh

chiều xuống nhanh chân phủ núi đồi

ri rỉ thấm dần manh áo mỏng

cht gì loang loảng. máu! trời ơi!

vết thương nhân loại đà khơi mở

trên chiếc tàn thân lấm bụi đời

gió rét, chao ơi là buốt lạnh,

lòng đau như cắt, lệ đầy vơi.

ai gây chi lắm niềm cay đắng

vũ trụ cầu van đến nghẹn lời!

u độc đã vào, hoa lá úa

rồi đây vàng võ một chiều thôi

ôi vết thương sâu lòng nhân loại

thuốc thang tìm kiếm đã bao hồi?

đau quá, cạn khô dần huyết mạch

đừng sâu thêm nữa, hỡi người ơi!

Tạp chí Liên Hoa đăng bài này từ năm 1951. Chiến tranh từ hồi đó là một nỗi đau lớn trong tâm hồn tác giả.

Đừng khóc

buổi trưa hè

tiếng phi cơ bay nặng

sát mái nhà

đe dọa bé thơ,

cùng ngồi với em

lồng ngực tôi muốn tung ra tan vỡ

em nín lặng, ôm đầu

tôi ra đi chiều nay

tìm nàng tiên năm trước

cứu quê hương ta

can đảm lên

còn tương lai đó

trước buổi khuya, tôi sẽ trở về.

Pháp thể hằng hữu

bờ sông vắng

bờ sông nắng

nắng trên hè phố

nắng trên bức tranh

nắng trên lòng sách

sách cười trang chữ

lặng lẽ dòng sông trôi

lòng tôi với lòng sách

lòng tôi với dòng sông

nắng còn lưu hoa

trên lòng sách

thời gian

tràn lan

mênh mông.

Dây neo

cành lá thì thào

ri cành lá lặng yên

thuyền tôi cặp bến trăng sao

hơi thở là dây neo

tôi duy trì vũ trụ

Theo tôi nghĩ, thở ra thở vào có ý thức là an trú trong quán niệm. Sự quán niệm này “duy trì” tâm ta và vũ trụ cùng một lúc. Nếu mất hơi thở, lạc chánh định thì trăng sao và vũ trụ đều mất và vì vậy hơi thở là dây neo. Xin so sánh lại với bài Pháp giới thực ấn.

Cỏ hoa còn thơm ngát

bóng dáng tiền trần vừa thôi xuất hiện

gió thoảng đêm hiền

ánh trăng khuya mát lạnh

gương nga lặng lẽ

bên ấy trời sáng chưa

để bên này tôi ngủ

đầu gối lên đêm

cỏ hoa còn thơm ngát

buổi mai buổi trưa buổi chiều

giờ nào em lắng nghe tiếng gọi?

nhìn vào đâu cũng thấy nụ tinh khôi

 

Bóng dáng tiền trần tức là những hình ảnh trong độc đầu ý thức, các bạn có học Duy Thức Học chắc còn nhớ. Tôi nhận thấy trong thơ, thầy ít dùng danh từ Phật học theo kiểu này. Tôi thấy đó là một điều may. Những cuốn sách dễ đọc nhất. Tôi ưa cuốn Nói Với Tuổi Hai Mươi cũng vì thế

Khi nhìn con voi mà thấy con voi thì hình ảnh voi trong ý thức không phải là bóng dáng tiền trần. Khi không nhìn voi mà vẫn có hình ảnh con voi thì hình ảnh này mới là tiền trần. Xin “gà” cho các bạn  chưa từng biết Duy Thức Học.

Chân dung

gió sớm mai hồng lật những trang ngà

tập thơ thời gian vô cùng dệt bằng tơ lụa không gian, đóng bìa xanh rừng thẳm

nhng trang thơ mênh mang lòng đại dương bát ngát

tôi tìm bài thơ chân dung em, nét chữ lung linh sắc hoa mầu lá

trời cao đã cho đại dương sâu ngôi sao đẹp nhất của mình

muôn đời mắt em ngời sáng

trùng điệp sóng dồn về cát trắng

trinh nguyên vừng trán phương Đông.

gió mai thoảng về hơi thở

cành lá thì thầm để rơi những giọt sương trời lác đác

y phương da trời là suối, những sợi tơ chiều vén gọn, để cho trăng nở tuyệt vời

mưa, ôi những sáng tuôn mưa – trời đất chuyển mình, dồn dập thét gào, những đọt cau xa oằn oại, những con chim trong màn mưa bạc,

tôi quỳ xuống rưng rưng, tiếng gọi của em từ bản thể vọng về, tôi gục đầu lắng hết tâm tư, mắt đẫm lệ nhớ

trưa, ôi những buổi trưa lắng vào tuyệt đối – trời cao xanh ngắt, bâng khuâng nghe tiếng gọi tôi về

tiềm thức dâng tràn u hoài của thăng trầm mấy kiếp

lá đón nắng hồng mai đến: chiếc áo avril nhẹ sắc thoáng hương kỳ ảo mùa xuân

em khắp nơi

và đôi bàn tay em, đôi bàn tay, hoa nở tuyệt vời trên sự sống

phép mầu hiển hiện khi những ngón tay ngà hé mở:

chim bồ câu xòe cánh trắng

cao vút trời xanh hòa bình tỏa rạng – tiếng ngợi ca vẳng lại tự những tinh cầu xa…

đêm bình yên. trời cao.

biển dâng từng đợt sóng và đợt sóng cao, to

hào hùng hơn cả

đang vươn mình tìm tới tận chân trời.

 

nét chữ trăng sao trên tờ thơ mầu nhiệm

em về: hoa hồng hé cánh

tia nắng đầu reo vui trên mầu hoa đại

còn đẫm ướt sương khuya

nụ cười tới trên cánh hồng sen úp mi, hé nở:

bờ xanh xanh, hương xa gọi về muôn huyễn tượng

long lanh mặt trời chói rạng trong ngàn sương đọng giọt.

mt mờ hoen lệ

trước nhiệm mầu biểu hiện

tôi mỉm cười nhìn mây nước:

bài thơ em hé vườn sáng chân như.

Thiên nhiên chiếm một vị trí rất lớn trong thơ của thầy Nhất Hạnh. “Thiên nhiên là một biểu hiện của chân như”, Thầy thường nói. Có một lần tại Sorbonne, tôi nhớ Thầy đã giảng tương tợ như sau: “Phật giáo Tiểu Thừa nhấn mạnh đến tính cách khổ đau của cuộc đời, còn Phật giáo Đại Thừa nhấn mạnh tới tính cách mầu nhiệm của cuộc đời. Vị A La Hán là hình ảnh của Phật giáo Tiểu Thừa, còn vị Bồ tát là hình ảnh của Đại Thừa”. Trong Nẻo về của Ý, Thầy cũng nói: các vị Bồ tát thường ăn mặc đẹp đẽ như trẻ em ngày Tết để làm đẹp cho cuộc đời. Trong bài thơ trên, tôi thấy Thầy đồng nhất thiên nhiên với chân như và chân như với hòa bình. Khát vọng hòa bình như là khát vọng về nguồn, và sự hé mở của chân như là sự hé mở của đôi cánh bồ câu:

phép mầu hiển hiện khi những ngón tay ngà hé mở:

chim bồ câu xòe cánh trắng              

cao vút trời xanh hòa bình tỏa rạng

tiếng gợi ca vẳng lại tự những tinh cầu xa

Bài này đã được Thầy phổ nhạc. Lời cao vút, trang trọng. Tôi đã tập hát, nhưng lâu tôi lại quên và hát sai giọng.

Trời phương ngoại

người đi trên đất mắt nhìn trời

chim liệng từng không mây trắng bay

mt bàn tay đưa cho nắng ngọt

mt bàn tay giữ con đường mây

lá xanh tháng Tư mặt trời lọc

đi qua rừng cây mà không hay

búp tay hoa sen vừa hé mở

vũ trụ sáng nay đã ngất ngây

trà khuya bay khói, thơ không chữ

thơ chở trà lên tận đỉnh mây

núi cao mưa tạnh vùng biên ải

vi vút sau đèo gió gọi cây

đỉnh tuyết trời quang bừng cõi mộng

giác ngộ tung về đóa mãn khai

đt xa mầu nhiệm thơm tình mẹ

hoa nở trần gian ước kịp ngày.

thương bé bơ vơ mùa loạn lạc

sen vàng bướm gửi khắp trời Tây

tờ hoa nhạc hội bừng chuông trống

xóm dưới thôn trên dán chật đầy

mắc nối đường dây trăm xứ lạ

ân nghĩa bên trời mãi dựng xây

ngục thất ba trăm còn tuyệt thực

mòn chân du thuyết hết đêm ngày.

tháng Tư đồng nội trăm hoa nở

mong ước ôm đầy hai cánh tay

sắc xuân rực rỡ trời phương ngoại

thơ hát yêu thương rộng tháng ngày

gối mộng mây xa về lối cũ

ngược dòng sông lạ đến tìm ai.

Một lần tôi hỏi tác giả tại sao đi qua rừng cây mà không hay? Có phải là rừng đẹp quá làm ta quên quán niệm không? Thầy nói: “Không phải. Những khoảng rừng lá non có mặt trời lọc xuống như thế tạo nên một khung cảnh trang nghiêm và mầu nhiệm quá đỗi thành thử cảnh vật giống như cảnh vật ở nơi thiên tiên nào hoặc ở chốn thủy cung nào ấy, khiến cho mình không nhận ra đây là khu rừng mình thường đi qua trong mùa hè và đông nữa”. Có thể nói là thầy Nhất Hạnh rất say mê thiên nhiên Tây phương vào khoảng tháng Tư, khi lá non vừa lớn kịp và khi vạn vật đang chuyển mình trong mùa tuôn dậy (Thầy dịch tiếng spring). Xin các bạn đọc lại bài Trường ca Avril. Tại quê hương, ít khi lá cây được xanh mướt cả rừng như vậy, nhất là ở miền Nam. Bài thơ này viết vào tháng 4 năm 1974, hồi chúng tôi thường tổ chức các đại nhạc hội để giúp các em cô nhi ở Việt Nam:

tờ hoa nhạc hội bừng chiêng trống

xóm dưới thôn trên dán chật đầy

Chúng tôi cũng cho ra tờ Le Lotus đặc biệt in trên giấy vàng kêu gọi người đỡ đầu cho cô nhi chiến nạn:

thương Bé bơ vơ mùa loạn lạc

Sen Vàng bướm gửi khắp trời Tây

Hồi ấy tại khám Chí Hòa có ba trăm tăng sĩ tuyệt thực để gây áp lực trên Hòa hội Paris; chúng tôi cũng được Thầy phái đi các nước Hoa Kỳ, Đan Mạch, Ý Đại Lợi, Anh Cát Lợi… để vận động yểm trợ cho cuộc tuyệt thực này;

mắc nối đường dây trăm xứ lạ

ân nghĩa bên trời mãi dựng xây

ngục thất ba trăm còn tuyệt thực

mòn chân du thuyết hết đêm ngày.

Tôi còn nhớ tại Rome có ba trăm linh mục đi diễu hành mỗi vị đeo trên ngực bảng tên của một tăng sĩ Việt Nam tại khám Chí Hòa. Tinh thần liên đới quả thật rất đẹp. Hedi Vaccaro và mấy người bạn Ý của Phái đoàn đã vất vả trong lần tổ chức cuộc diễn hành này.