Chuyển hóa nỗi sợ xung quanh ta

Nhiều người thường hành động vì sợ hãi, sợ quá khứ hoặc sợ hiện tại. Họ gieo rắc hạt giống sợ hãi đó cho những người xung quanh và cả cho xã hội. Họ tạo nên một “văn hóa sợ hãi”. Khi nỗi sợ xuất hiện khiến cho ta bực bội, lo lắng; trước nhất, ta cần ghi nhận nỗi sợ đó. Nhận diện và ôm ấp thay vì để cho lo sợ khống chế. Khi mà mọi người xung quanh đều lo sợ và hành động theo lo sợ thì ai cũng khao khát được bình an.

Đôi khi, chúng ta ưa cười nhạo khi người khác lo sợ vì họ nhắc ta nhớ đến nỗi sợ của chính ta. Chúng ta đã được dạy rằng hãy nhắm mắt làm ngơ với nỗi sợ. Làm thế nào để có thể buông bỏ lo sợ, làm chủ cơn giận và xua tan bạo lực trong ta? Thực tập chánh niệm và nhìn sâu là câu trả lời.

Sợ khủng bố

Ngày nay, đi máy bay, chúng ta thấy ai cũng khả nghi. Ta sợ rằng ai đó có thể là tên khủng bố. Bất kỳ ai cũng có thể mang bom hoặc chất nổ.

Hành khách phải đi qua máy quét điện tử. Người này sợ người kia và sợ tất cả mọi thứ. Kể cả khi mặc áo nhà sư như tôi, bạn cũng sẽ bị quét hoặc khám xét, không trừ ai. Bầu không khí sợ hãi ngày càng lan tỏa. Chúng ta không biết cách xử lý nỗi khổ ấy. Có quá ít người biết cách buông bỏ lo sợ.

Chúng ta muốn trả thù, muốn trừng phạt những người làm chúng ta khổ. Ta nghĩ khi làm vậy ta sẽ bớt khổ. Khi mang chất nổ lên máy bay hoặc xe buýt để tất cả đều chết, kẻ khủng bố chỉ muốn trừng phạt. Ý muốn đó phát sinh ra từ đau khổ của chính anh ta. Vì không biết cách xử lý nỗi khổ, anh ta đã giải tỏa nỗi khổ bằng cách trừng phạt người khác.

Đức Thế Tôn nói: “Ta đã nhìn sâu vào trong tâm ý của những người không có hạnh phúc và ta đã thấy một mũi dao nhọn được che giấu dưới những niềm thống khổ của họ. Vì chính họ không thấy mũi dao nhọn ấy trong tâm cho nên họ khó có khả năng chịu đựng được niềm đau.” 

Nỗi sợ bị chôn sâu trong trái tim, con dao sắc được giấu dưới nhiều lớp. Con dao sắc đó khiến bạn hành xử không tốt đẹp. Bạn không nhìn thấy con dao hay mũi tên ở trong trái tim bạn, nhưng nó khiến bạn gây đau khổ cho người khác.

Bạn có thể học cách nhận ra con dao bên trong bạn. Một khi đã phát hiện và loại bỏ con dao trong tim bạn thì bạn có thể giúp người khác tìm ra và loại bỏ con dao trong tim họ. Nỗi đau do con dao đó gây ra đã tồn tại một thời gian dài. Nếu cứ ôm giữ nó thì nỗi đau sẽ tiếp tục đến mức bạn muốn trừng phạt những người bạn nghĩ là đã gây nên đau khổ cho bạn.

Một cuộc cách mạng của từ bi

Chúng ta đều mang trong lòng nỗi sợ ban sơ, nhưng không chỉ lo sợ như là một cá nhân. Nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới cũng đang đầy sợ hãi, đau khổ và thù hận. Để dịu đi nỗi khổ, chúng ta phải quay trở về với tự thân để hiểu tại sao ta lại bị mắc kẹt trong quá nhiều bạo lực và sợ hãi. Nguyên nhân nào khiến cho những kẻ khủng bố thù ghét đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm cho người khác đau khổ? Vì có sự bất công. Tất nhiên chúng ta phải tìm cách chấm dứt bạo lực, phải tách riêng những người gây nguy hiểm cho người khác. Nhưng chúng ta cũng cần nêu lên câu hỏi: “Chúng ta chịu trách nhiệm gì cho những bất công trên thế giới?”

Chúng ta không thích sợ hãi. Thông thường, nếu ta ôm chặt nỗi sợ thì nỗi sợ sẽ biến thành cơn giận. Ta giận rằng mình sợ. Ta giận tất cả những người hoặc những thứ đã gây nên nỗi sợ cho ta. Một số người dành cả đời để trả thù những người hoặc những thứ mà họ nghĩ đã gây nên đau khổ cho họ. Động lực này chỉ có thể mang đến đau khổ, không chỉ cho người khác mà còn cho chính họ.

Thù ghét, giận dữ, và sợ hãi là những ngọn lửa bùng cháy mà chỉ có lòng từ bi mới dập tắt được. Nhưng tìm từ bi ở đâu? Từ bi không có bán ở siêu thị. Từ bi được tạo ra bằng sự thực tập.

Đôi khi người ta thương – con cái, vợ chồng, hoặc bố mẹ – đã nói hoặc làm những điều khiến chúng ta bị tổn thương. Ta nghĩ chỉ mình mới khổ. Nhưng người kia cũng đang khổ. Nếu người đó không khổ thì đã không gây tổn thương cho ta. Người ta thương đã không biết cách chuyển hóa nỗi khổ của mình và đổ tất cả sợ hãi và giận dữ lên ta. Chúng ta cần tạo ra năng lượng từ bi. Năng lượng từ bi trước tiên sẽ làm dịu trái tim ta và sau đó giúp người khác. Nếu chúng ta trừng phạt người kia, người đó sẽ chỉ càng thêm đau khổ và vòng luẩn quẩn sẽ tiếp diễn.

Dùng bạo lực để đáp trả bạo lực chỉ tạo thêm bạo lực, bất công, và đau khổ – không chỉ cho những người ta muốn trừng phạt mà cho cả chính ta. Tuệ giác này có sẵn trong mỗi chúng ta. Khi thở sâu, chúng ta có thể chạm vào hạt giống tuệ giác này trong ta. Tôi tin rằng nếu ta nuôi dưỡng năng lượng tuệ giác và từ bi trong tất cả mọi người dù chỉ một tuần cũng có thể giảm mức độ sợ hãi, giận dữ và thù ghét trên thế giới. Tôi kêu gọi tất cả hãy thực tập bình tĩnh và tập trung tâm trí, tưới tẩm hạt giống trí tuệ và từ bi vốn đã có sẵn trong ta, đồng thời học nghệ thuật tiêu thụ chánh niệm. Được như thế thì chúng ta sẽ tạo ra một cuộc cách mạng hòa bình đích thực. Một cuộc cách mạng duy nhất có thể giúp chúng ta thoát khỏi tình thế khó khăn hiện nay.

Hạt giống khủng bố

“Khủng bố” ở khắp mọi nơi, không chỉ là những người làm nổ tung xe buýt hoặc khu chợ. Khi cư xử bạo lực và giận dữ, thì ta cũng không khác gì những kẻ khủng bố mà ta coi là ác quỷ, vì ta cũng đang mang trong trái tim con dao của giận dữ, tàn bạo. Vì thiếu chánh niệm, chúng ta đã nói những lời làm tổn thương, gây đau khổ cho người khác. Đây cũng là một dạng khủng bố. Nhiều người nói những lời tổn thương với trẻ em. Con dao thương tổn đó có thể sẽ xoáy sâu vào trái tim những đứa trẻ suốt cả cuộc đời còn lại. Trong gia đình, trong xã hội, trên hành tinh này, cứ mỗi ngày trôi qua chúng ta đã tạo thêm biết bao người với con dao trong tim. Kết quả là họ đã áp đặt khổ đau và giận dữ của họ lên gia đình, xã hội, và thế giới của họ.

Lắng nghe với tâm từ bi

Phần nhiều nỗi khổ của chúng ta là do nhận thức sai lầm. Chúng ta phải loại bỏ nhận thức sai lầm. “Tôi thấy anh ấy hoặc cô ấy làm điều này, điều nọ.” Nhưng có thể sự thật không phải như thế. Có nhiều điều đằng sau mà tôi không biết. Tôi cần lắng nghe anh ấy hoặc cô ấy nhiều hơn, để hiểu rõ hơn.” Những người mà ta nghĩ là đã gây nên đau khổ cho ta cũng có thể có nhận thức sai lầm về ta. Khi cố gắng lắng nghe câu chuyện từ cả hai phía thì bạn sẽ hiểu rõ và bớt gây tổn thương cho nhau.

Việc đầu tiên là thừa nhận rằng những gì mà ta tưởng tượng, và nghĩ là đã xảy ra, có thể là không chính xác. Hãy thực tập hơi thở chánh niệm và thiền hành cho đến khi bình tĩnh và yên lắng để nhận rõ những gì đã xảy ra.

Việc thứ hai là nói với người đã gây tổn thương cho ta rằng ta đang khổ và ý thức rằng nỗi khổ của ta có thể do nhận thức sai lầm. Thay vì buộc tội, ta có thể yêu cầu người ấy giúp ta giải thích để ta hiểu được tại sao mà họ đã nói hoặc làm những điều đó.

Việc thứ ba rất khó, có lẽ là khó nhất. Chúng ta cần lắng nghe thật cẩn thận câu trả lời của đối phương để thực sự hiểu và cố gắng sửa lại nhận thức của mình. Nhờ đó, ta có thể thấy rằng ta là nạn nhân của nhận thức sai lầm của chính ta. Và rất có thể người kia cũng là nạn nhân của nhận thức sai lầm của ta.

Lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ giúp ích rất nhiều. Nhờ lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ chúng ta có thể tạo truyền thông tốt đẹp và hiểu được sự thật. Nếu thật tâm muốn tìm hiểu, biết lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ, ta sẽ tạo cảm thông cũng như hiểu rõ tâm ý người khác. Từ đó ta có thể khám phá ra rằng họ cũng có những nhận thức sai lầm. Sau khi lắng nghe họ hết lòng, ta có thể giúp họ chuyển đổi nhận thức sai lầm của chính họ. Xử lý như thế, chúng ta có cơ hội chuyển hóa nỗi sợ và cơn giận của ta và tạo cơ hội cho mối quan hệ được sâu sắc và chân thật hơn.

Trái tim là một nhịp cầu

Khi không còn bị căm giận và nghi kỵ chế ngự thì trái tim bạn trở thành một nhịp cầu nối kết. Nếu bạn cởi bỏ tâm chấp chặt, ham muốn, và sợ hãi thì bạn có thể nhìn thấy bến bờ bên kia, bến bờ giải thoát. Chúng ta phải hành động với lòng từ ái vì khi bị thù ghét và giận dữ trấn ngự ta không thể giải quyết bất cứ gì. Không thể nào loại bỏ bạo lực và sợ hãi bằng thù ghét và giận dữ. Chỉ bằng từ bi và yêu thương mà ta có thể loại bỏ bạo lực và sợ hãi.

Trước hết hãy nói: “Bạn thân mến, có một con dao sắc trong tim tôi. Tôi muốn lấy nó ra.”

Nếu người kia nhận lời, muốn lắng nghe và bắt đầu chia sẻ thì bạn hãy sẵn sàng lắng nghe sâu với tâm từ bi. Hãy lắng nghe trong chánh niệm và tập trung. Khao khát duy nhất của bạn là cho đối phương một cơ hội để giãi bày. Lắng nghe sâu, với tâm từ là giúp người kia có cơ hội nói ra những điều mà họ chưa bao giờ có cơ hội hoặc can đảm để nói, bởi vì chưa từng có ai lắng nghe họ một cách sâu sắc. 

Ban đầu, lời nói của họ có thể lên án, nói lời cay đắng và đổ lỗi. Hãy cố gắng tiếp tục ngồi yên và lắng nghe. Lắng nghe như vậy là cho họ cơ hội hàn gắn khổ đau và chuyển đổi nhận thức sai lầm. Nếu chen ngang, phủ nhận, hoặc cãi lại, bạn sẽ cắt đứt truyền thông và hòa giải. Lắng nghe sâu cả khi lời họ chứa đầy nhận thức sai lầm và bất công. Lắng nghe người khác sâu sắc, bạn không chỉ nhận ra nhận thức sai lầm của người ấy mà còn nhận ra nhận thức sai lầm của bạn về chính bản thân bạn và về người kia. Khi đôi bên đã bình tĩnh và người kia đã cảm thấy tin tưởng bạn hơn, bạn có thể chậm rãi và khéo léo giải thích nhận thức sai lầm của họ. Bằng ái ngữ, bạn chỉ cho họ biết là họ đã hiểu lầm bạn hoặc hiểu lầm tình huống như thế nào. Bằng ái ngữ, bạn cũng có thể giúp người kia hiểu những khó khăn của bạn. Bạn và người kia có thể giúp nhau giải tỏa nhận thức sai lầm vốn là nguồn cơn của tất cả giận dữ, thù ghét và bạo lực.

Nối lại truyền thông

Mục đích của lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ là để nối lại truyền thông. Khi truyền thông đã được nối lại thì mọi vấn đề, kể cả hòa bình và hòa giải có thể giải quyết. Tôi đã thấy nhiều cặp vợ chồng thành công trong việc thực tập lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ để hàn gắn quan hệ khó khăn hay đổ vỡ. Nhờ thực tập lắng nghe sâu với tâm từ bi và nói lời ái ngữ, nhiều cặp cha con, mẹ con, vợ chồng đã khôi phục lại hòa bình và hạnh phúc. Các nhà lãnh đạo của các quốc gia cũng có thể hòa giải bằng lắng nghe từ bi và nói lời ái ngữ. Trong một tình huống khó khăn, chúng ta không phải là bên duy nhất chịu khổ đau. Đối phương cũng khổ đau và chúng ta chịu trách nhiệm một phần nào đó về nỗi khổ của họ. Khi nhận ra điều này, chúng ta có thể nhìn vào đối phương bằng đôi mắt từ bi, để cho cảm thông bừng nở. Khi có cảm thông thì tình huống thay đổi và truyền thông tái lập. Bất kỳ tiến bộ thật sự nào về hòa giải đều phải bắt đầu từ chính chúng ta, hay trong tập thể, trong dân tộc chúng ta. Không nên tiếp tục đổ lỗi cho đối phương. Chúng ta phải biết hòa giải tự thân trước khi giúp cho bất kỳ một ai khác được hòa giải.

Bình yên trong cơn bão

Mỗi khi cảm thấy sợ hãi, giận dữ, hay ghen tị chúng ta có thể chăm sóc những năng lượng tiêu cực ấy mà không nhất thiết phải tạo bất kỳ mâu thuẫn nào bên trong ta. Chỉ nên nỗ lực chăm sóc và chuyển hóa. Không nên sử dụng bạo lực để trấn áp nỗi khổ, niềm đau và lo sợ.

Những cảm xúc mạnh như nỗi sợ hãi hay tuyệt vọng có thể áp đảo chúng ta. Nhưng nhờ thực tập, nhờ chánh niệm, ta có thể ôm ấp những cảm xúc ấy trong ta. Nếu ngày nào chúng ta cũng thực tập tưới tẩm hạt giống chánh niệm khi đi, khi ngồi, khi thở, khi cười là chúng ta đang chế tác năng lượng chánh niệm. Bất cứ khi nào cần năng lượng chánh niệm, ta chỉ cần chạm vào hạt giống đó thì ngay lập tức năng lượng chánh niệm sẽ phát khởi và ôm ấp cảm xúc của ta. Chỉ cần thành công một lần là ta sẽ có thêm bình an và lần sau, khi cảm xúc mạnh xuất hiện, ta sẽ bớt sợ hãi.

Gặp lúc lo sợ

Giả sử bạn có niềm đau, nỗi khổ, hoặc lo sợ ở sâu trong lòng. Nhiều người trong chúng ta không dám nhìn thẳng vào khối khổ đau nằm sâu trong lòng mình. Bạn tìm bận rộn để ngăn chặn những vị khách bạn không ưa ấy. Bạn tìm đến những vị khách khác như đọc sách, xem tivi, nghe nhạc. Bạn tìm mọi cách để che lấp sự trống trải và lo lắng. Đó chỉ là sự đè nén.

Phần lớn chúng ta có xu hướng muốn “bế quan tỏa cảng”. Ta không đủ sức để đối diện, để mời những đau khổ, sợ hãi lên chơi, nên ta lại đi mang vào đủ mọi thứ để lấp đầy tâm trí ta. Lúc nào quanh ta cũng sẵn có quá nhiều thứ giúp ta xao nhãng, để ta giải trí – đặc biệt là tivi. Tivi có thể xem như là một loại ma túy. Khi nỗi khổ quá lớn, khó mà chịu đựng, ta bật tivi lên để tìm quên lãng. Hình ảnh và âm thanh của tivi lấp đầy phòng khách. Ngay cả khi chương trình chẳng có gì thú vị chúng ta cũng không có can đảm tắt tivi. Tại sao? Tại vì thà xem những chương trình không thú vị hay thậm chí nhàm chán còn hơn là trở về với mình và ôm ấp niềm đau, nỗi khổ.

Tìm xao nhãng là thói quen của nhiều người. Trong khi đó có một số khác đã chọn cách sống trong một “khu vực không tivi”, kiểu như “khu vực không hút thuốc” hay “không uống rượu”. 

Tôi biết một gia đình tối nào cũng xem tivi. Một hôm, họ đi ra chợ và mua về một tượng Bụt. Họ mua tượng để trang trí nhưng ngôi nhà quá nhỏ, không có chỗ đặt tượng. Họ bèn đặt tượng lên mặt trên tivi vì ở đó sạch sẽ và trang trọng. Tình cờ tôi ghé qua nhà ngay sau khi họ đặt tượng. Tôi liền nói: “Các bạn thân mến, bức tượng và tivi không hợp với nhau đâu. Tượng Bụt và tivi khác nhau như Bắc Nam hai cực. Tượng đức Bụt gọi ta trở về với tự thân còn tivi đưa ta rời khỏi chính mình.”

Thở bụng

Có vài phương pháp đơn giản để chăm sóc cảm xúc mạnh. Một phương pháp là thở bụng. Khi bị cảm xúc mạnh như sợ hãi hay tức giận, chúng ta thực tập đưa chú ý xuống bụng. Lúc này, ở lại trong tâm trí là không an toàn. Cảm xúc mạnh giống như cơn bão. Đứng ngay giữa tâm bão vô cùng nguy hiểm. Song phần lớn chúng ta khi bực tức, giận dữ lại đứng ngay giữa cơn bão cảm xúc và ta liền bị nhấn chìm. Thay vào đó, chúng ta phải hoàn toàn chú ý vào sự phồng xẹp của bụng.

Vượt qua cơn bão

Hãy nhìn một cội cây trong cơn bão, cành lá bị quăng quật dữ dội. Bạn có cảm tưởng cội cây sẽ không đứng vững. Bạn cũng như thế, khi bị một cảm xúc mạnh, như cội cây kia, bạn dễ bị tổn thương. Bạn có thể bị hủy diệt. Nhưng nếu chú ý vào thân cây và gốc cây, bạn sẽ thấy có điều khác biệt. Bạn thấy rằng thân cây vững chắc và bám rễ vào lòng đất nên không bị bão thổi bay. 

Dù đứng hay ngồi, chúng ta cũng giống như một cội cây. Khi bão cảm xúc kéo đến, không nên ở trong vòng chịu ảnh hưởng mạnh của bão, tức là khu vực não bộ hoặc thành ngực. Đừng ở đó, quá nguy hiểm. Hãy đưa chú ý xuống vùng rốn – nơi đó chính là thân cây và gốc cây, phần vững chắc nhất – và thực tập hơi thở chánh niệm. Hãy ghi nhận bụng phồng lên xẹp xuống. Trong một tư thế vững chãi, như tư thế ngồi, thì kết quả tốt hơn nhiều. Chỉ thở thôi, đừng nghĩ gì cả. Hãy thở theo phồng xẹp của bụng. Thực tập như vậy trong 10 hoặc 15 phút, cảm xúc mạnh sẽ đi qua.

Cảm xúc chỉ là cảm xúc

Thiền có hai khía cạnh: một là dừng lại để bình tĩnh, hai là nhìn sâu để chuyển hóa. Khi có đủ năng lượng chánh niệm, ta có thể nhìn sâu vào bất kỳ cảm xúc nào và khám phá ra thực chất của cảm xúc. Nhờ đó cảm xúc sẽ được chuyển hóa.

Tất nhiên, cảm xúc đã bám rễ sâu trong ta. Chúng quá mạnh và ta nghĩ rằng ta sẽ không sống nổi nếu để mặc chúng hoành hành. Chúng ta phủ nhận và đè nén cảm xúc cho đến khi chúng bùng nổ và gây tổn thương chính ta cũng như người khác. Nhưng cảm xúc chỉ là cảm xúc. Nó đến, ở lại một lúc, rồi đi. Tại sao ta lại gây tổn thương cho mình cũng như người khác chỉ vì một cảm xúc? Trong ta còn có rất nhiều thứ khác ngoài cảm xúc.

Nếu biết thực tập nhìn sâu, chúng ta sẽ có thể nhận ra và xóa bỏ nguyên nhân của cảm xúc gây đau khổ. Chỉ riêng việc thực tập ôm ấp cảm xúc cũng đã rất hữu ích. Khi cảm xúc bùng phát, nếu biết cách tìm nơi an trú, nếu biết cách theo dõi hơi thở và chú ý vào sự phồng xẹp của bụng trong mười lăm hay hai mươi phút, thì cơn bão sẽ đi qua và ta biết được rằng ta có thể vượt qua cảm xúc, ta sẽ tìm lại bình an vững chắc của tâm trí. Thực tập như thế ta không còn sợ hãi nữa. Khi một cảm xúc mạnh lại bùng phát, ta sẽ ứng phó dễ dàng hơn, biết rằng ta có thể vượt qua.

Nếu biết cách thư giãn, khi cảm xúc mạnh đến, chúng ta sẽ không trao truyền nỗi sợ hãi cho con cái cũng như những thế hệ tương lai. Ôm giữ lo sợ, đè nén lo sợ thì sẽ có lúc lo sợ bùng phát. Rồi lo sợ sẽ lây lan cho những người trẻ xung quanh. Họ sẽ thâm nhập và lan tỏa lo sợ. Nhưng nếu biết cách xử lý lo sợ, chúng ta sẽ có khả năng giúp đỡ người thân và những người trẻ xung quanh. Chúng ta có thể nói với họ: “Em yêu, hít thở với anh nào. Hãy chú ý đến sự phồng lên xẹp xuống của bụng.” Thấy bạn có thực tập họ sẵn sàng nghe lời. Nhờ sự hiện diện của bạn, nhờ năng lượng chánh niệm, vững chãi của bạn, nên con bạn, vợ bạn sẽ có thể vượt thoát cơn bão của cảm xúc. Khi chia sẻ lại cho những người trẻ cách vượt qua cơn bão cảm xúc, khuôn mặt bạn hẳn là phải bình an và trầm tĩnh. Một khi người trẻ đã biết làm chủ cảm xúc của mình, họ đang sở hữu một kỹ năng vô giá có thể cứu mạng họ trong tương lai.

Thực tập dừng lại

Phương pháp thiền tập do Đức Thế Tôn giảng dạy gồm hai phần: dừng lại và nhìn sâu (chỉ và quán). Bước thứ nhất của thiền tập là dừng lại. Hầu hết chúng ta từ khi sinh ra, chúng ta luôn luôn rong ruổi không ngừng nghỉ. Đó là một tập khí sâu đậm mà tổ tiên đã truyền lại cho ta: luôn luôn căng thẳng, dễ bị cuốn đi bởi những thứ quanh mình và hoàn toàn không có mặt một cách bình an cho giây phút hiện tại. Chúng ta quen nhìn sự vật một cách hời hợt, bị cuốn đi bởi những tri giác sai lầm và từ đó cảm thọ tiêu cực biểu hiện làm cho ta hành xử một cách lệch lạc và cuộc sống của chúng ta cũng trở nên khổ sở hơn.

Chúng ta phải huấn luyện mình dừng lại. Dừng lại sự rong ruổi. Ngay cả những khi ta được bình an, không có gì phải lo lắng, sợ hãi, chúng ta vẫn theo đuổi hết dự án này tới dự án khác hay suy tư hết việc này tới việc khác, không phút nào yên nghỉ. Vậy cho nên ngay những lúc được bình yên và vô sự thì hãy thực tập thư giãn, thực tập dừng lại để trở về với những mầu nhiệm của hiện tại.

Khi tâm được an thì trí sẽ sáng. Nếu dừng lại thật sự thì bạn không cần phải thực tập nhìn sâu bởi vì ngay khi bạn dừng lại là bạn đã nhìn sâu rồi. Dừng lại và nhìn sâu là một, là hai mặt của một tâm thức. Chú tâm vào một việc gì quan trọng tức là sử dụng định lực. Khi có định lực là có dừng lại và nhìn sâu.

Khi dừng lại và tiếp xúc với những gì tốt đẹp, ta sẽ trở nên thoải mái, sáng suốt và vui tươi. Sự thực tập chính là thức ăn nuôi dưỡng ta và giúp ta nuôi dưỡng những người khác bằng phong thái sáng suốt, nụ cười và niềm vui.

Có thể rằng bạn đang gặp nhiều khó khăn nhưng nếu nhìn cho sâu, bạn sẽ thấy rất nhiều niềm vui còn đó cho bạn. Vậy thì không nên rong ruổi tìm kiếm. Hãy trở về với phút giây hiện tại để chế tác định lực, nhờ đó giúp ta có thể tiếp xúc với sự vật một cách sâu sắc và sáng suốt hơn. Đây là một phép thực tập rất đơn giản mà quan trọng.

Hãy an trú thảnh thơi với hơi thở vào ra trong giây phút hiện tại. Nếu cảm xúc quá mạnh và hơi thở không đủ giúp ta dừng lại và thư giãn thì hãy đi ra ngoài thiền hành. Chú tâm vào từng bước chân giúp ta dừng lại. Đừng để cho tâm trí bị lôi cuốn vì suy tư, phán xét, phiền muộn và cảm xúc nặng nề. Hãy trở về với phút giây hiện tại, thư giãn và dừng lại. Ngay cả lúc không có cảm xúc quá mạnh thì cũng nên thực tập để khi gặp việc cần giải quyết bạn cũng có thể ngồi yên và nhìn sâu để tìm ra giải pháp.

Nhờ thực tập, bạn có thể thư giãn và làm giảm đi những đau nhức trong cơ thể. Bạn có thể nhận diện những cảm giác đau buồn trong bạn và biết cách ôm ấp, chăm sóc những khổ thọ ấy. Bạn có thể chế tác niềm vui bất cứ khi nào bạn muốn.

Nếu thực tập giỏi, bạn sẽ không sợ những chướng ngại và khó khăn. Bạn có thể thích ứng với những khó khăn mà bạn gặp. Nếu thực tập giỏi, bạn không có gì để lo sợ, bởi vì bạn đã có con đường. Khi biết cách làm chủ cơ thể, cảm thọ, tri giác thì không có gì để lo lắng nữa.

Dù là khi đi, đứng, hay ngồi thiền, bạn đều có thể sử dụng hơi thở để giúp bạn dừng lại. Khi bạn dừng lại là bạn làm chủ thân và tâm. Bạn không để những tập khí cuốn bạn đi trong những suy tư về quá khứ hay những kế hoạch cho tương lai. Ngồi thiền không phải là đấu tranh. Bạn buông xuống hết mọi thứ.

Khi một ý tưởng dấy lên, bạn nói “xin chào”, rồi ngay tức khắc giã từ. Đừng chống cự, đừng để một bãi chiến trường trong đầu bạn. Đừng nói: “Ôi, bậy quá, tôi suy nghĩ lung tung quá.” Không cần phải tự trách mình như thế. Chỉ cần cất tiếng chào (Hi!) và tức khắc từ giã (Bye). Buông thư và thả trôi mọi thứ. Đem tâm trí về với hiện tại, an trú trong ý thức minh mẫn về cơ thể của mình. Cũng giống bạn ngâm những hạt đậu xanh trong chậu nước, nước sẽ từ từ thấm vào hạt đậu. Hạt đậu sẽ nở. Hiện tượng ấy cũng xảy ra tương tự cho bạn. Buông thả sẽ làm cho căng thẳng tan biến từ từ, từ từ. Bạn sẽ thư giãn hơn, bình an hơn. Phép thực tập là chỉ cần đem thân về hợp nhất với tâm trong giờ phút hiện tại.

Khi đi, thường thường thân bạn một nơi và tâm bạn một ngả. Bạn tiếp tục trở về với phút giây hiện tại. Thân tâm hợp nhất có ảnh hưởng rất sâu đậm. Bạn sẽ cảm nhận sự vật thông suốt hơn, bình an hơn. Nếu có một ý nghĩ tiêu cực đến lúc đó thì bạn chỉ gửi lời chào (hello), ghi nhận mà không phán xét. Ý nghĩ tiêu cực ấy có thể đến từ cha mẹ bạn hay từ một ai đó. Hãy buông xả và mỉm cười. Hãy thực tập để luôn luôn có một cơ thể trong chánh niệm. Khi ngồi thì biết là mình đang ngồi, hoàn toàn ý thức rằng mình đang ở trong tư thế ngồi. Mỗi bước chân đặt trên mặt đất là một bước chân của bình an, an nhiên, vững chãi.

Thiền tập là nuôi dưỡng

Thiền tập mang lại hạnh phúc ngay tức khắc. Bạn sẽ không còn bị lo âu, sợ hãi, hay bị những dự án cuốn bạn đi. Trở về với giây phút hiện tại, tiếp xúc với cảm thọ vui tươi còn đó trong bạn thì bạn sẽ đạt được niềm vui của thiền tập, niềm vui khi thực tập theo giáo lý của Đức Thế Tôn. Niềm vui khi thiền tập cũng giống như thức ăn hằng ngày (Thiền Duyệt Vi Thực). Không có thức ăn hằng ngày ấy, không có niềm vui mỗi ngày, bạn sẽ khô héo như một bông hoa tàn phai. Khi bạn trở về và có mặt một cách trọn vẹn thì bạn sẽ tiếp xúc liền với những yếu tố tích cực còn đó trong bạn, tâm trí bạn sẽ vui tươi. Hãy tặng cho mình một nụ cười, bạn sẽ rạng rỡ và tươi mát ra. Vậy thì không nên gạt bỏ thức ăn đặc biệt đó vì đó chính là nguồn vui của sự thiền tập.

Thân tâm nhất như

Khi tâm trí bạn buông xả thì cơ thể bạn sẽ thư giãn bởi vì thân và tâm là hai mặt của một thực tại. Nếu tâm trí bạn căng thẳng, gặp nhiều khó khăn, cơ thể bạn cũng sẽ bị ảnh hưởng không ít.

Nhờ dừng lại, dù là đang đi thiền hay ngồi thiền, bạn có thể làm chủ được hoàn cảnh. Thân tâm bạn là do bạn nắm quyền tự chủ; đừng để những lo lắng, sợ hãi, dằn vặt cuốn bạn đi. Khi bị cuốn đi bởi những lo lắng sợ hãi, bạn sẽ giống như một vị quốc vương bị tước hết quyền hành. Thực tập là giành lấy quyền tự chủ. Khi bạn đi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm, bạn đang nắm chủ quyền trong tay mình.

An trú trong hiện tại giúp bạn thấy rõ những gì làm bạn đau khổ, những gì làm bạn hạnh phúc.Với năng lượng của định và tuệ, bạn sẽ suy tư, hành động và nói năng sáng suốt hơn.

Chúng ta biết rằng người thương của chúng ta đều vô thường, nhưng trong cuộc sống hằng ngày mình luôn coi họ là thường, sẽ có mặt với chúng ta mãi mãi. Ý thức được như vậy, chúng ta sẽ đối xử với họ một cách yêu thương hơn vì một mai nào đó họ sẽ ra đi. Nhờ ý thức đó, chúng ta có thể hiểu sâu thêm về những khổ đau bên trong mình. Thay vì đổ lỗi cho người khác, chúng ta có thể nhìn lại mình và những vụng về của tự thân đã góp phần gây khó khăn cho người kia.

Sức mạnh của chánh niệm

Tất cả chúng ta ai cũng có khả năng chánh niệm, thiền định, hiểu biết, thương yêu. Những đức tính ấy có sẵn trong ta. Chúng ta có thể gọi đó là tính Bụt. Cho nên khi chúng ta nói: “Tôi quy y Bụt”, thì điều đó không có nghĩa là tôi quy y một vị thần có mặt ngoài tôi. Điều đó có nghĩa là tôi tin vào khả năng hiểu và thương của tôi.

Khi Đức Thế Tôn đến tuổi già, trước khi nhập diệt, Ngài đã dạy các đệ tử: “Các con không nên an trú vào nơi nào khác ngoài các con. Trong mỗi các con có một nơi an toàn nhất – hòn đảo của tự thân – mà các con có thể an trú. Mỗi khi các con trở về hải đảo tự thân với hơi thở chánh niệm, các con tạo nên an bình, có định, có tuệ. Nếu các con an trú nơi hải đảo của tự thân đó, các con sẽ được an toàn. Đó là nơi nương tựa mỗi khi con cảm thấy lo sợ, hoang mang.”

Tại Làng Mai chúng tôi có một bài hát phổ ra từ một bài thơ ngắn:

Quay về nương tựa

Hải đảo tự thân

Chánh niệm là Bụt

Soi sáng xa gần.

Khi thực tập theo dõi hơi thở, chúng ta chế tác năng lượng chánh niệm. Chúng ta nói đó là hơi thở chánh niệm. Năng lượng chánh niệm là Bụt, bởi vì Bụt được làm bằng năng lượng chánh niệm. Và ai cũng có thể chế tác năng lượng chánh niệm của một vị Bụt. Nếu bạn thuộc về truyền thống Cơ Đốc thì bạn có thể so sánh năng lượng chánh niệm với năng lượng Chúa Thánh Thần (Holy Spirit). Chúa Thánh Thần có thể được mô tả như là năng lực của Chúa Trời. Bước chân và hơi thở chánh niệm giúp ta chế tác được nguồn năng lượng này. Chánh niệm là ánh sáng soi đường hướng dẫn bạn, chỉ bạn rõ hiện tình như thế nào và cần phải hành động như thế nào cho bước tiếp theo.

Khi thực tập hơi thở chánh niệm, năng lượng chánh niệm chế tác được sẽ giúp bạn giảm bớt những căng thẳng trong cơ thể, cũng như những cảm thọ sợ hãi, tuyệt vọng. Năng lượng chánh niệm ôm ấp những buồn khổ và làm lắng dịu, buông thư những căng thẳng.

Quay về an trú nơi hải đảo của tự thân không có nghĩa là phải tách rời cuộc sống thế gian. Nó chỉ có nghĩa là quay về tự thân, vững chãi hơn. Bạn có thể đi giữa đường phố mà vẫn an trú nơi hải đảo tự thân của bạn. Phản ứng, hành xử của bạn sẽ khác đi rất nhiều khi bạn vững chãi, không còn bị choáng ngợp. 

Có thể bạn đang bị căng thẳng trong cơ thể. Có thể bạn đang có nhiều cảm xúc mạnh. Nhờ thực tập hơi thở chánh niệm mà bạn thư giãn cơ thể và lắng dịu cảm xúc, khổ đau. Sau vài phút thực tập, trở về an trú hải đảo tự thân, bạn sẽ tìm lại bình an, không còn cảm giác tù ngục vì tuyệt vọng. Cảm xúc của bạn sẽ được chuyển hóa. Tôi thường xuyên thực tập bài thi kệ trên. Tôi đã thực tập như thế 30 năm qua và bây giờ vẫn còn đang tiếp tục thực tập. 

Đức Thế Tôn giảng dạy giáo lý quay về hải đảo tự thân lúc Ngài sắp nhập Niết Bàn. Ngài biết rằng sau khi Ngài nhập diệt, các đệ tử của Ngài sẽ hoang mang, lạc lõng. Đức Bụt muốn nhắn nhủ các đệ tử của Ngài nên tìm người thầy trong chính mình chứ không ở đâu xa. Cơ thể của Ngài tuy đã tan rã nhưng giáo huấn của Ngài đã được trao truyền cho các đệ tử. Trở về hải đảo tự thân là tìm về người thầy ngay trong tự thân mỗi người.

Không có sự khác biệt giữa nội tâm và ngoại giới. Sự thật là khi ta tiếp xúc với nội tâm thì ta có thể gần gũi hơn với ngoại giới. Nếu không có mặt ngay trong nội tâm thì không thể tiếp xúc thực sự với ngoại giới: “Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm” (The way out is in). Nếu bạn tiếp xúc sâu sắc với nội tâm thì bạn có thể tiếp xúc sâu sắc với ngoại cảnh. Ngược lại, nếu bạn có thể tiếp xúc sâu sắc với bên ngoài thì bạn có thể tiếp xúc với nội giới cùng một lúc.

Quay về hải đảo tự thân giúp ta chế tác niệm và định. Mỗi khi bị cảm xúc mạnh như sợ hãi, giận dữ hay tuyệt vọng, hãy quay về với hải đảo tự thân và thực tập thi kệ ở trên. Tôi tin chắc bạn sẽ cảm thấy lắng dịu hơn chỉ sau vài phút thực tập. Mỗi khi gặp trường hợp khó khăn, tai ương hoạn nạn hay bệnh hoạn ngặt nghèo hay lúc hoang mang không biết phải làm gì thì đây là lúc để bạn thực tập như thế. Nếu tất cả mọi người đều thực tập như thế thì chúng ta có đủ bình an và sáng suốt để vượt qua bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Thực tập quay về nương tựa cho ta niềm vui và bình an trong cuộc sống hằng ngày. 

Chế tác năng lượng chánh niệm

Chánh niệm là một loại năng lượng giúp đem tâm về với thân để ta có thể an trú bây giờ và ở đây và từ đó có thể tiếp xúc với sự sống với biết bao mầu nhiệm và giúp ta thực sự sống. Chánh niệm giúp ta ý thức những gì đang xảy ra ngay lúc này trong cơ thể, trong cảm thọ, ý tưởng của ta cũng như những gì đang xảy ra bên ngoài thế giới. 

Chúng ta biết rằng buổi sáng với ánh mặt trời mọc, sương mù bao phủ núi đồi tạo nên một cảnh tượng vô cùng đẹp đẽ. Chúng ta muốn mở rộng lòng thưởng thức vẻ đẹp của một sáng mai, biết rằng cảnh đẹp ấy sẽ nuôi dưỡng ta rất nhiều. Nhưng đôi khi vì chìm đắm trong cảm xúc và ý tưởng mông lung, chúng ta đã bỏ lỡ dịp thưởng thức những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây. Trong khi có người biết mở rộng tâm hồn để thưởng thức núi đồi hùng vĩ, ánh mai huy hoàng, thân và tâm được tắm mình trong thiên nhiên thì có người đã để cho lo lắng buồn giận cản lối nên đã không tiếp xúc được với những hùng vĩ của đất trời. Cảm xúc là chướng ngại giữa ta và Nước Chúa, giữa ta và Tịnh Độ. 

Vậy thì chúng ta phải làm gì? Chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải loại bỏ cảm xúc để có được tự do, để thưởng thức cảnh mặt trời mọc buổi sáng. Chúng ta coi lo sợ, giận hờn như kẻ thù. Chúng ta nghĩ rằng nếu không có lo lắng, buồn giận thì chúng ta sẽ được tự do, chúng là những chướng ngại làm cho ta không tiếp xúc được với những gì nuôi dưỡng.

Trong những trường hợp như thế, cần nhất là theo dõi hơi thở chánh niệm, nhẹ nhàng nhận diện những cảm thọ lo lắng, buồn giận. “Thở vào tôi biết là tôi đang lo lắng. Thở ra tôi mỉm cười với lo lắng trong tôi”. Có thể là bạn có tập khí hay lo. Hoặc là bạn biết rằng lo cũng chẳng có gì là cần thiết hay giúp ích. Bạn muốn giải tỏa lo lắng, buồn giận vì lo lắng là trở ngại cho bạn không tiếp xúc được những mầu nhiệm của cuộc sống. Nhưng lo lắng đã là một phần của bạn, cho nên mỗi khi lo lắng trỗi dậy, bạn cần có mặt chăm sóc nỗi lo lắng ấy một cách nhẹ nhàng và bình an. Bằng hơi thở và bước chân ý thức, bạn chế tác năng lượng chánh niệm. Chỉ có năng lượng chánh niệm mới giúp bạn làm được việc ấy. Với năng lượng chánh niệm, bạn nhận diện và ôm ấp những lo lắng, buồn giận một cách nhẹ nhàng. 

Khi con khóc, bạn không bao giờ muốn trừng phạt con vì con bạn chính là bạn. Lo lắng, phiền giận cũng như con bạn, không nên đối xử tàn bạo với lo lắng phiền muộn. Không thể ném chúng ra ngoài cửa sổ. Phép thực tập đơn giản là nhận diện. Hãy tiếp tục theo dõi hơi thở, bước đi chánh niệm, và với năng lượng mà bạn chế tác, bạn nhận diện những lo lắng, phiền muộn của bạn nặng nhẹ tới đâu và mỉm cười ôm ấp chúng. Nếu bạn giận với nỗi giận của mình thì bạn sẽ giận lên gấp mười lần. Như vậy là không khôn ngoan. Bạn đã đau khổ vì phiền giận của bạn rồi. Khi em bé khóc, người mẹ nhẹ nhàng bế bé lên vỗ về, nâng niu. Tình thương yêu của bà mẹ thấm vào em bé và em bé sẽ ngừng khóc. 

Năng lượng chánh niệm giúp bạn có khả năng nhận diện và ôm ấp nỗi buồn. Bạn đã bắt đầu cảm thấy nhẹ lòng. Em bé trong bạn đã bình an.

Giờ đây, bạn có thể thưởng thức cảnh huy hoàng của mặt trời lặn và cho mình cơ hội được nuôi dưỡng bởi những mầu nhiệm của cuộc sống trong mình và quanh mình.

Mang theo chánh niệm bên mình

Chúng ta thường mang theo điện thoại cầm tay không rời. Bạn nghĩ là nếu không có điện thoại cầm tay thì không sống được. Bạn lo khi quên điện thoại ở nhà hay sắp hết pin.

Khi thực tập chánh niệm, bạn có thể mang theo chánh niệm với mình như mang theo điện thoại. Bất kỳ bạn đi đâu thực tập chánh niệm cũng theo bạn.

Trong đời sống hằng ngày, ta cần có một chiều hướng tâm linh để giúp ta có khả năng chăm sóc những niềm vui, nỗi khổ của ta. Thực tập chánh niệm giúp ta có một nơi để an trú. Chăm lo bồi dưỡng chánh niệm sẽ giúp cho năng lượng chánh niệm càng ngày càng phát triển và hùng mạnh. Bất kỳ đi đâu chúng ta cũng cảm thấy tự tin, có lẽ tự tin hơn cả khi ta có chiếc điện thoại cầm tay. Chúng ta có thể vượt qua bất kỳ khó khăn nào. 

Ai cũng có hạt giống chánh niệm trong người. Ai cũng có thể thở hơi thở chánh niệm, kể cả các em bé. Ai cũng có thể uống một tách trà trong chánh niệm. Khi trong cơ thể bạn đã ngập tràn chánh niệm, bạn nói, bạn cười, bạn đi sẽ luôn trong chánh niệm. Năng lượng chánh niệm đang sống động trong bạn.  Chánh niệm đi đôi với định lực. Chế tác năng lượng niệm và định mỗi ngày giúp bạn chuyển hóa sợ hãi, buồn giận và chấm dứt khổ đau. Niệm và định đưa đến tuệ giác. Hạt giống tuệ giác của sự hiểu biết tỏ tường có sẵn trong mỗi chúng ta. Nhìn những bước chân vững chãi, thảnh thơi của bạn, tôi thấy được chất thánh trong bạn đang hiện hữu. Sự thật là ai cũng mang trong mình những chất thánh. Tính Bụt có mặt trong mọi người. Khi Bụt trong ta “đang sống”, ta không còn sợ hãi hay khổ đau. Hạnh phúc là điều có thể có được.

Hiến tặng không sợ hãi

Bạn có một người thân sắp chết và đang rất sợ hãi. Bạn muốn giúp người ấy đừng sợ hãi thì trước hết bạn phải tập cho bạn tính không sợ hãi (đức vô úy). Vô úy là gốc rễ của hạnh phúc, là món quà quý báu nhất mà bạn có thể hiến tặng cho người ấy. Nếu bạn có thể ngồi vững chãi với người ấy trong những giờ phút nguy kịch của mạng sống thì bạn có thể giúp cho người ấy “ra đi” bình an và không sợ hãi. Vô úy là tuyệt đỉnh của giáo lý đạo Bụt.

Thiền tập giúp ta chế tác niệm và định. Những năng lượng ấy đưa đến tuệ giác không sinh, không diệt. Và từ đó ta có thể hóa giải nỗi sợ về cái chết. Khi hiểu rằng ta không thể nào bị hủy diệt, ta thoát khỏi nỗi sợ chết. Đó là một giải thoát lớn. Vô úy là niềm vui sâu lắng.

Nếu còn sợ thì ta không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Nếu ta vẫn còn đeo đuổi theo những đối tượng của tham dục là vì ta vẫn còn lo sợ. Sợ hãi đi theo với tham dục, đam mê. Vì muốn được an toàn và hạnh phúc mà ta đam mê theo đuổi một người, một vật, hay một ý tưởng (tiền tài, danh vọng…) mà ta tin rằng sẽ bảo đảm an toàn, hạnh phúc cho ta. Nhưng chúng ta không bao giờ hoàn toàn thỏa mãn ham muốn cho nên chúng ta vẫn cứ miệt mài theo đuổi và triền miên lo sợ. Nếu ta biết dừng lại việc theo đuổi những đối tượng của ham muốn thì sợ hãi sẽ tan biến và ta được bình an. Nếu thân tâm bình an, ta sẽ không còn bị lo sợ quấy nhiễu, ta tránh được nhiều tai biến, ta sẽ được tự do. 

Nếu chúng ta hoàn thiện được khả năng vô úy và không tham luyến thì đó là một tài sản quý báu lớn hơn tiền tài và vật chất. Sợ hãi quấy nhiễu đời ta và khiến cho ta khốn khổ. Chúng ta bám víu vào một vật gì hay một ai như một người sắp chết đuối bám víu vào một cái phao. Bằng cách thực tập không ôm giữ và chia sẻ tuệ giác này với người khác, chúng ta hiến tặng sự không sợ hãi. Mọi vật đều vô thường. Thời gian sẽ qua đi. Đối tượng của sự tham luyến của ta rồi cũng sẽ rời ta nhưng hạnh phúc luôn luôn sẵn đó cho ta.

Độc tố

Chúng ta không muốn sợ hãi, phiền giận, đau nhức, cho nên ta tìm cách khỏa lấp cuộc sống của ta bằng những sản phẩm do văn minh hiện đại cung cấp: mạng xã hội, trò chơi điện tử, phim nhạc. Tất cả những thứ đó chứa nhiều độc tố mà kết quả chỉ làm cho ta càng thêm bệnh hoạn, sợ hãi ngày một sâu thêm. 

Giả sử chúng ta ngồi xem tivi trong một giờ. Thời gian quả là không nhiều. Nhưng ta biết rằng chỉ trong một giờ đó, ta đã bị tưới tẩm với biết bao là bạo động, sợ hãi và những độc tố. Và mỗi ngày chúng ta đã tự đầu độc mình như thế. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ có được ít nhiều khuây khỏa nhưng trong khi tìm tới những hình thức giải trí như thế, chúng ta lại tiếp tục đưa vào chiều sâu tâm thức thêm nhiều đau khổ, sợ hãi. Khối khổ đau từ đó mỗi ngày mỗi chồng chất. Chúng ta đã tự đầu độc chính mình khi chúng ta tiêu thụ hằng ngày. Chương trình truyền hình và phim ảnh đã thay thế vú nuôi cho con em chúng ta. Và lẽ đương nhiên, con em chúng ta cũng sẽ bị đầu độc bởi những gì chúng nghe và thấy trên tivi. Bụt gọi những thứ đó là độc tố. Trong tâm thức chúng ta vốn đã có độc tố, vậy mà chúng ta lại tiếp tục chất chứa thêm vào biết bao độc tố khác nữa.

Môi trường chúng ta sống cũng chứa đầy độc tố. Thiền tập là ý thức những gì đang xảy ra, không những trong thân tâm ta mà cả ngoài thế giới. Chúng ta đang nuôi ta và con cháu ta bằng độc tố. Đó là sự việc đang xảy ra ngày hôm nay. Nếu nhận ra được như thế, ta tỉnh ngộ và thấy rõ rằng ta đang tự đầu độc ngày cũng như đêm. Phải tìm cách chấm dứt tiêu thụ độc tố đang nuôi dưỡng sợ hãi trong ta.

Bản tính của tương tức

Khi nhìn một tờ giấy, ta có thể tiếp xúc với những gì “không-phải-giấy” trong vũ trụ: mặt trời, cỏ cây, đất đá, tất cả mọi thứ… ngoại trừ duy nhất một yếu tố “không có cái ngã riêng biệt” (separate self). Tờ giấy không thể tự mình mà có được. Tờ giấy phải liên hệ (tương tức) với tất cả vũ trụ. Vì vậy, từ “tiếp hiện” (inter-be) có thể giúp chúng ta hiểu nhiều hơn là từ “hiện hữu” (be). Cùng có mặt (inter-be) đồng nghĩa với tương tức (inter-be). Tờ giấy không thể hiện hữu nếu không có ánh sáng mặt trời, không có rừng cây. Tờ giấy tương tức với ánh sáng mặt trời, tương tức với khu rừng. 

Nếu bạn nêu lên một câu hỏi: “Vũ trụ do đâu mà có?” thì Bụt sẽ trả lời một cách đơn giản: “Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không”. Vì có ánh sáng mặt trời cho nên có tờ giấy. Bạn không thể tự mình mà có. Bạn phải tương tức với toàn vũ trụ. Đó là tính chất của tương tức. Hiện nay, từ “inter-be” không có trong từ điển nhưng tôi tin rằng từ ấy sẽ được cho vào từ điển vì nó giúp ta hiểu rõ bản chất của vạn sự, vạn vật, bản chất tương tức.

Nếu chúng ta bị kẹt trong ý niệm về một cái ngã riêng biệt, chúng ta có một nỗi sợ lớn. Nhưng nếu chúng ta biết nhìn sâu và có thể thấy “chính mình” khắp nơi, chúng ta có thể giải tỏa được nỗi sợ ấy.

Là một người xuất gia, hằng ngày tôi thực tập nhìn sâu. Tôi không chỉ giảng pháp, tôi thấy tôi trong các đệ tử của tôi. Tôi thấy tôi trong tổ tiên của tôi. Tôi thấy tôi đang được tiếp nối khắp nơi ngay trong lúc này. Mỗi giây tôi cố gắng trao truyền cho các đệ tử của tôi những tinh hoa mà tôi tiếp nhận được từ các bậc thầy và từ công phu thực tập của tôi. 

Tôi không tin rằng một ngày nào đó tôi sẽ chấm dứt. Tôi từng nói rằng thế kỷ 21 là một ngọn đồi, một ngọn đồi rất đẹp, và chúng ta sẽ cùng nhau leo “đồi thế kỷ” như một tăng thân. Và tôi sẽ luôn luôn có mặt với tăng thân của tôi. Điều này không có gì khó khăn. Tôi thấy tất cả mọi người trong tôi và thấy tôi trong tất cả mọi người. Đây là sự thực tập nhìn sâu, thực tập thiền định về tính không và quán chiếu tương tức.

Câu chuyện của cư sĩ Cấp Cô Độc (Anathapindika)

Cấp Cô Độc (Anathapindika) sống cách đây 2.600 năm và là một trong những đệ tử sớm nhất của Đức Thế Tôn. Cấp Cô Độc là một thương gia có lòng hào hiệp, luôn luôn giúp đỡ những người nghèo khó trong vùng. Ông ta bố thí rất nhiều nhưng không vì thế mà nghèo đi. Ông ta sống rất hạnh phúc, có nhiều bạn bè và được mọi người thương mến.

Cấp Cô Độc hết lòng phụng sự Bụt. Ông đã mua một khu rừng, xây dựng một đạo tràng gọi là Jeta Grove (Vườn Cây Cấp Cô Độc) để làm nơi trú ẩn và thực tập của Bụt và tăng đoàn của Ngài. Cấp Cô Độc Viên trở thành một trung tâm tu học nổi tiếng.

Một hôm, Bụt nghe tin ông Cấp Cô Độc bị bệnh nặng. Bụt đến thăm và khuyên ông ta thực tập hơi thở chánh niệm khi đang bị bệnh. Sau đó, Bụt sai đệ tử của Ngài là Xá Lợi Phất đến săn sóc Cấp Cô Độc trong thời gian ông ta lâm bệnh.

Xá Lợi Phất và một bạn đồng tu trẻ là An Nan Đà đến thăm Cấp Cô Độc. Khi Xá Lợi Phất đến, ông Cấp Cô Độc quá yếu, không ngồi dậy được để chào Xá Lợi Phất. Thầy Xá Lợi Phất kéo ghế ngồi gần ông Cấp Cô Độc và hỏi: “Bệnh tình của cư sĩ thế nào? Có tăng có giảm gì không? Những đau đớn trong cơ thể cư sĩ có từ từ bớt đi chút nào không hay là lại gia tăng?“ Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời: “Thưa các đại đức, bệnh tình của con không thấy thuyên giảm. Những đau đớn trong cơ thể đã không bớt mà còn càng lúc càng tăng.”

Thầy Xá Lợi Phất nghe vậy bèn quyết định hướng dẫn cho ông Cấp Cô Độc một bài thực tập. Thầy Xá Lợi Phất là một đệ tử thông minh nhất của Bụt cho nên thầy biết rằng hướng dẫn cho ông Cấp Cô Độc tưởng nhớ về Đức Thế Tôn, người mà ông Cấp Cô Độc rất ngưỡng mộ, sẽ làm cho ông rất hạnh phúc. Thầy Xá Lợi Phất muốn tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc của ông Cấp Cô Độc để từ đó giúp ông Cấp Cô Độc giảm bớt cơn đau. 

Chỉ trong năm ba phút thực tập, đau nhức trong toàn thân ông đã giảm bớt rất nhiều và ông có thể mỉm cười. Tưới tẩm hạt giống hạnh phúc là một thực tập cho những ai đang bị bệnh nguy kịch hay sắp chết.

Khi ông Cấp Cô Độc nở nụ cười, thầy Xá Lợi Phất biết rằng ông Cấp Cô Độc thực tập có thành công và thầy tiếp tục bài tập thiền tập có hướng dẫn. Thầy nói tiếp: “Bây giờ ông hãy thực tập quán chiếu sáu căn. Ông hãy thở theo chánh niệm và thực tập với tôi.” Thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn tiếp:

Con mắt này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào con mắt này.

Cái tai này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào cái tai này.

Cái mũi này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào cái mũi này.

Cái lưỡi này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào cái lưỡi này.

Thân thể này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào thân thể này.

Ý căn này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào ý căn này.

Tôi là sự sống thênh thang.

Sự tàn hoại của thân thể này không phải là sự chấm dứt của tôi.

Tôi không bị giới hạn bởi thân thể này.

Khi một người sắp chết, người ấy có thể đang bị kẹt vào ý tưởng thân thể là chính mình. Người ấy có thể kẹt vào ý tưởng rằng khi thân xác tan rã thì mình cũng tan rã. Chúng ta rất sợ đang có mà trở thành không. Tuy nhiên, sự tan rã của thể xác không làm cho bản chất của người ấy tan rã. Vì thế cho nên phải biết nhìn sâu để thấy rằng thân xác này không chỉ là ta. Sự sống của mỗi chúng ta không có giới hạn.

Tiếp theo Cấp Cô Độc cũng quán chiếu về sáu đối tượng giác quan. Vào lúc hấp hối, chúng ta có thể còn quyến luyến đối tượng của sáu căn là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (sáu trần). Ta cho rằng sáu trần thuộc về ngã. Khi chết, sáu trần không còn nữa thì ngã cũng không còn nữa. Những thực tập sau đây sẽ an ủi rất nhiều cho những ai đang bị bệnh hay đang hấp hối.

Những hình sắc này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào những hình sắc này.

Những âm thanh này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào những âm thanh này.

Những mùi hương này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào những mùi hương này.

Những vị nếm này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào những vị nếm này.

Những xúc chạm này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào những xúc chạm này.

Những ý tưởng này không phải là tôi. Tôi không bị kẹt vào những ý tưởng này.

Cấp Cô Độc quen thân các thầy Xá Lợi Phất và A Nan Đà. Có hai thầy đệ tử lớn của Bụt ngồi cạnh yểm trợ, ông Cấp Cô Độc đã thiền tập rất thành công mặc dầu đang bệnh nặng. Tiếp theo, thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn ông Cấp Cô Độc thực tập về thời gian.

Quá khứ không phải là tôi. Tôi không bị giới hạn bởi thời gian.

Hiện tại không phải là tôi. Tôi không bị giới hạn bởi hiện tại.

Tương lai không phải là tôi. Tôi không bị giới hạn bởi tương lai.

Sau cùng, thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn ông Cấp Cô Độc thực tập về có – không, đến – đi. Đây là những thực tập rất sâu sắc. Thầy Xá Lợi Phất nói: “Này cư sĩ! Các pháp đều do nhân duyên sinh khởi và do nhân duyên mà hoại diệt; thật ra tự tính của các pháp là không sinh cũng không diệt, không tới cũng không đi.”

Nhân duyên đầy đủ thì thân thể biểu hiện. Nó không từ đâu tới hết. Khi nhân duyên không đầy đủ thì ta không cảm nhận được thân thể và ta cho rằng thân thể ta không có. Sự thật là bản chất của vạn sự, vạn vật là không sinh, không diệt.”

Ông Cấp Cô Độc là một hành giả có đủ khả năng. Khi thực tập đến đây, Cấp Cô Độc rất cảm động và cảm thấy trong người nhẹ nhàng, thanh thoát. Ông ta đã tiếp xúc được với tự tính không sinh, không diệt, đã cởi bỏ được ý niệm sống, chết, ý niệm ông chính là hình hài của ông. Ông cũng cởi bỏ được ý niệm về có – không, và nhờ đó ông chứng ngộ được sự không sợ hãi.

Tất cả những gì biểu hiện là sự có mặt của nhiều nguyên nhân. Khi đầy đủ nhân duyên thì thân thể có mặt. Khi nhân duyên không đầy đủ thì thân thể không có mặt. Điều này cũng đúng với mắt, tai, mũi, lưỡi, ý thức,… Ta có thể coi đây là một ý niệm trừu tượng nhưng tất cả chúng ta cũng có khả năng hiểu sâu điều ấy. Phải hiểu rõ bản chất của cái chết mới hiểu được bản chất của sự sống. Nếu không hiểu rõ sự chết thì không hiểu được sự sống.

Giáo lý của Đức Thế Tôn giúp ta giải tỏa những khổ đau. Cội rễ của khổ đau là vì vô minh (ngu tối) không biết rõ bản chất của cái ngã và thế giới quanh ta. Vì không biết nên chúng ta sợ. Sợ đưa đến khổ. Vì vậy, không sợ hãi (vô úy) là món quà quý nhất mà bạn có thể tặng cho chính bạn và cho mọi người.

Thực tập vô úy là một thực tập quan trọng đòi hỏi sự quán chiếu sâu sắc để cởi bỏ nỗi sợ sâu xa trong ta. Nếu bạn không còn sợ hãi thì bạn sẽ được hạnh phúc hơn, sống đời vui tươi hơn và có thể giúp được nhiều người giống như thầy Xá Lợi Phất giúp ông Cấp Cô Độc. Năng lượng của sự không sợ hãi là chìa khóa, là nền tảng tốt nhất cho mọi hoạt động xã hội, hoạt động vì yêu thương để bảo vệ nhân loại, bảo hộ Trái đất, và thỏa mãn nhu cầu thương yêu và phụng sự.

Sống hạnh phúc và chết bình an là điều ta có thể hoàn toàn làm được. Muốn thế chúng ta phải thấy được rằng chúng ta sẽ tiếp tục biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Nếu chúng ta có đủ vững chãi và không sợ hãi thì chúng ta có thể giúp cho những người khác. Rất nhiều người trong chúng ta sợ hãi về sự đoạn diệt. Vì sợ mà khổ. Vì vậy, những người hấp hối cần được hướng dẫn để thấy được rằng chúng ta chỉ là một biểu hiện trong hiện tại và sẽ được tiếp nối dưới rất nhiều những biểu hiện khác nữa trong tương lai. 

Nếu biết cách thực tập và thấu hiểu sự thật của không sinh không diệt, rằng đến đi chỉ là những ý niệm và nếu chúng ta bình an, vững chãi, ta có thể giúp những người hấp hối vượt qua nỗi sợ hãi và khổ đau. Chúng ta có thể giúp những vị ấy ra đi bình an. Bản thân chúng ta sống không còn sợ hãi và chết được bình an khi chúng ta hiểu rằng không có chết đi mà chỉ có sự ẩn tàng và biểu hiện. Trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, ông Cấp Cô Độc đã nhận được một món quà quý báu là sự vô úy và ông ta đã từ giã cõi trần một cách đẹp đẽ, bình an, không còn đau nhức.

Không đến, không đi

Nỗi sợ lớn nhất là sợ khi chết thì ta sẽ không còn là gì hết. Nhiều người tin rằng cuộc sống chỉ được giới hạn trong một khoảng thời gian mà ta gọi là “mạng sống”. Mạng sống bắt đầu khi ta sinh ra – lúc mà ta từ “không là gì” trở thành “một cái gì” – và chấm dứt khi ta chết, trở thành “không là gì” như trước. Cho nên, chúng ta sợ, sợ bị hủy diệt.

Nhưng nếu quán chiếu cho sâu thì ta sẽ có một nhận thức rất khác về sự sống. Ta có thể nhận ra rằng sinh ra và chết đi chỉ là những ý niệm. Bụt dạy: “Không sinh cũng không diệt.” Khái niệm sinh ra và chết đi chỉ là một vọng tưởng gây nên khổ đau rất lớn. Khi hiểu rằng ta không thể bị hoại diệt thì ta sẽ thoát khỏi nỗi sợ, ta sẽ cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm và có thể sống đời yên vui.

Ngày mẹ tôi mất, tôi đã vô cùng đau khổ, tôi ghi vào nhật ký: “Tai nạn lớn nhất đã xảy ra cho tôi rồi.” Tôi thương nhớ mẹ tôi suốt một năm trời. Rồi một đêm, tôi nằm mơ thấy mẹ. Hồi đó, tôi sống trên miền cao nguyên và ngủ trong một cái thất trên lưng đồi chè đằng sau chùa. Tôi nằm mơ thấy tôi ngồi nói chuyện với mẹ tôi. Mẹ tôi trông rất trẻ đẹp, mái tóc xõa ngang vai. Tôi cảm thấy rất vui và nói chuyện với mẹ tôi như thể bà chưa hề mất đi.

Khi tỉnh dậy, tôi có cảm giác rất rõ như mình chưa bao giờ mất mẹ. Cảm giác mẹ tôi vẫn còn đó với tôi rất rõ rệt. Khi đó, tôi đã hiểu rằng “mất mẹ” chỉ là một ý niệm. Rõ ràng là khi ấy mẹ tôi vẫn còn sống trong tôi và mãi mãi sẽ còn sống trong tôi.

Tôi mở cửa bước ra ngoài. Ngọn đồi sáng đầy ánh trăng. Tôi đi dưới ánh trăng đêm giữa những hàng cây trà. Tôi cảm nhận rằng lúc đó mẹ tôi vẫn gần bên tôi. Mẹ tôi là ánh trăng ôm ấp tôi như bao lần với yêu thương, dịu hiền. Mỗi bước tôi đi, tôi thấy rõ là mẹ tôi còn đó với tôi. Tôi thấy rằng thân xác tôi không chỉ là của tôi mà là một dòng tiếp nối sống động của cha mẹ, ông bà và tổ tiên nhiều đời của tôi. Bước chân này không phải là bước chân của riêng tôi mà là bước chân của bao nhiêu người. Tôi và mẹ tôi đang cùng đặt chân lên đồi trà đêm khuya.

Kể từ đó, ý nghĩ rằng tôi đã mất mẹ biến mất trong tôi. Tôi chỉ nhìn hai bàn tay tôi, nhìn bước chân tôi, nghe làn gió nhẹ trên mặt là tôi nhớ lại rằng mẹ tôi vẫn còn đó với tôi.

Khi mất đi một người thương, bạn sẽ đau khổ. Nhưng nếu biết quán chiếu, nhìn sâu thì bạn sẽ thấy rõ rằng bản chất của người thương của bạn là không sinh, không diệt. Sinh là biểu hiện, chết là chấm dứt một sự biểu hiện để rồi khởi đầu cho một biểu hiện khác. Phải tỉnh thức lắm mới nhận ra biểu hiện của một ai đó. Nhưng với nỗ lực và sự thực tập, bạn có thể nhận ra. Hãy nhìn ra vũ trụ xung quanh, nhìn lá cây, ngọn cỏ, nụ hoa, nhìn cánh chim bay và hạt mưa rơi. Nếu dừng lại và nhìn sâu, bạn sẽ thấy người thương của bạn hôm nay và ngày mai dưới rất nhiều hình thức. Bạn sẽ thoát khỏi buồn đau và trở lại đời sống an vui.

Trong hiện tại không có sợ hãi

Khi không có mặt với hiện tại, bạn không thực sự sống. Bạn không có mặt lúc đó, cho bạn và cho người thương. Nếu ta không có mặt tại đó thì ta ở đâu? Chúng ta chạy lòng vòng không dứt, ngay cả khi ta ngủ. Chúng ta chạy quanh vì chúng ta muốn thoát khỏi sợ hãi.

Hao phí thì giờ và năng lực vì thắc mắc quá khứ và lo lắng tương lai thì không thể vui sống. Luôn luôn lo sợ thì sẽ quên đi một sự thật mầu nhiệm là ta còn đang sống và có thể sống hạnh phúc ngay trong hiện tại. Trong cuộc sống bình thường, chúng ta có xu hướng tin rằng hạnh phúc chỉ có thể có trong tương lai và luôn luôn tìm cho ra những điều kiện khả dĩ làm cho ta hạnh phúc. Chúng ta không quan tâm đến những gì đang xảy ra trước mắt. Chúng ta cố tìm cho ra những điều kiện giúp ta vững chãi hơn, an toàn hơn. Nhưng rồi chúng ta luôn luôn lo sợ những việc có thể xảy ra trong tương lai. Chúng ta sợ bị mất việc làm, mất của cải, mất người thương. Vì thế chúng ta cố chờ đợi và hy vọng một dịp may mầu nhiệm – luôn luôn là một điều gì đó trong tương lai – để được sống đời như ý muốn. Chúng ta quên đi rằng sự sống chỉ có mặt trong giờ phút hiện tại. Đức Thế Tôn dạy: “Chúng ta có thể sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Hiện tại là thời gian duy nhất có đó cho ta.”

Kho tàng chôn sâu

Trong Kinh Thánh có câu chuyện một người nông dân tìm được một kho báu chôn trong thửa ruộng của ông ta. Về nhà ông ta cho hết của cải và thửa ruộng của ông ta, chỉ giữ lại mảnh ruộng nhỏ có kho báu. Kho báu đó là Nước Chúa. Chúng ta biết rằng chúng ta chỉ có thể tìm thấy Nước Chúa trong hiện tại, bởi vì chỉ có hiện tại là hiện hữu. Quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa tới. Vậy thì nếu muốn tìm về Nước Chúa, về cõi Tịnh Độ, nơi mà bạn tin là bạn sẽ tìm thấy hạnh phúc, đó chỉ có thể là nơi hiện tại. Thật đơn giản và rõ ràng. Nhưng bởi vì chúng ta có xu hướng quay về quá khứ hoặc tìm tới tương lai, chúng ta phải thừa nhận đó là một thói quen và phải học cách chấm dứt thói quen ấy để có thể an trú trong hiện tại.

Có lần một đoàn các thương gia đến gặp Bụt. Bụt đã dạy họ là “vui hưởng hạnh phúc trong hiện tại” (Hiện Pháp Lạc Trú) là một điều có thể có được. Bụt nhận thấy rằng đa số những thương gia chỉ lo sao cho được thành công và không có khả năng vui hưởng hiện tại. Họ không có thì giờ cho chính họ và gia đình họ. Họ không có thì giờ để thương yêu và làm cho người khác hạnh phúc. Họ luôn luôn bị tương lai cuốn hút.

Tịnh Độ có mặt trong giây phút hiện tại. Tịnh Độ là bây giờ và ở đây. Nước Chúa cũng vậy. Nước Chúa là bây giờ và ở đây. Nước Chúa không phải là một ý niệm. Nước Chúa là sự thật. Khi thở hơi thở chánh niệm, bước một bước chân chánh niệm, bạn “về nhà”, về nơi hiện tại, bạn tiếp xúc với biết bao mầu nhiệm trong bạn và xung quanh bạn, và tất cả những gì thuộc về Nước Chúa. Nếu đã gặp được Nước Chúa thì bạn không còn cần phải chạy theo tiền tài, danh vọng và sắc dục.

Khi ta đã trở về với giây phút hiện tại thì ta biết rằng có biết bao điều kiện của hạnh phúc sẵn có và không cần phải đeo đuổi xa vời. Chúng ta đã có đủ điều kiện để được hạnh phúc. Hạnh phúc ở ngay bây giờ và ở đây.

Giáo lý sống hạnh phúc trong hiện tại do Đức Thế Tôn giảng dạy là một giáo lý dễ chịu. Và phép thực tập cũng rất dễ chịu. Cùng nhau leo đồi không chút mệt nhọc, cùng nhau thưởng thức từng bước chân đi. Bước những bước như thế chúng ta không còn bị quá khứ hay tương lai ràng buộc. Chúng ta tự do đặt chân trên Nước Chúa, trong cõi Tịnh Độ với từng bước chân.

Bây giờ và ở đây

Đã về, đã tới

Bây giờ, ở đây

Vững chãi thảnh thơi

Quay về nương tựa.

Khi trở về với hiện tại, bây giờ và ở đây, chúng ta nhận ra nhiều điều kiện của hạnh phúc đang sẵn có. Thực tập chánh niệm là thực tập quay về bây giờ và ở đây, để tiếp xúc sâu sắc với chính mình và với sự sống. Chúng ta phải tập cho được điều đó. Mặc dầu chúng ta rất thông minh và có thể hiểu rõ pháp môn này mau chóng, chúng ta cũng phải thực tập để thực sự sống theo chánh niệm. Chúng ta phải thực tập để nhận diện bao nhiêu điều kiện hạnh phúc đang sẵn có.

Bạn có thể đọc thầm thi kệ trên khi thở vào, thở ra. Bạn cũng có thể đọc thầm bài kệ này khi lái xe. Bạn có thể chưa tới văn phòng làm việc, nhưng ngay khi đang lái xe, bạn đã thực sự “về nhà”, về với bây giờ và ở đây. Khi bạn về đến văn phòng thì văn phòng cũng là “nhà” của bạn. Tại văn phòng, bạn cũng an trú bây giờ và ở đây. Chỉ cần thực tập câu thứ nhất “Tôi đã về, tôi đã tới” cũng đủ đem lại cho bạn rất nhiều hạnh phúc. Dù cho bạn đang đi, đang ngồi, đang tưới rau hay đang trông con, luôn luôn bạn có thể thực tập “Tôi đã về, tôi đã tới”, tôi đã rong ruổi suốt đời. Nay tôi sẽ không rong ruổi nữa, tôi quyết định dừng lại và thực sự sống đời tôi.

Khi thở vào và đọc câu “Tôi đã tới” và thực sự “tới” thì đó là thành công. Thực sự có mặt, một trăm phần trăm có mặt là một thành quả đích thực. Giây phút hiện tại là ngôi nhà thực sự của chúng ta. Khi thở ra và nói thầm “Tôi đã tới”, tôi cảm thấy tôi thực sự đã về tới nhà (đang ở nhà) và không còn phải sợ hãi. Tôi không phải rong ruổi nữa.

Chúng ta phải lặp đi lặp lại câu chú “Tôi đã về, tôi đã tới” cho đến khi cảm nhận đó là sự thật. Tiếp tục thở vào, thở ra và bước đi trong chánh niệm cho đến khi ta cảm thấy đang thực sự an trú trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Những chữ trong bài kệ không gây trở ngại mà chỉ để giúp bạn chú tâm và giữ mãi tuệ giác. Chính tuệ giác giúp bạn “tới nhà” chứ không phải những chữ của bài thi kệ.

Hai mặt của thực tại

Nếu bạn an trú thành công trong bây giờ và ở đây, bạn sẽ đạt được vững chãi và tự do, nền tảng của hạnh phúc. Nhờ đó, bạn có thể nhận ra hai mặt của thực tại: tích môn và bản môn (historical dimension and ultimate dimension).

Một ví dụ về tích môn và bản môn là hình ảnh của sóng và nước. Nhìn đợt sóng ta thấy sóng có bắt đầu và có chấm dứt, có khi cao, có khi thấp so với các đợt sóng khác, có khi đẹp có khi không được đẹp. Đợt sóng có thể có đó hay không có đó, có bây giờ hay sau này. Tất cả những ý niệm trên là do khi ta nhìn thực tại dưới khía cạnh của tích môn, của sinh – tử, của có – không, đến – đi, cao – thấp… Nhưng ta biết rằng khi tiếp xúc đợt sóng sâu sắc hơn, ta sẽ thấy nước. Nước là một khía cạnh khác của đợt sóng, khía cạnh bản môn.

Nói về tích môn là nói về sinh – tử, có – không, đến – đi, nhưng dưới ánh sáng của bản môn thì không còn những ý niệm về sinh – tử, có – không, đến – đi nữa. Nếu sóng có thể tiếp xúc với nước trong tự thân cùng lúc thì sóng sẽ không còn sợ hãi vì những ý niệm sinh – tử, có – không, đến – đi… nữa, sóng sẽ đạt được vô úy – không sợ hãi, vững chãi và an vui. Bản chất của đợt sóng là không sinh, không diệt, không trước, không sau. Đó cũng chính là bản chất của nước.

Tất cả chúng ta đều như đợt sóng. Chúng ta có khía cạnh tích môn. Có khi ta nói đến một thời điểm để bắt đầu, và một thời điểm để chấm dứt. Ta tin rằng lúc này ta đang thực sự có, và trước khi được sinh ra ta không là gì cả. Chúng ta bị kẹt trong ý niệm đó, và vì thế chúng ta sợ, chúng ta ganh tị, chúng ta tham luyến và bao nhiêu mâu thuẫn, phiền não trong ta. Bây giờ nếu ta có khả năng trở về nhà, vững chãi và tự do thì chúng ta có thể tiếp xúc với bản môn của bản thân chúng ta. Tiếp xúc với ta trong bản môn sẽ giải thoát khỏi mọi ý niệm đã gây đau khổ cho ta. 

Trong tích môn ta thấy có sinh, có tử, có già, nhưng trong bản môn, sinh tử không phải là bản tính của vạn vật. Bản chất của vạn vật vốn không bị ràng buộc bởi sinh tử (không có sống, chết). Bước thứ nhất là thực tập trong tích môn, và bước thứ hai là thực tập trong bản môn. Trong tích môn, chúng ta chấp nhận là có sống, có chết, nhưng trong bước thứ hai, vì chúng ta đã tiếp xúc được với bản môn nên ta khám phá ra rằng sống và chết chỉ là những ý niệm mà không phải là sự thật tuyệt đối. Nhờ tiếp xúc với bản môn mà ta có thể tiếp xúc được với thực tại vốn không sinh, không diệt.

Thực tập trong tích môn rất quan trọng để ta có thể thành công khi thực tập trong bản môn. Thực tập trong bản môn nghĩa là có thể tiếp xúc được với tự tính không sinh, không diệt, cũng giống như đợt sóng tiếp xúc được với nước. Chúng ta có thể nêu lên một câu hỏi để làm ví dụ: “Đợt sóng từ đâu tới và sẽ đi về đâu?” Chúng ta có thể trả lời tương tự: “Đợt sóng đến từ nước và trở về với nước”. Tuy nhiên, trong thực tế, không có “đến”, không có “đi”. Sóng luôn luôn là nước, không từ nước mà đến và không đi về đâu hết. Sóng luôn luôn là nước, đến đi chỉ là những sáng tạo của tâm thức. Sóng không bao giờ rời nước, cho nên nói rằng “sóng đến từ nước” là không đúng. Vì sóng luôn luôn là nước, chúng ta không thể nói sóng “trở về với nước”. Ngay khi đợt sóng thành sóng thì sóng đã là nước. Cho nên sống – chết, đến – đi chỉ là những khái niệm. Khi tiếp xúc được với bản tính không sinh, không diệt, ta không còn sợ hãi.

Bản tính của không sinh, không diệt

Đám mây không thể biến thành hư vô. Mây có thể biến thành mưa, thành tuyết, nhưng mây không thể trở thành “không là gì cả”. Thế cho nên ý kiến cho rằng có hủy diệt (annihilation) là một tà kiến (ý kiến sai lầm). Nếu bạn là một nhà khoa học mà bạn nghĩ rằng sau khi thân xác tan rã thì ta không còn đó nữa – bạn trở thành hư vô, từ có thành không có – thì bạn sai lầm vì bằng chứng cho thấy rõ sự thực trái ngược điều bạn tin.

Vậy thì sinh và diệt chỉ là một cặp khái niệm, cũng như đến và đi, thường và vô thường, ta và người. Đám mây trên trời là một biểu hiện. Trước khi thành đám mây, mây là hơi nước bốc từ dòng sông hay biển cả dưới sức nóng của mặt trời. Chúng ta có thể coi hơi nước là kiếp trước của mây. Mây không đến từ hư không. Mây phải đến từ một vật thể là hơi nước. Vậy thì không có sinh ra mà chỉ có tiếp nối.

Nhà khoa học thế kỷ thứ mười tám của Pháp, Antoine Lavoisier đã từng nói: “Không có gì sinh ra, không có gì mất đi”. Lavoisier đã thấy sự thật như Bụt đã từng thấy. Bản tính của chúng ta là không sinh cũng không diệt. Chỉ khi tiếp xúc với bản môn, ta mới vượt thoát nỗi sợ về hư vô, hoại diệt.

Khi có đủ nhân duyên thì sự vật sẽ biểu hiện và ta gọi đó là “có”. Khi (một hay nhiều) nhân duyên không đầy đủ thì sự vật không biểu hiện và ta gọi đó là “không có”. Gọi một sự vật là có hay không có là không đúng. Thật ra, không có gì hoàn toàn có hay hoàn toàn không.

Không đến, không đi

Ý niệm sinh và tử, đến và đi đã gây cho hầu hết chúng ta rất nhiều khổ đau. Chúng ta nghĩ rằng người ta thương đến từ một nơi nào đó rồi sẽ đi về một nơi nào đó. Nhưng bản chất của chúng ta là không đến và không đi. Khi đầy đủ nhân duyên, chúng ta biểu hiện dưới một hình thức nào đó. Khi nhân duyên không đầy đủ thì ta không biểu hiện dưới một hình thức khác. Điều này không có nghĩa là chúng ta “không có”. Sở dĩ chúng ta sợ chết là vì ta không hiểu rằng mọi sự vật không thể nào chết đi. 

Người đời thường có xu hướng muốn loại bỏ những gì mà họ không muốn: Họ đốt phá hàng xóm, họ giết người. Tuy nhiên, giết đi một người không có nghĩa là người ấy bị hoàn toàn hủy diệt. Họ giết Thánh Mahatma Gandhi. Họ giết Martin Luther King Jr. Nhưng những vị ấy vẫn còn đó với chúng ta ngày hôm nay. Họ vẫn tiếp tục có mặt dưới nhiều hình thức. Lý tưởng của họ vẫn tiếp tục. Do đó, khi nhìn sâu vào bản thân – hình hài, cảm thọ và tâm ý – khi nhìn sâu núi đồi, sông nước hay một người nào khác, chúng ta có thể nhận ra và tiếp xúc với bản tính không sinh, không diệt của họ. Đây là một thực tập tối quan trọng của truyền thống Phật giáo.

Vô thường

Theo tuệ giác đạo Bụt, ý niệm về bất tử hay thường còn là một ý niệm sai lầm. Tất cả mọi sự mọi vật đều vô thường, luôn luôn biến đổi. Không có gì có thể giữ nguyên một tình trạng mãi mãi. Cho nên bản tính của vạn sự, vạn vật là vô thường. Một ý niệm sai lầm khác là cho rằng khi ta chết, ta không còn là gì hết. Bất diệt và hủy diệt là một cặp ý niệm đối nghịch. Ý niệm “luôn luôn thường còn” (bất diệt) là sai lầm mà ý niệm “sẽ không còn gì” (hủy diệt) cũng sai lầm.

Lấy ví dụ khi ta nói về cái chết của một đám mây. Nhìn lên trời, bạn không còn thấy đám mây đẹp của ngày hôm qua và bạn buồn khổ: “Ôi, đám mây thân yêu của tôi đã không còn nữa!” Bạn buồn khổ vì bạn nghĩ rằng đám mây đã từ tình trạng “có” và biến thành “không”, từ hiện hữu đã biến thành hủy diệt.

Nhưng sự thật là đám mây không thể chết được. Chết có nghĩa đang là “một cái gì” rồi biến thành “không là gì cả”, đang là một người mà thành không là người nào cả. Nhưng chúng ta đã thấy rằng sự thật không phải như thế. Vì thế ta không nên chúc mừng “ngày sinh nhật” mà nên chúc mừng “ngày tiếp nối”. Ngày bạn sinh ra không phải là ngày ta bắt đầu mà là ngày tiếp nối của bạn. Bạn đã có mặt dưới một hình thái khác trước khi được sinh ra.

Hãy nhìn một tờ giấy. Trước khi thành tờ giấy, nó đã là nhiều cái khác. Nhìn tờ giấy, ta thấy cây làm nên bột giấy, đất mầm nuôi cây, mặt trời, hạt mưa, đám mây… cùng góp mặt tạo nên tờ giấy. Chúng ta thấy nhiều “kiếp trước” của tờ giấy. Tờ giấy chỉ là một biểu hiện mới mà không phải là được sinh ra. Ta nói bản chất của tờ giấy là không sinh, không diệt.

Tờ giấy không thể nào chết được. Nếu ta đốt một tờ giấy, tờ giấy sẽ biến thành tro, thành khói và sức nóng. Tờ giấy đã tiếp tục dưới nhiều hình thái khác. Vậy cho nên nói rằng một vật khi bị tan rã sẽ trở thành hư vô là sai lầm, là chấp vào ý niệm hủy diệt.

Nếu bạn bị mất đi một người thương và bạn đau buồn thì bạn phải xét lại. Người ấy đang còn tiếp tục ở đâu đó. Và ta có thể giúp người ấy tiếp tục một cách tốt đẹp hơn. Người ấy vẫn còn đó gần ta và trong ta. Nhận thức như thế ta có thể tìm thấy người ấy trong nhiều hình thái. Cũng như khi uống một tách trà trong chánh niệm, ta có thể nhìn thấy đám mây trong tách trà. Bạn không bao giờ mất đi người thương của bạn. Người ấy chỉ thay đổi hình thái.

Nhờ nhận thức được như thế mà ta có thể vượt qua được đau buồn, tiếc nuối. Chúng ta nghĩ rằng người ta thương đã ra đi vĩnh viễn, nhưng sự thật là người ấy vẫn còn đó, đã thay đổi thành một hình thái khác. Chúng ta phải thực tập nhìn sâu và nhận cho ra sự tiếp nối của người thương để ôm ấp, hỗ trợ. “Em ơi, anh biết em vẫn còn đâu đó, rất gần bên anh. Anh đang thở cho em. Anh ngắm nhìn cảnh đẹp xung quanh cho em. Anh sống vui với đời cho em. Anh biết rằng em vẫn còn đó rất gần anh và ở trong anh.” Như thế chúng ta đã chuyển hóa được đau buồn, sợ hãi nhờ tuệ giác giải thoát ấy.

Khi ta vượt thoát được ý niệm có sinh, có tử, ta sẽ không còn bị sợ hãi khống chế. Ý niệm có – không có thể tạo nên rất nhiều đau khổ. Khi đám mây biến mất trên trời, đám mây không từ có biến thành không. Bản chất của mây là không sinh, không diệt. Bản chất của người thương của bạn và của chính bạn cũng không sinh, không diệt. 

Trân quý nơi đây

Hãy tưởng tượng có hai phi hành gia đang ở trên mặt trăng thì phi thuyền bị hỏng và họ không có khả năng trở về Trái đất. Họ chỉ có khí oxy cho hai ngày. Không có phi thuyền được phóng lên từ Trái đất để cứu họ. Hai phi hành gia chỉ có thể sống được hai ngày nữa. 

Nếu khi ấy bạn hỏi họ: “Ước mong sâu xa của quý vị lúc này là gì?” thì câu trả lời của họ rằng họ chỉ mong ước một điều là “được trở về để đặt chân trên mặt địa cầu xinh đẹp”. Chỉ có chừng đó thôi. Họ không có ước mong nào khác. Họ không muốn được danh tiếng, được làm giám đốc của một công ty to lớn hay là tổng thống của Hoa Kỳ. Họ không muốn gì hơn là được trở về Trái đất, hạnh phúc trong từng bước chân, tai nghe tiếng gió, tiếng chim, được nắm tay những người thân yêu cùng ngắm ánh trăng vàng.

Chúng ta nên sống đời sống mỗi ngày như phi hành gia được cứu thoát trở về Trái đất sau tai nạn trên mặt trăng. Tất cả chúng ta hiện ở trên mặt địa cầu và phải biết thưởng thức những bước chân đi trên hành tinh xinh đẹp này. Thiền sư Lâm Tế có nói: “Phép lạ là không phải đi trên lửa mà là đi trên đất” (Địa Hành Thần Thông). Tôi trân quý lời dạy ấy của thiền sư Lâm Tế. Tôi luôn luôn vui trong từng bước chân, ngay cả những nơi rộn ràng như sân bay hay nhà ga. Bước những bước như thể ta nâng niu Đất Mẹ, ta có thể gây cảm hứng cho những người khác cũng bước như ta và sống thảnh thơi trong từng giây phút.

Tìm nơi vững chãi

Vì sợ hãi mà chúng ta đánh mất chính mình trong cuộc sống hằng ngày. Thân một nơi mà tâm một ngả. Đôi khi ta đắm mình trong một cuốn sách. Cuốn sách cuốn hút, tách ta ra khỏi thân xác và thực tại hiện tiền. Ngay khi rời khỏi cuốn sách, ta lại tiếp tục bị cuốn đi bởi những lo lắng, sợ hãi. Rất hiếm khi ta biết trở về với tự thân, nơi an bình, trong sáng, về với Phật tính trong ta để được gần gũi với Đất Mẹ.

Nhiều người quên đi rằng họ có một cơ thể. Họ sống trong thế giới ảo tưởng. Họ bận tâm với biết bao dự án, bao nhiêu lo lắng, bao nhiêu quay cuồng, mộng tưởng. Họ không sống với thể xác của họ. Vì bị kẹt trong lo lắng, vì phải loay hoay tìm đường để thoát khỏi lo sợ, chúng ta không còn khả năng cảm nhận những vẻ đẹp mầu nhiệm mà Đất Mẹ ban tặng. Chánh niệm nhắc ta trở về với hơi thở vào, là một với hơi thở vào, về với hơi thở ra, là một với hơi thở ra. Hãy trở về với tự thân, trở về với giây phút hiện tại. Hãy chăm chú ngắm nhìn những mầu nhiệm ngay trước mắt. Đất Mẹ đẹp đẽ biết bao, rộng lượng biết bao và nâng đỡ chúng ta biết bao. Thân thể ta là một mầu nhiệm. Khi thực tập và vững chãi an trú như đất, chúng ta có thể đối diện trực tiếp với khó khăn và khó khăn sẽ bắt đầu tan biến.

Thực tập: thở trong giây phút hiện tại

Mời bạn dành một chút thì giờ để thưởng thức một thực tập đơn giản về hơi thở chánh niệm. “Thở vào, tôi biết là tôi đang thở vào. Thở ra, tôi biết là tôi đang thở ra.” Nếu bạn thực tập như thế với một chút chú tâm thì bạn có thể thực sự trở về với bây giờ và ở đây. Ngay giây phút mà bạn thực tập hơi thở chánh niệm, thân và tâm của bạn sẽ hợp làm một (thân tâm nhất như). Chỉ cần 10 hay 20 giây đồng hồ để đạt được phép mầu của thân tâm hợp nhất bây giờ và ở đây. Ai cũng có thể thực tập như thế, kể cả các em nhỏ. Đức Thế Tôn đã từng dạy: “Quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa tới. Chỉ có một giây phút mà ta thực sự sống, đó là giây phút hiện tại.” Thiền tập với hơi thở chánh niệm là đem thân và tâm trở về với giây phút hiện tại để không lỡ hẹn với sự sống.

Giải tỏa nỗi sợ tương lai

Năm phép quán tưởng

Ngoài thói quen nghiền ngẫm quá khứ, chúng ta thường hay lo lắng về tương lai. Sợ chết là một nỗi sợ lớn nhất. Khi ta nhìn thẳng vào nỗi sợ chết mà không tìm cách che lấp là ta đã bắt đầu chuyển hóa nỗi sợ ấy. Một trong những phương pháp có hiệu lực nhất là thực tập Năm Phép Quán Tưởng:

Tôi thế nào cũng phải già. Tôi không thể nào tránh khỏi cái già.

Tôi thế nào cũng phải bệnh. Tôi không thể nào tránh khỏi cái bệnh.

Tôi thế nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh khỏi cái chết.

Tất cả những người tôi thương yêu và tất cả những gì tôi trân quý hôm nay một mai tôi phải xa lìa và buông bỏ. Tôi không thể nào tránh thoát được sự xa lìa và buông bỏ ấy.

Tôi là kẻ thừa tự những nghiệp quả do thân, miệng, ý của tôi tạo nên. Những nghiệp quả ấy là cái duy nhất tôi có thể mang theo với tôi sau này.

Hãy quán chiếu sâu sắc và chú tâm vào mỗi lời quán tưởng, đồng thời theo dõi hơi thở. Hãy đối diện nỗi sợ một cách dũng mãnh.

  • Tôi thế nào cũng phải già. Tôi không thể nào tránh khỏi cái già.

Đây là quán tưởng thứ nhất. Chúng ta ai cũng sợ già. Chúng ta không muốn nghĩ tới cảnh già. Chúng ta đè nén nỗi sợ, đưa nó vào quên lãng. Lời quán tưởng này có trong phẩm 70-71 của kinh Tăng Chi Bộ. Chắc chắn tôi sẽ phải già. Đây là một sự thật phổ quát mà không ai có thể tránh được. Phần đông chúng ta không chấp nhận điều đó và không ít thì nhiều muốn chối bỏ. Nhưng từ sâu thẳm của tâm thức, ta biết đó là sự thật. Mỗi khi đè nén nỗi sợ đó, chúng ta tiếp tục nuôi dưỡng nó trong tiềm thức sâu kín. Rồi chúng ta đi tìm quên lãng (bằng ăn uống, rượu chè, hát xướng) để cho nỗi sợ không phát hiện lên bề mặt của tâm thức. Tránh né nỗi sợ cuối cùng chỉ gây đau khổ cho ta và cho người khác, đồng thời làm cho nỗi khổ càng ngày càng lớn mạnh.

Chúng ta phải chấp nhận nỗi sợ này như là một sự thật chứ không phải chỉ là một lẽ đương nhiên. Đọc lên lời quán tưởng này không phải chỉ đọc suông một lời tuyên bố mà là một cơ hội để chứng nghiệm trực tiếp. Hãy dành một vài phút để cho lời quán tưởng thấm vào xương, vào thịt. Không nên chỉ chấp nhận như là một kiến thức (“Biết rồi! Hôm nay tôi còn trẻ, mai kia tôi sẽ già”). Đó chỉ là một khái niệm trừu tượng không giúp ích được gì, nhất là trong khi bạn đang cố tâm đè nén nỗi sợ đó ngay sau khi đọc xong lời quán tưởng.

Đức Thế Tôn dạy rằng khi chúng ta đưa nỗi sợ lên vùng ý thức và quán chiếu một sự thật là ta không thoát được cảnh già, cảnh chết thì nỗi sợ hãi sẽ dần tan biến. Chúng ta không nên hành động một cách vô thức vì sợ hãi và kéo dài vòng luẩn quẩn khiến sợ hãi càng thêm trầm trọng.

  • Tôi thế nào cũng bị bệnh. Tôi không thể nào thoát khỏi cái bệnh.

Lời quán tưởng thứ hai công nhận sự thật phổ quát về bệnh: “Thở vào, tôi biết là thế nào tôi cũng bị bệnh. Thở ra, tôi biết là tôi không thể thoát khỏi bệnh.” Thái tử Tất Đạt Đa – tên của Bụt khi chưa thành đạo – có sức lực cường tráng nhất trong thành Ca-tỳ-la-vệ. Ngài luôn đoạt giải trong các kỳ thi đấu võ và tất cả mọi người trong triều, kể cả người em họ là Đề Bà Đạt Đa, đều khâm phục và ghen tức. Lẽ tất nhiên thái tử Tất Đạt Đa cũng hãnh diện về thành tích của mình. Nhưng nhờ thiền tập và nhìn sâu, Ngài đã ý thức về tính kiêu hãnh đó và Ngài đã tỉnh ngộ.

Khi không tật bệnh, ta thường nghĩ rằng bệnh tật là chuyện của người khác. Chúng ta có thái độ coi thường những người oèo oặt, yếu đuối, tự cho mình là không như họ. 

Nhưng một ngày kia thế nào ta cũng bị bệnh. Nếu chúng ta không thường xuyên quán chiếu sự thật ấy ngay lúc chưa bệnh thì đến khi lâm bệnh, ta khó mà chịu đựng, đối phó. Chân vẫn mạnh, tay vẫn khỏe, nhưng phần đông chúng ta không lợi dụng lúc đang còn mạnh khỏe để săn sóc sức khỏe của mình và những người khác. Chúng ta không để hết sức lực để thực tập, cải thiện sức khỏe và giúp người khác cải thiện sức khỏe.

Một ngày nào đó, ta sẽ ngã bệnh, nằm liệt giường, không thể bước được một bước. Vì thế ta phải thấy rõ, ngay trong hiện tại, đã mang thân xác này thì không thể nào không bị bệnh. Thấy được như thế, ta không còn tự hào về sức khỏe của mình nữa. Ta sẽ lợi dụng lúc ta còn có thì giờ và năng lực để chăm sóc cơ thể và không bị chôn vùi trong những thú vui vô bổ có thể tàn hoại cơ thể chúng ta.

  • Tôi thế nào cũng chết. Tôi không thể nào thoát khỏi cái chết.

Đây là lời quán tưởng thứ ba: “Thở vào, tôi biết thế nào tôi cũng chết. Thở ra, tôi biết là tôi không thể thoát khỏi cái chết”. Đó là một sự thật mà chúng ta không muốn đối diện. Ta muốn sự thật ấy khuất mắt vì ta sợ. Ta không thể chịu được khi phải nhìn sâu vào cái chết. Nhưng chết là một sự thật. Tiềm thức ta chối bỏ sự thật đó vì mỗi khi nhớ đến, nếu không đủ năng lượng của chánh niệm thì ta sẽ khổ. Bản năng đối kháng khiến ta cố quên đi sự thật ấy. Nhưng trong sâu thẳm của tâm thức, nỗi sợ về cái chết vẫn còn đó, dằn vặt ta.

Nếu tỉnh ngộ được sự thật là một ngày nào đó ta sẽ chết, có lẽ sớm hơn ta tưởng, thì ta sẽ không dại dột hành động điên rồ, mơ tưởng hão huyền là ta sẽ sống mãi với đời. Quán chiếu về cái chết sẽ giúp ta dốc lòng tu tập để chuyển hóa và chữa trị thân tâm cho ta và cho những người khác.

  • Tất cả những gì ta trân quý hôm nay, tất cả những người ta thương thế nào cũng theo luật vô thường. Ta không tránh khỏi một ngày phải buông bỏ tất cả.

Đây là lời quán tưởng thứ tư: “Thở vào, tôi biết là sẽ có ngày tôi phải buông bỏ tất cả những gì mà tôi trân quý, yêu thương. Thở ra, không thể nào tôi có thể mang những thứ ấy theo tôi mãi mãi.” Tất cả những gì mà tôi trân quý, tài khoản ngân hàng, nhà cửa, vợ chồng, người thương, con cái, tôi đều phải từ bỏ. Khi chết, tôi không mang theo được gì hết. Đây là một sự thật khoa học. Ấy vậy mà ngày này qua ngày khác, ta tìm mọi cách để tích lũy tiền tài, danh vọng, kiến thức và bao thứ khác. Cả đến khi bảy mươi, tám mươi tuổi, ta vẫn tiếp tục tích lũy. Chúng ta biết rất rõ là có ngày ta phải buông bỏ tất cả. Vì vậy, một thực tập của các vị xuất gia là không cất giữ bất cứ thứ gì. Đức Bụt khuyên các đệ tử của Ngài chỉ nên có ba chiếc áo, một chiếc bình bát, một cái dụng cụ lọc nước và một tấm vải tọa cụ và phải sẵn sàng buông bỏ cả những thứ đó. Bụt thường khuyên các đệ tử không nên quyến luyến, ham thích một gốc cây mà mình đã ngồi thiền hay nghỉ qua đêm. Các vị ngồi thiền tập và ngủ dưới bất cứ một thân cây nào. Hạnh phúc không tùy thuộc nơi chỗ ngồi.

Nếu chúng ta thực tập và có thể buông bỏ thì chúng ta sẽ có tự do và hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Nếu không buông bỏ được thì không chỉ ta sẽ phải đau khổ vào thời khắc ta buộc phải xa lìa tất cả mà ta sẽ đau khổ ngay ngày hôm nay vì ám ảnh của nỗi sợ bị mất đi mãi mãi. Có nhiều người tuy già mà vẫn tham lam, keo kiệt – như nhân vật Scrooge trong cuốn phim phỏng theo truyện của Charles Dicken – không bao giờ muốn chia sẻ với ai một thứ gì. Thật đáng hổ thẹn. Chẳng phải là vì họ không biết rằng họ phải buông bỏ tất cả trong một ngày rất gần đây thôi – có thể là vài tháng – mà chỉ vì họ có tập khí là dành cả cuộc đời đeo đuổi hạnh phúc bằng cách ôm giữ.

Có một câu chuyện cổ tích Việt Nam về một ông nhà giàu tên là Thạch Sùng. Ông ta góp nhặt mọi thứ vào kho của mình. Ông tự hào là ông có tất cả những gì mà nhà vua có trong kho. Nhà vua khi biết chuyện đã hỏi Thạch Sùng là ông ta có thật là giàu hơn nhà vua hay không. Thạch Sùng trả lời là ông tin chắc là ông có bất cứ thứ gì mà nhà vua có trong kho; nếu không, ông ta sẽ giao hết tài sản của ông cho nhà vua. Dưới sự quan sát của các vị đại thần trong triều, vua cho kiểm tra kho của Thạch Sùng. Quả nhiên những gì nhà vua có Thạch Sùng cũng có. Tuy nhiên, sau cùng, người ta tìm được trong kho nhà vua một cái nồi bể. Cái nồi này không thể dùng để nấu canh nhưng còn có thể dùng để kho cá. Thạch Sùng thua cuộc và phải giao hết tài sản cho nhà vua. Thạch Sùng chết vì tiếc của và khi chết tái sinh thành con thạch sùng luôn luôn chắt lưỡi tiếc thầm. (Ngạn ngữ Việt Nam: “Thạch sùng chắt lưỡi”)

Chúng ta không muốn như Thạch Sùng chỉ tìm hạnh phúc trong việc tích lũy vật chất.

Đức Thế Tôn một lần khuyên các đệ tử nhìn lên mặt trăng để cảm nhận sự tự do của mặt trăng trên bầu trời thênh thang. Là hành giả, chúng ta phải được tự do như mặt trăng. Nếu chỉ lo tích lũy tiền của, danh vọng, quyền lực, tình ái, chúng ta sẽ mất hết tự do. 

  • Tôi là kẻ thừa tự những nghiệp quả do thân, miệng, ý của tôi tạo nên. Những nghiệp quả ấy là những cái duy nhất tôi mang theo sau này

Lời quán tưởng thứ năm nhắc ta rằng khi chết chỉ có ý nghĩ, lời nói và hành động là vẫn tiếp tục – đó gọi là nghiệp. “Thở vào, tôi biết rằng tôi không thể đem theo gì với tôi ngoại trừ ý nghĩ, lời nói, hành động của tôi. Thở ra, chỉ có nghiệp quả là theo tôi.” Tất cả những thứ khác tôi đều phải để lại đằng sau. 

Nghiệp quả không phải là gia tài tôi thừa hưởng từ cha mẹ mà là kết quả của các hành động của tôi. Những ý nghĩ, lời nói, hành động đó gọi là nghiệp. Nghiệp theo tiếng Sanskrit có nghĩa là hành động. Kết quả của những ý nghĩ, lời nói, hành động của ta sẽ theo ta. Ta không thể mang theo tài sản và người thương, chỉ có nghiệp – kết quả của hành động – là luôn luôn theo ta. Ta không thể nào thoát khỏi nghiệp – Nghiệp mãi mãi theo đuổi ta. Nghiệp là nền tảng mà ta nương tựa. Chúng ta chỉ có một nền tảng để nương tựa. Đó là nghiệp. Chúng ta sẽ chịu lãnh hoa trái của tất cả hành động, thiện hay bất thiện, của ta.

Sử dụng chánh niệm để giải tỏa hạt giống sợ hãi

Thực tập Năm Phép Quán Tưởng giúp chúng ta chấp nhận những nỗi sợ thâm sâu, chấp nhận già, bệnh, chết là những sự thật ta không thể nào thoát khỏi. Khi đã chấp nhận các sự thật ấy thì ta có thể tìm được bình an và có khả năng sống một cuộc sống có ý thức, lành mạnh, thương yêu và không bao giờ gây khổ đau cho mình và cho người khác.

Hãy đem nỗi sợ lên tầng ý thức và mỉm cười với nỗi sợ. Mỗi khi bạn mỉm cười với nỗi sợ thì nỗi sợ sẽ yếu đi một chút. Nếu bạn chạy trốn nỗi sợ thì không có cách nào khác để cứu vãn. Chỉ có cách nhìn sâu vào gốc rễ của sợ hãi thì mới tìm ra giải pháp.

Năm Phép Quán Tưởng đưa chánh niệm tiếp xúc với hạt giống lo sợ. Hạt giống lo sợ có đó trong ta. Nếu ta không thực tập ôm ấp hạt giống lo sợ bằng chánh niệm thì mỗi khi đối diện với sự thật, chúng ta sẽ đau khổ nhiều. Cũng giống như con đà điểu chôn đầu trong cát mỗi khi gặp sư tử, chúng ta tìm giải trí bằng tivi, máy vi tính, trò chơi điện tử, rượu và ma túy để quên đi sự hiện hữu của tuổi già, bệnh, chết và sự vô thường của những gì ta đang trân quý.

Nếu ta cứ mặc cho sợ hãi trấn áp thì chúng ta sẽ tiếp tục đau khổ và hạt giống sợ hãi trong ta càng ngày càng lớn mạnh. Nhưng nếu ta có ý thức, ta sẽ dùng năng lượng chánh niệm để ôm ấp nỗi sợ. Mỗi khi nỗi sợ được ôm ấp thì năng lượng của nỗi sợ sẽ yếu đi trước khi lắng xuống tiềm thức dưới dạng hạt giống.

Tâm thức có thể ví như một vòng tròn mà nửa phần dưới là tàng thức và nửa phần trên là ý thức. Sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ phải buông bỏ, sợ nghiệp báo, tất cả đều được chứa trong tàng thức. Vì không muốn đối diện nỗi sợ cho nên chúng ta muốn khỏa lấp và đưa chúng xuống dưới tàng thức (kho chứa). Chúng ta không muốn ai nhắc ta về những nỗi sợ ấy, chúng ta không muốn đưa chúng lên phần ý thức (phòng khách).

Chánh niệm thì ngược lại. Chánh niệm là việc chúng ta đưa nỗi sợ lên phần ý thức mỗi ngày và nói thầm: “Này nỗi sợ của tôi, tôi không sợ gì hết. Tôi không sợ phải đối diện bạn. Tôi biết thế nào tôi cũng già. Tôi không thể thoát khỏi cảnh già.” Ta ôm ấp nỗi sợ bằng chánh niệm. Như thế ta có hai nguồn năng lượng, năng lượng của nỗi sợ và năng lượng của chánh niệm. Năng lượng của nỗi sợ khi được năng lượng chánh niệm ôm ấp sẽ yếu dần.

Nỗi sợ không biến mất hoàn toàn. Cho nên khi ta có một phút yên tĩnh, một phút thiền định thì hãy đưa nỗi sợ lên phần ý thức: “Này nỗi sợ của ta. Hãy lên đây cùng ta. Ta thế nào cũng chết. Ta không thể nào thoát được cái chết.” Bạn ôm ấp nỗi sợ như thế trong năm, mười, hai mươi hay ba mươi phút bằng năng lượng chánh niệm. Cứ như thế mỗi ngày, nỗi sợ của bạn sẽ yếu dần.

Hòa giải với quá khứ

Nỗi sợ ban sơ không chỉ bắt nguồn từ lúc ta sinh ra hay còn thơ ấu mà còn từ nỗi sợ ban sơ của tổ tiên. Tổ tiên chúng ta đã từng đau khổ vì đói khát hay bệnh hiểm nghèo và có lúc đã trải qua nhiều lo sợ. Trong mỗi chúng ta đều có nỗi sợ đó. Vì lo sợ mà chúng ta tạo rắc rối cho cuộc sống. Chúng ta sợ cho an toàn của bản thân, cho việc làm, cho gia đình. Chúng ta sợ bị đe dọa. Ngay cả khi mọi việc đều êm xuôi, chúng ta cũng vẫn lo sợ.

Có một thanh niên Mỹ đến tu học tại Làng Mai. Trong khóa tu, tôi yêu cầu các thiền sinh viết thư cho cha mẹ dù cha mẹ còn sống hay đã qua đời. Viết thư là một hình thức thiền tập. Người thanh niên này không thể viết bức thư mà tôi yêu cầu. Bởi vì mỗi khi nghĩ tới cha anh thì anh vô cùng đau khổ. Cha anh ta đã qua đời mà anh ta cũng không hòa giải được với ông ấy. Người cha ấy đã từng ngược đãi anh hồi anh còn nhỏ đến nỗi anh ta không dám nghĩ đến ông ta chứ huống chi là viết cho ông ta một bức thư! Vì thế, tôi cho anh thiền sinh một thực tập trong một tuần lễ: “Thở vào, tôi thấy tôi là một em bé năm tuổi. Thở ra, tôi mỉm cười với em bé năm tuổi trong tôi.”

Khi còn là một em bé, dù là trai hay gái, bạn rất yếu đuối, mong manh. Một cái nhìn lạnh lùng của cha anh cũng đủ để gây thương tích trong tim anh. Có đôi lúc anh muốn nói một điều gì với cha anh mà tìm không ra lời khiến cha anh bực mình và mắng: “Mày câm miệng lại”. Đó là một gáo nước lạnh tạt vào tim anh, gây cho anh một vết thương lớn. Từ đó, anh không còn dám nói chuyện với cha anh. Truyền thông giữa cha anh và anh trở nên rất khó khăn. “Thở vào, tôi thấy tôi là một em bé năm tuổi. Thở ra, tôi mỉm cười với em bé năm tuổi trong tôi”.

Bạn nghĩ rằng em bé ấy không còn ở trong bạn phải không? Em bé ấy vẫn còn đó, sống động trong bạn, có thể là em ấy đã bị thương tích nặng. Em bé đang kêu gọi sự chú ý của bạn. Nhưng bạn không có thì giờ cho em ấy. Bạn quá bận việc. Bạn nghĩ bạn là một người lớn nhưng thật ra bạn cũng là em bé, trai hay gái, bị thương tích mong manh. Cho nên mỗi khi thở vào và thấy mình là em bé bị thương tích mong manh ấy, bạn sinh lòng thương cảm. Và khi thở ra, bạn mỉm cười với em bé, đó là nụ cười của hiểu và thương.

Em bé trong bạn có thể đã đau khổ rất nhiều. Khi còn nhỏ, bạn có thể bị những người lớn gây ảnh hưởng nặng nề. Những em bé khi còn nhỏ rất mong manh và dễ có những ấn tượng sâu. Ngay cả khi chưa sinh ra, thai nhi cũng đã có thể nghe, có thể phân biệt tiếng la hét với lời ca. Vì vậy, nếu bạn hết lòng lo cho con thì ngay khi con còn trong bụng, bạn phải đùm bọc con trong yêu thương. Tình yêu thương cần được bắt đầu càng sớm càng tốt. 

Có nhiều người trẻ đã thú nhận rằng họ căm ghét cha hay mẹ. Vài người đã nói với tôi bằng giọng hằn học: “Tôi không muốn dính dáng gì với ông ấy (hay bà ấy).” Họ đã giận cha, giận mẹ đến nỗi muốn cắt đứt hoàn toàn liên hệ với cha mẹ. Thỉnh thoảng cũng có lý do chính đáng vì đã bị bạo hành. Họ sợ nếu gần gũi với cha mẹ thì lại tiếp tục bị bạo hành.

Nhưng mặc dù không muốn gặp hay nói chuyện với cha hay mẹ, ta cũng không thể nào tách lìa ta khỏi cha mẹ ta. Cha mẹ ta đã sinh ra ta. Ta là cha ta, là mẹ ta. Đây là một sự thật, ngay cả khi ta thù ghét cha mẹ ta. 

Ta là tiếp nối của cha, mẹ ta. Ta không thể tách lìa cha mẹ ra khỏi ta được. Giận cha hay mẹ cũng không thể chối bỏ sự thật đó. Và chúng ta chỉ làm cho mình tự giận mình thêm mà thôi. Cần phải hòa giải với cha ta trong ta, với mẹ ta trong ta. Hãy nói chuyện với cha, mẹ trong ta và tìm mọi cách để sống hòa hợp với cha, mẹ trong ta. Được như thế thì sự hòa giải trong thực tế sẽ dễ dàng hơn.

Chúng ta có khả năng thay đổi bên trong ta cũng như tạo ảnh hưởng bên ngoài. Chỉ vì lo sợ mà chúng ta lúng túng không biết cách xử lý. Nhưng chúng ta chỉ cần thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm để chế tác năng lượng chánh niệm và hiểu biết. Hiểu biết giúp giải tỏa khỏi lo sợ, giận dữ, thù ghét… Tình thương chỉ có thể biểu hiện từ sự hiểu biết.

Khi chúng ta nói “thân tâm hợp nhất”, điều đó không có nghĩa là chỉ có thân và tâm của riêng ta. Chúng ta mang trong mình máu huyết và tâm linh của tổ tiên. Chúng ta có thể ý thức sự có mặt của cha mẹ trong từng tế bào của ta. Cha mẹ thực sự có mặt trong ta cũng như tổ tiên nhiều đời của ta. Chúng ta là tiếp nối của cha mẹ, tổ tiên. Bạn có thể nghĩ rằng tổ tiên không còn đó, nhưng ngay các nhà khoa học cũng xác nhận rằng tổ tiên vẫn còn đó trong ta, trong từng tế bào, dưới dạng di truyền. Điều này cũng đúng với con cháu chúng ta. Ta sẽ có mặt trong từng tế bào của con cháu chúng ta, trong tâm thức của tất cả những ai mà ta đã có liên hệ.

Hãy lấy ví dụ một cây táo. Trong mỗi trái táo có một cái hạt. Trong hạt táo có cây táo và tất cả thế hệ trước của cây táo. Hạt táo chứa vô số cây táo. Hạt táo mang trong nó đầy đủ sự thông minh, trí tuệ để cho cây táo mọc cành, sinh lá, nở hoa và kết trái. Được như vậy là hạt táo đã thừa hưởng và thích ứng qua nhiều thế hệ tổ tiên. Bạn cũng thế. Bạn có đủ thông minh, trí tuệ để lớn lên thành người là nhờ bạn đã thừa hưởng vô lượng tuệ giác không chỉ từ tổ tiên huyết thống mà còn từ các tổ tiên tâm linh.

Tổ tiên tâm linh có mặt trong bạn vì bạn không chỉ được sinh ra từ cha mẹ mà còn được nuôi dưỡng giáo dục bởi hoàn cảnh bên ngoài. Hai khía cạnh ấy không thể tách rời. Sự nuôi dưỡng cũng có thể làm thay đổi bản chất di truyền. Tâm linh và sự thực tập chánh niệm hằng ngày của bạn đang có mặt trong từng tế bào của bạn. Huyết thống tâm linh cũng có đó trong mỗi tế bào của cơ thể bạn. Bạn không thể chối bỏ điều đó. 

Vài người trong chúng ta có những bậc cha mẹ tuyệt vời nhưng có nhiều người khác có cha mẹ đã từng bị khổ đau nặng nề và đã làm cho mọi người trong gia đình cùng khổ. Hầu hết chúng ta ai cũng có các tổ tiên mà ta rất vinh dự, cũng như những tổ tiên với nhiều yếu kém mà ta không mấy hãnh diện. Có những bậc tổ tiên mà truyền thống tâm linh không giúp được gì, trái lại có khi gây hại cho ta. Chúng ta có thể giận ghét họ nhưng họ vẫn là tổ tiên của chúng ta.

Chúng ta phải trở về với tự thân để ôm ấp tổ tiên huyết thống và tâm linh của ta. Chúng ta không thể nào gạt bỏ họ đi được. Sự thật là như thế. Họ ở trong ta về phương diện thể chất cũng như tâm linh. Chấp nhận vô điều kiện là bước đầu tiên của tiến trình tha thứ mầu nhiệm.

Thực tập: Chấp nhận tổ tiên

Để thực tập chấp nhận tổ tiên, dầu thế nào đi nữa, ta phải bắt đầu từ bản thân. Nếu ta không chấp nhận được ta thì không thể nào ta chấp nhận được người khác. Khi nhìn lại tôi, tôi thấy tôi có nhiều điểm tích cực, nhưng tôi cũng khám phá ra rằng tôi cũng có nhiều điều tiêu cực. Vậy trước nhất là phải tự hiểu mình và chấp nhận mình.

Thở vào và thở ra, bạn hãy hình dung tổ tiên của bạn và tìm ra những điểm tích cực cũng như tiêu cực của tổ tiên. Hãy quyết tâm chấp nhận tất cả các bậc tổ tiên không một chút ngần ngừ.

Kính thưa quý vị tổ tiên. Con chính là quý vị. Con thấy rõ quý vị có những hạt giống tiêu cực cũng như tích cực. Con biết rằng quý vị đã may mắn có những hạt giống tích cực được tưới tẩm nơi quý vị như hiểu biết, thương yêu, vô úy. Con cũng biết rằng nếu quý vị không được may mắn thì cũng có thể có nhiều hạt giống tiêu cực được tưới tẩm như sợ hãi, tham lam, ghen tị khiến cho các hạt giống tích cực không có cơ hội phát triển.

Khi một hạt giống tích cực được tưới tẩm thì có thể đó là một phần nhờ may mắn, một phần nhờ cố gắng. Hoàn cảnh thuận tiện trong đời sống có thể tưới tẩm các hạt giống kiên nhẫn, vị tha, từ bi, thương yêu. Những người quanh bạn có thể chung tay tưới tẩm các hạt giống ấy, cũng như giúp bạn thực tập chánh niệm. Nhưng nếu sinh vào thời giặc giã hay khi gia đình, cộng đồng bị khổ nạn, ta có thể sẽ mang đầy tuyệt vọng, sợ hãi. Những bậc cha mẹ có nhiều đau khổ, khó khăn trong giao tiếp với xã hội và cộng đồng sẽ tưới tẩm hạt giống sợ hãi và hờn giận cho con cái. Nếu trẻ con lớn lên trong một gia đình đùm bọc, yêu thương thì những hạt giống tốt trong em sẽ được tưới tẩm và phát triển.

Nếu bạn nhìn tổ tiên như trên thì bạn sẽ hiểu rằng tổ tiên của bạn cũng đã từng chịu đau khổ và đã phải phấn đấu. Biết như thế bạn dễ dàng gạt bỏ buồn giận và chối bỏ tổ tiên. Chấp nhận tổ tiên với tất cả các điểm tích cực cũng như tiêu cực sẽ giúp bạn bình an và không sợ hãi. Bạn có thể xem anh hay chị của bạn như là những “tổ tiên” trẻ nhất của bạn, bởi vì anh, chị của bạn sinh ra trước bạn. Anh, chị của bạn cũng gặp khó khăn như tất cả chúng ta.

Muốn hòa giải với tổ tiên cần phải thực tập. Đây là một điều quan trọng. Bạn có thể thực tập bất cứ ở đâu, trước một bàn thờ, hay một thân cây, trên đỉnh núi hay trong thành phố. Bạn chỉ cần ý thức là tất cả tổ tiên đang có trong bạn. Bởi vì bạn là tiếp nối của tổ tiên bạn. Chỉ khi nào bạn hòa giải được với tổ tiên, bạn mới thật sự sống hoàn toàn trong hiện tại.

Nỗi sợ ban sơ

Nhiều người thường bị ám ảnh về những việc có thể khơi dậy sợ hãi và buồn khổ. Tất cả chúng ta đều đã có những trải nghiệm buồn khổ trong quá khứ mà ta không thể quên được. Chúng ta luôn nhớ và sống lại những khổ đau của quá khứ. Nhưng nếu nhớ lại quá khứ mà không có chánh niệm, tỉnh thức thì việc nhớ lại chỉ khiến chúng ta thêm buồn khổ.

Lấy ví dụ, khi còn nhỏ, bạn bị ngược đãi. Bạn đã khổ đau cùng cực. Bạn rất yếu ớt, mong manh, lúc nào cũng có cảm giác bất an. Bạn không biết cách để tự bảo vệ mình. Trong tâm trí, bạn như tiếp tục bị ngược đãi không thôi. Mặc dầu bây giờ đã trưởng thành, không còn là một em bé yếu ớt, mong manh nhưng bạn vẫn tiếp tục buồn khổ vì bạn cứ nhớ lại kỷ niệm đau buồn ngày xưa.

Trong tiềm thức của bạn hình như có chôn giấu một cuốn phim, một hình ảnh. Mỗi khi bạn nhớ về quá khứ thì như là bạn xem lại thước phim hay ngắm lại bức tranh đó và bạn lại buồn khổ. Chánh niệm nhắc ta rằng ta có thể sống trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Chánh niệm cho ta biết rằng hiện tại luôn có đó và ta không cần trở về sống lại quá khứ xa xưa. 

Giả sử có một người tát vào mặt bạn. Cái tát đã in dấu trong tiềm thức bạn. Tiềm thức bạn chứa nhiều thước phim, nhiều hình ảnh vẫn tiếp tục linh hoạt trong bạn. Và bạn có xu hướng trở về xem lại những thước phim ấy, ngắm lại những hình ảnh ấy và bạn tiếp tục buồn khổ. Mỗi lần nhớ lại như thế là bạn như bị tát vào mặt lần nữa.

Nhưng đó chỉ là quá khứ. Bạn không còn sống trong quá khứ, bạn đang sống trong hiện tại. Chuyện cũ đã xảy ra thật, nhưng xảy ra trong quá khứ. Bây giờ chỉ còn lại ký ức của những hình ảnh ngày nào. Nhưng nếu bây giờ bạn an trú trong hiện tại thì bạn có thể nhìn về quá khứ với một cái nhìn khác hơn và bạn có thể chuyển hóa nỗi khổ đó. Có thể rằng hồi bạn còn nhỏ, có người đã lấy mất đi một món đồ chơi của bạn và bạn đã biết cách la khóc để tìm cách lấy lại món đồ chơi, hay cười nịnh chị vú để chị ấy trả lại món đồ chơi của bạn. Mặc dầu còn nhỏ, bạn đã biết cười xã giao. Đó là một cách ứng phó để sống còn. Bạn đã học được một bài học mà bạn không hay.

Cảm giác bạn nhỏ bé, mong manh, không đủ sức tự bảo vệ, luôn luôn cần có người hỗ trợ bên mình vẫn còn đó mãi. Nỗi sợ hãi ban sơ và ước muốn ban sơ luôn luôn còn đó. Em bé, với nỗi sợ hãi và ước muốn ban sơ vẫn sống động trong ta.

Nhiều người bị trầm cảm và mãi khổ đau mặc dầu hoàn cảnh hiện tại của họ khá bình an, vững chãi. Đó là vì họ có xu hướng chôn mình trong quá khứ. Họ cảm thấy được thoải mái hơn khi quay về trú ẩn nơi quá khứ, mặc dù quá khứ chứa nhiều khổ đau. Nơi trú ẩn đó là hố sâu thẳm của tiềm thức với những thước phim đau buồn. Rồi mỗi đêm bạn về lại nơi trú ẩn đó, xem lại những thước phim ấy và tiếp tục buồn khổ. Và những lo âu của bạn cho tương lai chẳng qua chỉ là những sợ hãi và ước muốn của quá khứ mà thôi. 

Đừng sợ quá khứ

Kẹt vào quá khứ rất dễ, cho nên phải có một cách để nhắc nhở chúng ta trở về với hiện tại. Tại Làng Mai, chúng tôi sử dụng tiếng chuông. Mỗi khi nghe tiếng chuông, chúng tôi thở hơi thở vào ra trong chánh niệm và tự nhủ: “Lắng lòng nghe. Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương”. Quê hương đó chính là ngôi nhà thật sự của tôi.

Bạn có thể nói với em bé trong bạn rằng, quá khứ không phải là nhà của ta. Nhà của ta là tại đây, là bây giờ, nơi chúng ta đang thực sự sống. Nơi đây, ta có thể có được những gì nuôi dưỡng và chữa trị. Bao nhiêu sợ hãi, lo lắng, tuyệt vọng vẫn còn đó vì em bé trong ta chưa được giải thoát. Em sợ phải đối diện với hiện tại. Chánh niệm và hơi thở của ta sẽ giúp em ý thức rằng em đang được an toàn và tự do.

Khi xem phim, theo dõi những tình huống bi đát trên màn ảnh, bạn có thể rơi lệ. Bạn tưởng rằng những tình huống đó là thật. Nước mắt của bạn là nước mắt thật, cảm xúc của bạn là cảm xúc thật. Nhưng nếu đến gần màn ảnh thì bạn chỉ thấy những vệt sáng lập lòe. Bạn không thể tiếp xúc với những nhân vật trên màn ảnh, không thể nói chuyện, uống trà hay hỏi han, tâm sự. Ấy vậy mà những nhân vật ấy đã làm cho bạn đau khổ thực sự, đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Cũng vậy, ký ức của bạn có thể tạo ra đau khổ thật sự cho dù những ký ức ấy chỉ là những hình bóng xa xưa.

Khi bạn nhận ra rằng thói quen sống lại những chuyện ngày xưa hay phản ứng theo ký ức là do tập khí thì bạn hãy nhớ rằng bạn có thể có một lựa chọn khác. Bạn có thể đối diện giây phút hiện tại với tâm vô tư, không phán xét. Hãy dành quá khứ cho một lúc khác, một lúc tĩnh lặng nào đó, để an ủi em bé thương tích trong bạn, để nói với em rằng em không còn đau khổ nữa. Bạn có thể nắm tay em, đưa em về hiện tại với bao nhiêu mầu nhiệm hiện tiền: “Này em, hãy tới đây với ta, chúng ta đã lớn rồi và không còn sợ hãi nữa. Chúng ta đã vững mạnh. Chúng ta không phải sợ gì nữa.” Bạn phải hướng dẫn em bé trong bạn, phải đưa em về với sự sống hiện tại. Lẽ tất nhiên là ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ quá khứ, nhưng đồng thời ta phải an trú trong hiện tại. Nếu an trú vững chãi trong hiện tại, chúng ta có thể suy nghiệm quá khứ một cách tinh tường, học hỏi từ quá khứ mà không bị quá khứ ám ảnh.

Nghĩ tới tương lai mà không sợ hãi

Cũng vậy chúng ta có thể chuẩn bị tương lai mà không bị chìm ngập bởi những dự án cho tương lai. Rất nhiều khi ta chẳng phải đang lên một dự án gì cả mà ta chỉ đang chạy theo những ám ảnh về những kế hoạch trong đầu của ta, chỉ bởi ta lo sợ về một tương lai bất định. Ta phải an trú trong hiện tại khi hành động, chỉ có như vậy, ta mới hoạch định tương lai một cách tốt đẹp nhất. Sống trong hiện tại không có nghĩa là không chuẩn bị cho tương lai. Tuy nhiên đánh mất mình trong lo lắng cho tương lai không giúp ích được gì. Khi an trú trong hiện tại, ta có thể đem tương lai về với hiện tại để có thể nhìn sâu mà không đánh mất mình vì lo lắng, hoang mang. Thực sự có mặt trong hiện tại và chăm sóc hiện tại tốt đẹp chính là ta đang chăm sóc tương lai tốt đẹp. 

Quá khứ cũng vậy. Chánh niệm không cấm ta nhìn sâu về quá khứ. Tuy nhiên, nếu ta chìm đắm trong tiếc nuối, buồn khổ của quá khứ thì đó không phải là chánh niệm. Nếu thật sự an trú trong hiện tại thì ta có thể đem quá khứ về hiện tại để quán chiếu sâu sắc. Chúng ta có thể quán chiếu quá khứ và tương lai khi an trú trong hiện tại. Quả vậy, ta có thể xử lý quá khứ và tương lai một cách tốt đẹp nhất nếu ta an trú trong hiện tại. 

Nếu bạn có một người bạn đang đau khổ, bạn có thể nói với anh ta rằng: “Này bạn ơi, bạn đang ổn lắm. Hiện tại mọi việc đều đang rất tốt. Tại sao bạn cứ mãi đau khổ? Đừng trở về với quá khứ. Quá khứ chỉ là một bóng ma, không có thật.” Mỗi khi chúng ta nhận ra rằng quá khứ chỉ là một cuốn phim hay một tấm ảnh, chúng ta sẽ được tự do. Đây là phép thực tập chánh niệm.

Một thời đã qua

Nhiều người quên đi rằng, một thời đã qua chúng ta đã ở trong bụng mẹ. Chúng ta chỉ là một thai nhi nhỏ bé. Trong cơ thể mẹ ta có hai trái tim. Một trái tim của mẹ, một trái tim của ta. Trong khoảng thời gian ấy, mẹ đã làm mọi chuyện cho ta. Mẹ thở cho ta, mẹ ăn uống cho ta. Ta nối liền với mẹ bằng sợi dây nhau. Khí oxy và chất nuôi dưỡng truyền từ mẹ qua ta bằng sợi dây nhau. Ta được an toàn và thỏa thích trong bụng mẹ. Không bao giờ ta phải quá lạnh hay quá nóng. Ta ở trong một bọc nước êm ái. Người Trung Hoa và Việt Nam nói rằng tử cung chính là cung điện của đứa bé. Ta đã sống chín tháng trong cung điện. 

Thời gian chín tháng đó là thời gian thoải mái nhất đời ta. Thế rồi đến ngày ta ra đời. Một thế giới xa lạ xung quanh không có gì quen thuộc. Lần đầu tiên, ta cảm thấy đói lạnh. Xung quanh ta ồn ào, ánh sáng chói lóa. Lần đầu tiên ta cảm thấy sợ. Đó là nỗi sợ ban sơ, nguyên thủy.

Ở trong tử cung, ta không cần sử dụng buồng phổi nhưng khi lọt lòng mẹ, sợi dây nhau bị cắt lìa và ta không còn nối kết với mẹ. Mẹ không còn thở cho ta. Lần đầu tiên ta phải thở lấy một mình. Nếu ta không tự mình thở lấy thì ta chết. Sinh ra là trải qua một biến cố ngặt nghèo. Ta bị đẩy ra khỏi tử cung và đối diện với đau khổ. Ta cố gắng để thở. Trong phổi ta có nước, ta phải tống nước trong phổi ra. Cùng một lúc khi mở mắt chào đời, ta phải phấn đấu để sống còn. Ta muốn sống, đó là ước muốn ban sơ, bản năng sinh tồn. 

Khi còn là một trẻ sơ sinh, mỗi chúng ta đều ý thức rằng muốn sống còn ta phải cần một người để chăm sóc. Dù dây nhau đã cắt lìa, ta vẫn cần nương tựa hoàn toàn vào một người lớn để sống sót. Phải nương tựa vào một ai đó để sống còn có nghĩa là còn cần đến sợi dây nhau liên kết vô hình. Dẫu đã bị cắt lìa, sợi dây nhau vẫn còn đó.

Khi lớn lên, nỗi lo sợ ban sơ vẫn còn đó. Dẫu đã trưởng thành, chúng ta vẫn sợ không có người chăm sóc ta, sợ sẽ không thể sống sót được một mình. Tất cả mọi mong muốn được sống vẫn còn đó. Khi còn trẻ thơ, chúng ta đều biết tìm cách bảo đảm cho sự sống còn. Chúng ta có chân nhưng không đi được, có tay nhưng không cầm được. Chúng ta phải tìm cách nương tựa vào một ai đó để bảo vệ ta, săn sóc ta và bảo đảm sự sống còn của ta. 

Ai cũng có lúc sợ hãi. Chúng ta sợ cô đơn, sợ bị bỏ quên, sợ già, sợ bệnh, sợ chết, và biết bao lo sợ khác. Đôi khi chúng ta lo sợ mà không biết vì sao. Nếu chúng ta tập nhìn sâu thì chúng ta sẽ nhận ra rằng những nỗi lo sợ đó bắt nguồn từ nỗi sợ ban sơ từ lúc ta mới sinh ra, hoàn toàn bất lực, không tự mình làm được gì. Cho đến khi lớn lên, nỗi lo sợ ban sơ vẫn sống động trong ta. Ý muốn có một người bạn đời một phần nào cũng bắt nguồn từ nhu cầu tìm một người để được chăm sóc.

Khi thành người lớn, chúng ta không muốn nhớ lại hay cảm nhận nỗi sợ và ước muốn ban sơ, bởi vì em bé trong ta vẫn sống động. Nhưng chúng ta không có cơ hội nói chuyện với em bé. Chúng ta không dành thì giờ săn sóc em bé bị thương tích, em bé yếu đuối, mong manh trong ta.

Đối với đa số mọi người, nỗi sợ ban sơ vẫn tiếp tục dưới hình thức này hay hình thức khác. Đôi khi chúng ta cảm thấy hoảng hốt khi cô đơn. Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực, “không tự mình làm được gì”. Chúng ta cần có một người giúp ta. Đây là sự tiếp nối của nỗi sợ ban sơ.

Tuy nhiên, nếu nhìn sâu, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta có khả năng bình thản khi lo sợ và tìm lại niềm hạnh phúc cho riêng mình.

Phải nhìn sâu để biết rằng liên hệ tình cảm phát xuất từ nhu cầu của riêng ta hay từ hạnh phúc chung. Chúng ta quen nghĩ rằng người ta thương sẽ cho ta những giây phút thoải mái và ta sẽ cảm thấy bất an nếu không có người ấy bên cạnh. “Tôi cần người đó chăm sóc, tôi không thể sống nổi nếu không có người đó!” 

Nếu liên hệ tình cảm chỉ được căn cứ trên lo sợ thay vì hiểu biết, thương yêu thì mối liên hệ đó không có căn bản vững chắc. Bạn nghĩ bạn cần có người kia để được hạnh phúc nhưng đến một lúc bạn sẽ khám phá ra rằng sự hiện diện của người kia chỉ làm bạn bực mình và muốn xa người ấy, bạn nhận ra rằng cảm giác bình an nơi bạn không đến từ người kia. 

Cũng vậy, bạn la cà ở quán cà phê chẳng phải vì quán cà phê có gì thích thú mà chỉ vì bạn cô đơn. Bạn cần có nhiều người xung quanh. Bạn mở tivi chẳng phải vì tivi đang chiếu chương trình hay mà chỉ vì bạn cô đơn.

Người nào đó đã nói xấu về bạn, không thừa nhận bạn khiến bạn cảm thấy cô đơn, mất bình an. Bạn thích mua sắm thời trang cũng vì tâm trạng lo sợ cô đơn ấy. Chúng ta sợ bị ruồng bỏ, sợ sẽ không có ai chăm sóc. 

Hãy nhìn sâu để nhận ra rằng mỗi hành động của ta ngày hôm nay đều ẩn chứa và tiếp nối tâm lý lo sợ và ước muốn ban sơ của ngày ta vừa mở mắt chào đời.

Một hôm, trong khi đi thiền hành, tôi bỗng cảm nhận như có một sợi dây nhau nối kết tôi với mặt trời. Tôi thấy rõ ràng nếu mặt trời không có đó thì tôi sẽ chết tức khắc. Rồi tôi thấy có những sợi dây nhau nối tôi với dòng sông, với khu rừng, với bác nông dân. Dòng sông cho tôi nước uống, khu rừng cho tôi dưỡng khí để thở, bác nông dân trồng lúa cho tôi ăn.

Nhờ thiền tập mà bạn có thể thấy những gì mà người khác không thấy. Mặc dầu bạn không thấy sợi dây nhau nhưng sợi dây nhau vẫn có ở đó nối kết bạn với cha, mẹ, tổ tiên, với mặt trời, dòng sông, khu rừng, bác nông dân. Không chỉ năm, bảy sợi dây nhau mà hàng ngàn, hàng triệu sợi dây nhau.

Tại Làng Mai, đạo tràng của chúng tôi tại miền Nam nước Pháp, chúng tôi sử dụng thi kệ để thực tập: thi kệ khi thức dậy, khi chải răng, khi lái xe và cả khi sử dụng máy vi tính… Bài thi kệ sau đây chúng tôi thường đọc trước khi ăn:

Tay nâng chiếc bát đầy 

Tôi thấy rõ vạn vật

Đang giang tay góp mặt

Để cùng nuôi dưỡng tôi.

Nhìn cọng rau trong bát cơm, ta thấy trong đó có ánh nắng, có đám mây, có địa cầu và bao nhiêu khó nhọc đang góp mặt trong bát cơm. Quán chiếu như thế thì mặc dầu ngồi ăn một mình, ta vẫn cảm nhận rất rõ sự hiện diện của tăng thân, của tổ tiên, của Đất Mẹ và của vũ trụ trong ta và quanh ta trong lúc ta ăn. Và chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn khi ăn.

Bước đầu tiên để giảm bớt lo sợ là “nói chuyện” với lo sợ. Hãy ngồi xuống với em bé trong ta. Em đã từng bị thương tích. Em run rẩy, mong manh. Hãy dịu dàng ôm ấp em. Hãy nói với em như thế này: “Này em, em bây giờ là người lớn trong ta. Chúng ta không còn nhỏ bé, mong manh nữa. Chúng ta, tay chân vững mạnh, có thể tự bảo vệ. Vậy thì không có lý do gì mà chúng ta mãi lo sợ.”

Tôi tin rằng, nói chuyện với em bé như thế sẽ giúp em rất nhiều bởi em rất cần ta chú ý tới. Bao nhiêu thương tích vẫn còn đó trong em, nhưng vì quá bận rộn, ta không có thì giờ trở về để chăm sóc thương tích của em. Thế cho nên, thỉnh thoảng ta phải trở về với ta, với ý thức rằng trong ta có một em bé thương tích cần được chuyện trò, cần được trị liệu. Đây là một điều rất quan trọng. Phải tự nhắc mình rằng ta không còn là một em bé bất lực nữa, ta đã trưởng thành và có thể tự lo cho mình.

Thực tập nói chuyện với em bé trong ta

Hãy đặt xuống hai tọa cụ, rồi ngồi lên một tọa cụ và tưởng tượng bạn là em bé bị thương tích, yếu đuối, bất lực trong bạn. Rồi bạn tự nói với mình: “Tôi hoàn toàn bất lực. Tôi không làm được gì cả. Không ai lo cho tôi.” Bạn nói với tiếng nói của em bé. Rất có thể rằng khi ấy một cảm xúc sợ hãi, tuyệt vọng trong bạn sẽ trào dâng. Hãy để cho cảm xúc bộc lộ. Hãy dành thì giờ để cho em bé tỏ lộ tâm tình một cách hoàn toàn. Đây là một điều rất quan trọng. Sau khi em bé nói xong, bạn ngồi vào tọa cụ bên kia và đóng vai người lớn. Bạn nhìn tọa cụ đối diện và tưởng tượng có em bé đang ngồi đó. Bạn hãy nói với em: “Em nghe tôi đây. Tôi là người đã trưởng thành của em. Em không còn là một em bé bất lực nữa. Em đã lớn khôn và có đủ thông minh để tự bảo vệ, một mình mưu sinh. Chúng ta không cần ai khác để giúp chúng ta.”