Ngồi giữa gió thu

 Tu viện Bích Nham, ngày 12 tháng 10 năm 2007
Thân gửi các con của Thầy ở khắp nơi,

Bích Nham vào mùa Thu rất đẹp. Rừng núi điểm tô bằng lá thu đủ cả mọi sắc màu. Ngày hôm nay, bắt đầu vào 11giờ sáng, thiền sinh khắp nơi sẽ bắt đầu có mặt cho một khóa tu với chủ đề là Ngồi Giữa Gió Thu. Số người muốn ghi tên rất đông nhưng tu viện không thể tiếp nhận được hết, phải từ chối hàng trăm người. Các thầy, các sư cô và các Phật tử cư sĩ trong ban tổ chức cảm thấy lòng áy náy, nhưng không biết làm sao. Đây là khóa tu lớn đầu tiên của Bích Nham. Ai cũng muốn đến tu tập với tăng thân, đồng thời “coi mặt” tu viện mới.

Trưa hôm 9 tháng 10 năm 2007, tạp chí Time Magazine có đến phỏng vấn Thầy về những biến cố ở Miến Điện và về vấn đề hâm nóng trái đất. Buổi phỏng vấn truyền hình sẽ được đưa lên trực tuyến. Về Miến Điện, Thầy có nói là các vị xuất gia bên ấy đã can đảm đứng dậy đưa đường chỉ lối cho toàn dân về vấn đề nhân quyền và dân chủ. Các vị đã tỏ ra xứng đáng là những người lãnh đạo tâm linh của đất nước. Đất nước và dân tộc không thể không có một chiều hướng tâm linh (spiritual dimension). Đời người cũng không thể thiếu vắng một chiều hướng tâm linh. Thiếu một con đường tâm linh, ta sẽ không có khả năng đối diện với khổ đau, chuyển hóa khổ đau và hiến tặng được gì cho cuộc đời. Người không có đường đi là người đi trong bóng tối. Có đường đi rồi, ta sẽ không còn lo sợ. Các thầy ở Miến Điện đã đưa đường chỉ lối cho đất nước, cho dân tộc của họ. Tuy họ đang bị đàn áp, tù đày hoặc giết chóc, nhưng tâm của họ rất an, vì họ đã làm được việc họ phải làm: cung cấp cho đất nước và dân tộc họ vai trò lãnh đạo tâm linh (spiritual leadership). Các vị đã làm xong nhiệm vụ của họ. Các tầng lớp dân chúng trong nước mỗi khi nghĩ đến các vị ấy là thấy lòng mình xúc động: chính năng lượng của tình thương và của niềm tin ấy sẽ là động lực nuôi dưỡng hành động của họ để mang lại nhân quyền và dân chủ cho đất nước họ. Thế giới đang yểm trợ Miến Điện, như thế giới đã từng yểm trợ cuộc tranh đấu của Phật tử và đồng bào Việt Nam trong những năm sáu mươi trong cuộc vận động tranh đấu cho dân quyền và tự do dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Không phải chỉ một Phật tử đứng lên mà toàn thể các Phật tử cùng đứng lên một lượt. Bây giờ ở Miến Điện cũng thế. Không phải chỉ một thầy đứng lên mà tất cả các thầy đều đứng lên. Đây mới thực sự là lãnh đạo tâm linh.

Thầy cũng đã nói thêm với tuần báo Time: Chúng tôi ở trên thế giới cũng đang trông chờ các nhà lãnh đạo tâm linh ở đất nước Hoa Kỳ đứng dậy để cung cấp cho dân chúng Hoa Kỳ sự lãnh đạo tâm linh ấy để tang tóc và đau thương có thể được chấm dứt sớm tại đất nước Iraq. Các vị nên cùng đứng lên một lượt với một tiếng nói rất rõ ràng để giúp cho dân chúng tỉnh thức và thấy được con đường đi. Cái thấy của dân đã tỏ, tâm ý của dân đã quyết thì chính quyền không thể không làm theo. Cuộc chiến ở Việt Nam đã được chấm dứt cũng nhờ sự thức tỉnh của toàn dân Hoa Kỳ lúc ấy.

Ngày 6 tháng 10 năm 2007 vừa qua, trong khi hướng dẫn một ngày quán niệm cho 1.800 nhà tâm lý trị liệu tại trường Đại Học California (UCLA) ở Los Angeles, các thầy và các sư cô Lộc Uyển và Làng Mai đã đắp y sau giờ pháp thoại, trì tụng bài “May The Day Be Well” và xướng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm (Namovalokitesvaraya) để gửi năng lượng cho các thầy và các Phật tử Miến Điện. Ông Thống đốc tiểu bang California cùng phu nhân cũng đã tới nghe Thầy giảng thuyết và tham dự trọn ngày chánh niệm hôm ấy. Các thầy và các sư cô trước khi tụng kinh đã nói rằng tăng thân Làng Mai và Lộc Uyển muốn tỏ tình liên đới với các đồng đạo xuất gia và tại gia của họ tại Miến Điện. Sau đó, một bản nghị quyết hai điểm đã được đọc lên. Điểm thứ nhất là đề nghị Hội Đồng Liên Hiệp Quốc cấp tốc gửi một phái đoàn điều tra (U.N. Fact Finding Delegation) sang Miến Điện, một phái đoàn đại diện nhiều nước, như phái đoàn mà Liên Hiệp Quốc đã gửi về Việt Nam vào tháng 9 năm 1963. Điểm thứ hai là xin Hội Đồng Quốc Tế Thế Vận Hội vận động với Trung Quốc để Trung Quốc có thể làm áp lực trên các tướng lĩnh ở Miến Điện trong chiều hướng dân chủ hóa đất nước. Tất cả mọi thành phần tham dự trong ba ngày hội nghị Tâm lý Trị liệu tại trường UCLA trong giờ phút ấy đã đứng dậy để đồng lòng yểm trợ bản nghị quyết này, trong đó có ngài Thống Đốc Tiểu Bang California. Giới báo chí đã có mặt trong ngày sinh hoạt hôm ấy. Hội trường đã im lặng tuyệt đối trong giờ phút ấy, làm cho năng lượng tập thể của đại chúng trở nên rất hùng hậu.

Về vấn đề hâm nóng trái đất, Thầy đã kể cho tạp chí Times câu chuyện cặp vợ chồng trẻ ăn thịt đứa con trai còn bé của họ, câu chuyện mà đức Thế Tôn đã kể lại trong Kinh Tử Nhục. Cặp vợ chồng trẻ này trên đường vượt biên tỵ nạn với đứa bé trai nhỏ tuổi đã phải đi ngang qua một sa mạc. Do thiếu kiến thức địa lý, họ đã lâm vào trường hợp hết lương thực khi mới vượt được nửa đường qua sa mạc. Họ biết là cả ba sẽ chết trong sa mạc, không còn hy vọng gì qua tới nước xin tỵ nạn. Cuối cùng họ quyết giết đứa con trai, mỗi ngày mỗi người ăn một miếng thịt của đứa con để có sức tiếp tục đi. Phần còn lại họ vác trên vai để phơi khô. Mỗi lần ăn xong một miếng thịt con, hai người nhìn nhau và hỏi nhau: đứa con thân yêu của chúng ta bây giờ ở đâu? Họ chảy nước mắt, đấm ngực và than khóc. Nhưng rồi cuối cùng họ ra khỏi sa mạc và được chấp nhận làm dân tỵ nạn ở đất nước mới. Sau khi kể câu chuyện thương tâm này, đức Thế Tôn nhìn các thầy và hỏi: Quí vị có nghĩ rằng cặp vợ chồng kia cảm thấy hạnh phúc khi ăn thịt đứa con mình hay không? Các thầy đáp: Bạch đức Thế Tôn, họ cảm thấy rất khổ đau khi ăn thịt con. Bụt dạy: Này liệt vị, chúng ta phải tập ăn như thế nào để có thể gìn giữ được chất liệu từ bi trong trái tim chúng ta. Ta phải ăn trong chánh niệm. Nếu không, ta có thể đang ăn thịt của đứa con của chính mình.

Tổ chức UNESCO đã từng báo cáo rằng mỗi ngày có khoảng 40.000 trẻ em chết vì thiếu ăn hoặc thiếu dinh dưỡng. Trong khi đó thì bắp và lúa trồng ra ở Tây phương phần lớn là để nuôi bò nuôi lợn nuôi gà hoặc để làm rượu. Trên 80% số bắp và trên 95% số lúa mạch được sản xuất tại Hoa Kỳ là để nuôi súc vật để làm thịt. Súc vật ta nuôi để ăn thịt trên thế giới tiêu thụ số lượng thực phẩm tương đương với số thực phẩm để dành nuôi gần chín tỷ người (8.7 billion), nghĩa là nhiều hơn dân số thế giới.

Ăn thịt và uống rượu với ý thức ấy, ta sẽ thấy ta đang ăn thịt đứa con ruột của chúng ta. Để nuôi súc vật làm thịt ăn, loài người chúng ta đang sử dụng tới 70% diện tích đất nông nghiệp và 30% tổng diện tích của trái đất. Ngay ở Châu Mỹ La Tinh, 70% diện tích của các khu rừng đã phá là để làm đồng cỏ cho bò ăn. Bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc công bố ngày 29 tháng 11 năm 2006 cho biết rằng nuôi súc vật để ăn thịt tạo ra nhiều chất khí gây nên hiệu ứng nhà kính nhiều hơn những chất khí do tất cả xe cộ trên trái đất nhả ra( ).

Ông Henning Steinfeld, một viên chức cao cấp của Tổ Chức Nông Lương Quốc Tế (FAO) cho biết là kỹ nghệ nuôi súc vật để bán thịt là một trong những yếu tố quan trọng nhất đưa tới cuộc khủng hoảng sinh môi hiện đại (“the meat industry is one of the most significant contributors to today’s most serious enviromental problems”). Gà, lợn và bò ở các trại chăn nuôi lớn nhả ra những khối lượng khí mê-tan (methane – CH4) vĩ đại, từ sự tiêu hóa và từ phân chúng thải ra. Các nhà khoa học cho biết là khí mê-tan gây hiệu ứng nhà kính hai mươi ba lần nhiều hơn khí CO2 (khí các-bon-níc). Cơ quan Bảo Hộ Môi Trường cho biết là chăn nuôi làm tiết ra khí mê-tan nhiều nhất ở Hoa Kỳ. Ngoài khí mê-tan, lại còn khí đinitơ-oxít (Nitrous Oxide – N2O) mà tiềm năng gây ra hiệu ứng nhà kính còn lớn hơn chất khí CO2 tới 300 lần. Mà khí N2O, cũng theo bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc, là do kỹ nghệ chăn nuôi gây ra.

Nuôi bò, nuôi lợn, nuôi gà, chế biến thực phẩm từ sữa và trứng chịu trách nhiệm chế tác ra khoảng 65% tổng số khối lượng chất khí N2O trên toàn thế giới. Ngành chăn nuôi ở Mỹ thải ra một khối lượng khổng lồ phân thú vật, nhiều gấp 130 lần số lượng phân người trên thế giới, nghĩa là mỗi giây thú vật thải ra tới 97.000 pound phân. Các thứ phân này chảy ra sông hồ làm ô nhiễm nước uống tạo ra không biết bao nhiêu bệnh tật cho mọi loài. Như ta đã biết phần lớn khí N2O do phân chăn nuôi mà phát xuất. Ngành chăn nuôi đã tàn phá hàng trăm triệu mẫu rừng ở khắp nơi trên thế giới. Phá rừng là để trồng bắp, trồng lúa nuôi súc vật và để có đồng cỏ cho bò gặm. Khi rừng bị phá, những khối lượng khí CO2 khổng lồ chứa trong cây cối được nhả ra không trung. Nuôi súc vật để bán thịt cũng làm hao hụt nước của thế giới. Chỉ cần 25 gallon nước là đủ tưới và sản xuất 1kg lúa. Trong khi đó muốn chế tác 1kg thịt thì phải dùng tới 2.500 gallon nước. Đúng như lời đức Thế Tôn dạy, chúng ta đang ăn thịt con cháu chúng ta, ăn thịt cha mẹ ta, ăn thịt cả hành tinh của chúng ta. Kinh Tử Nhục cần được đem ra cho cả loài người học hỏi và thực tập!

Tổ chức Nông Lương Quốc Tế (FAO) khuyên ta nên hành động gấp (Urgent action is required to remedy the situation), ở cả mức độ cá nhân và cộng đồng. Nghĩa là phải giảm thiểu ít nhất là 50% công nghiệp sản xuất thịt. Và như vậy nhân loại phải bỏ ăn thịt bớt 50%.  Bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc công bố ngày 29 tháng 11 năm 2006 cho biết rằng dù có giảm bớt 50% kỹ nghệ chăn nuôi thì ta cũng vẫn phải sử dụng những kỹ thuật mới để giúp cho phần kỹ nghệ còn lại ít gây ô nhiễm môi trường hơn, như chọn lựa thức ăn cho súc vật như thế nào để các thức ăn ấy không bị lên men nhiều trong đường tiêu hóa của súc vật. Chính sự lên men này tạo ra nhiều chất khí mê-tan nhất.

Phật tử chúng ta từ trên 2000 năm nay đã biết ăn chay. Chúng ta biết ăn chay là để nuôi dưỡng từ bi, từ bi đối với các loài động vật. Bây giờ ta biết thêm: ăn chay cũng là để bảo vệ trái đất, ngăn ngừa không cho hiệu ứng nhà kính gây nên thiệt hại nặng nề; trong tương lai không xa, khi hiệu ứng nhà kính trở nên trầm trọng, mọi loài sẽ chịu thiệt hại; hàng trăm triệu người sẽ chết, nước biển sẽ dâng lên tràn ngập hàng ngàn thành phố và đất đai canh tác. Nhiều loại bệnh tật hiểm nghèo sẽ phát sinh và tất cả mọi loài đều sẽ phải gánh chịu.

Cả hai giới xuất gia và tại gia chúng ta đã thực tập ăn chay. Tuy số lượng các vị Phật tử cư sĩ ăn chay trường như giới xuất gia chưa nhiều bằng giới xuất gia nhưng ai cũng đã từng thực tập ăn chay hoặc 4 ngày/tháng (tứ trai) hoặc 10 ngày/tháng (thập trai). Thầy nghĩ rằng để cứu được hành tinh, bỏ ăn thịt là một hành động không khó khăn gì mấy. Giới tại gia nên dũng mãnh phát tâm ăn chay trường, ít nhất cũng ăn được 15 ngày trong mỗi tháng, đó là thập ngũ trai, theo lời khuyến cáo của Liên Hiệp Quốc. Làm được như thế, ta sẽ thấy khoẻ trong người, ta sẽ có an vui và hạnh phúc ngay từ giờ phút phát nguyện. Trong các khóa tu năm nay tổ chức tại Hoa Kỳ, rất nhiều Phật tử Hoa Kỳ đã phát nguyện ngưng ăn thịt hoặc bớt ăn thịt 50%, đó là nhờ họ tỉnh thức được sau khi nghe được bài giảng về hiệu ứng nhà kính. Chúng ta hãy thương lấy đất Mẹ, thương lấy muôn loài, trong đó có con cháu chúng ta. Ta chỉ cần ăn chay là cứu được trái đất. Ăn chay ở đây cũng có nghĩa là không tiêu thụ những thực phẩm chế biến từ trứng và sữa bởi vì hai loại ấy là sản phẩm của chăn nuôi. Nếu ta ngừng tiêu thụ thì họ sẽ ngừng sản xuất. Chỉ có một sự tỉnh thức tập thể (collective awakening) mới tạo ra đủ ý chí hành động.

Tháng chạp 2007 này, tu viện Lộc Uyển sẽ có đủ 100% điện lực chế tác từ ánh sáng mặt trời sử dụng cho tu viện. Các chùa thuộc Làng Mai ở Châu Âu và Châu Mỹ của chúng ta cũng đã thực tập mỗi tuần 1 ngày không sử dụng xe hơi và hàng ngàn thân hữu của chúng ta cũng đang thực tập theo. Chúng ta cũng đã bắt đầu sử dụng xe hơi bớt lại, sử dụng xe điện (electric car) và xe chạy bằng dầu thực vật. Những loại này có thể giúp ta giảm bớt 50% số lượng khí CO2 . Mua một chiếc xe nửa xăng nửa điện Prius Toyota, ta giảm bớt được một tấn khí CO2 mỗi năm, nhưng ta vẫn còn phải thải ra 50% khí ấy. Viện Đại Học Chicago cho biết: mỗi người ăn chay có thể ngăn ngừa khoảng 1.5 tấn khí CO2 không cho bốc lên khí quyển nhiều hơn một người ăn thịt.

Các con thấy không? Chỉ cần ăn chay thôi là đủ cứu được trái đất. Mà ai trong chúng ta lại không có kinh nghiệm rằng ăn chay cũng rất ngon. Chỉ có những người chỉ quen ăn thịt mới không thấy được sự thực ấy. Chiều nay khi khóa tu khai mạc, mọi người sẽ được báo tin là trong suốt khóa tu chúng ta sẽ không dùng các thực phẩm làm bằng sữa và trứng. Và tất cả các khóa tu sau này do chúng ta tổ chức đều sẽ như thế. Cố nhiên là các trung tâm tu học của chúng ta ở Á Châu, Âu Châu và Mỹ Châu cũng đều thực tập như thế. Thầy tin chắc thiền sinh sẽ hiểu và sẽ yểm trợ hết lòng. Để cứu đất Mẹ và muôn loài, sự thực tập của chúng ta hiện nay là giúp cho mọi người ý thức về hiểm họa trái đất hâm nóng. Ta biết nếu không có một sự bừng tỉnh tập thể thì trái đất và mọi loài không có cơ hội được giải cứu và cách sống hàng ngày của chúng ta phải chứng minh rằng chúng ta đã tỉnh thức.

Hôm 2 tháng 10 năm 2007, tại trường Đại Học San Diego (USD), Thầy có nói về đề tài lo lắng, sợ hãi và tuyệt vọng liên hệ tới hiểm họa trái đất bị hâm nóng. Số người vì lo sợ và tuyệt vọng mà sinh bệnh càng ngày càng nhiều. Họ thấy nếu con người cứ tiếp tục sống trong tham vọng, hận thù và mê ngủ như hiện nay thì trái đất và muôn loài không thể nào có được một cơ hội thóat khỏi hiểm nguy. Và sẽ có những người trong chúng ta chết vì tâm bệnh trước khi những hiểm họa kia đi tới. Trong buổi giảng, Thầy đã đưa ra phương pháp thực tập mà đức Thế Tôn chỉ dạy: nhìn nhận và chấp nhận sự thật mà đừng trốn tránh nó.

Các con biết là đức Thế Tôn từng dạy ta thực tập nhìn thẳng vào những hạt giống sợ hãi trong ta mà đừng tìm cách che phủ hoặc chạy trốn chúng: Tôi thế nào cũng phải già, phải chết, phải bệnh, tôi không thể nào tránh được cái già, cái chết, cái bệnh. Những gì tôi trân quý hôm nay, những người tôi trân quý hôm nay một ngày mai tôi sẽ phải buông bỏ khi thân thể này tàn hoại, tôi không mang theo được gì hết, ngoài thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của tôi. Đó là gia tài duy nhất mà tôi có thể mang theo. Thực tập chấp nhận được như thế, mình sẽ có bình an, mình sẽ có khả năng sống lành mạnh và từ bi, không còn gây đau khổ cho mình và cho người khác.

Những người từng bị ung thư hay sida khi được bác sỹ cho biết là mình có các bệnh ấy và chỉ còn có 3 tháng hay nửa năm để sống, thường bắt đầu bằng thái độ phản kháng, phẫn nộ, phủ nhận, tuyệt vọng, không muốn chấp nhận sự thật. Nhưng một khi họ đã chấp nhận được sự thật rồi thì họ bắt đầu có bình an. Có được bình an, họ sẽ có cơ hội tập sống ‘sâu sắc’ từng phút giây của đời sống hàng ngày. Do đó họ có cơ hội sống lâu, có người sống thêm cả 15 năm. Như sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Năm ấy, sư thầy qua Làng Mai với ý muốn được sống với Thầy và tăng thân vài tháng rồi sau đó sẽ về Hà Nội để chết. Vì bác sĩ bảo sư thầy chỉ sống được chừng 3-4 tháng nữa. Khi qua tới Làng Mai, các sư cô đề nghị sư thầy đi bác sĩ, sư thầy không chịu đi. Sư thầy nói không cần. Sư thầy đã chấp nhận cái chết của mình và đã hết lòng sống với tăng thân trong ba tháng từng giây, từng phút. Khi thị thực gần hết hạn, sư thầy chào tăng thân ra về. Một sư chị đề nghị sư thầy đi bác sỹ “khám chơi” cho biết. Sư thầy chiều lòng. Bác sỹ nói những di căn ung thư của sư thầy trong toàn thân đã rút về một nơi và sư thầy hiện đang rất khỏe. Và sư thầy đã về Hà Nội trong niềm vui. Hiện sư thầy vẫn còn sống ở Hà Nội và từ ấy đến nay đã là 14 năm.

Đức Thế Tôn dạy vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Nền văn minh hiện tại của chúng ta cũng thế. Trong lịch sử của Trái Đất, nhiều nền văn minh đã từng bị tiêu diệt. Nền văn minh hiện tại của chúng ta nếu có bị tiêu diệt thì đó cũng là theo luật vô thường. Nếu loài người cứ tiếp tục sống u mê và với lòng tham vô đáy như hiện nay thì sự tiêu diệt của nền văn minh này không còn xa nữa. Ta phải chấp nhận sự thật ấy, như là chấp nhận cái chết của chính chúng ta. Chấp nhận được rồi ta sẽ không còn bị đối kháng, phẫn nộ, phủ nhận và tuyệt vọng nữa. Ta sẽ có bình an. Có bình an rồi ta mới biết cách sống như thế nào để cho trái đất có một tương lai, ta mới tới được với nhau trong tình huynh đệ và sử dụng được kỹ thuật khoa học hiện đại mà ta đang có để cứu được hành tinh xanh yêu dấu. Còn nếu không thì ta sẽ bị tâm bệnh mà chết trước khi nền văn minh chấm dứt.

Mẹ ta, Trái Đất, hành tinh xanh, đã từng bị khốn khổ nhiều lần, đã từng khổ đau vì thấy đàn con dại dột. Chúng ta tàn phá đất Mẹ như một loại vi trùng tàn phá một cơ thể con người, vì đất Mẹ cũng là một cơ thể. Nhưng có những loài vi khuẩn rất thân hữu và có ích cho cơ thể con người. Hàng tỷ con như thế đang có mặt trong ta, nhất là trong hệ thống tiêu hóa; chúng giúp bảo vệ cơ thể và chế tác những sinh tố mà ta cần đến. Loài người có thể là những sinh vật có khả năng bảo vệ cơ thể đất Mẹ như thế, nếu loài người tỉnh thức, biết sống có trách nhiệm và từ bi. Đạo Phật ra đời là để ta học sống có trách nhiệm và từ bi. Ta phải thấy được tính cách tương tức, đồng sinh cộng tử giữa ta với đất Mẹ.

Nhưng đất Mẹ đã từng được tái sinh nhiều lần. Sau trận hồng thủy do hiện tượng hâm nóng trái đất gây ra, có thể chỉ còn một phần rất nhỏ nhân loại sống sót. Trái đất sẽ cần trên 1 triệu năm để tái sinh và khoác lên một chiếc áo màu xanh lành lặn tươi đẹp khác, và một nền văn minh mới của loài người sẽ được bắt đầu. Nền văn minh ấy là hậu thân của nền văn minh chúng ta. Đối với con người, 1 triệu năm là lâu lắm, nhưng đối với trái đất, đối với thời gian địa chất (geological time), 1 triệu năm không có nghĩa gì; đó chỉ là một thời gian rất ngắn. Tất cả sinh diệt chỉ là bề mặt. Bất sinh bất diệt mới thật là bản chất của vạn pháp. Đây là giáo lý Trung Đạo của Bụt. Nhưng thơ đã dài, Thầy không muốn nói thêm về giáo lý này ở đây. Khóa tu sắp bắt đầu. Trong nửa giờ nữa. Thầy sẽ ra hướng dẫn với tăng thân. Thầy chúc các con an lành và thực tập giỏi. Hẹn sẽ viết tiếp cho các con trong thư sau.

Thương và tin cậy

Thầy

(Để đọc bản tiếng Anh của lá thư, xin bấm vào đây: http://plumvillage.org/letters-from-thay/sitting-in-the-autumn-breeze)

Giá trị đức dục

Ngày 18.07.2008
Thân gửi các con của Thầy ở Từ Hiếu và Bát Nhã.

Khóa tu mùa Hè ở Mai Thôn đang tiếp diễn và mỗi ngày tu cũng vui như một ngày hội. Thiếu nhi và thanh niên nam nữ tới rất đông, đủ các quốc tịch. Năm nay người Tây Ban Nha tới đông lắm, ở xóm  Thượng có cả trăm người. Thầy phải viết thư pháp tiếng Tây Ban Nha cho họ. Những buổi thiền hành lên đồi xóm Mới rất đẹp không khác gì trong cõi tịnh độ. Những buổi thiền hành đi xuống Sơn Hạ từ xóm Thượng cũng hoành tráng không kém. Thiền sinh rất hạnh phúc được ăn cơm pique –nique ở Sơn Hạ. Mỗi ngày quán niệm tại xóm Mới, thiền sinh xóm Thượng phải sử dụng tới 9 chiếc xe bus. Đó là chưa kể những chiếc bus của xóm Hạ. Năm nay trên pháp tọa thường có  một bé thiếu nhi lên ngồi với Thầy để thay thế cho bình hoa! Đẹp lắm. Các em ngồi rất yên và rất tươi. Lều cắm san sát ở các Xóm. Tuần thứ hai này xóm Thượng đông nhất! Có những gia đình tới tu một tuần thích quá thành xin ở thêm tuần thứ hai, thứ ba! Họ chỉ được phép ở lại nếu chịu cắm lều. Mùa hè này, chúng ta bắt đầu thành lập các đoàn Thanh Niên Phật Tử cho một xã hội lành mạnh và có tình thương (Young Buddhists For a Healthy and Compasionate Society). Các sư em trẻ như Pháp Linh và Hiến Nghiêm đang điều động. Đã có website cho tổ chức này, để tiện liên lạc và yểm trợ cho sự thành lập các đoàn tại mỗi quốc gia.

Trước khi Làng mở cửa cho khóa tu mùa Hè mình đã có một khóa tu cho người trẻ của các nước Âu Mỹ. Sau mười ngày tu tập miên mật, tất cả đều được chuyển hóa, có người xin ở lại cho khóa tu mùa hè. Viện Phật học Ứng dụng châu Âu đã cấp phát chứng chỉ cho mọi người tham dự. Viện cũng sẽ cấp phát chứng chỉ cho các thiền sinh về tu học trong khóa tu mùa Hè. Những chứng chỉ này được các trường trung học và đại học đánh giá cao, vì giá trị đức dục của nó. Viện cũng sẽ cấp phát chứng chỉ này cho những vị tu tập miên mật trong ba tháng an cư ở Từ Hiếu và Bát Nhã, căn cứ vào báo cáo của Hội đồng Giáo thọ địa phương.

Thầy và các anh chị lớn đang chuẩn bị để xây dựng Tu viện Phương Bối tại ba miền Nam, Trung, Bắc, có sự cho phép của chính quyền trung ương. Nếu chúng ta giữ vững nền nếp tu tập thì không có lý do gì mà những dự án ấy không thành tựu. Nghe các anh chị nói các con đang tu học nghiêm chỉnh và hết lòng, tại Từ Hiếu và Bát Nhã, Thầy rất vui lòng. Thầy có niềm tin nơi các con. Không có khó khăn nào mà chúng ta không vượt thắng, nếu ta có niềm tin và ý chí. Thầy đang đi những bước chân vững chãi cho các con, và Thầy tin rằng các con cũng đang đi những bước chân vững chãi cho Thầy.

Thầy sẽ viết tiếp cho các con.

Thầy
Nhất Hạnh

Tình huynh đệ là một cái gì có thật

Mai Thôn 3.11.08
Thân gửi các con của thầy ở tu viện Bát Nhã

Làng Mai hiện đang có khóa tu cho những người nói tiếng Pháp. Sáng nay thầy đã nói pháp thoại tại thiền đường Trăng Rằm ở Xóm Mới. Trời thu tuy có mưa nhưng vẫn đẹp. Thiền sinh sáng nay cũng đã được tham dự lễ Giỗ Tổ Tánh Thiên Nhất Định, cũng được tổ chức tại thiền đường.

Thầy cảm ơn các con đã viết thư cho thầy. Thầy rất hạnh phúc khi thấy trong một hoàn cảnh rất khó khăn các con vẫn kiên trì tu học miên mật, anh chị em biết tới gần với nhau hơn, thương yêu nhau như con một nhà và tình huynh đệ được nuôi lớn mỗi ngày.

Mặc dù có những chướng ngại, những thách thức, những khó khăn… các con vẫn không khởi ra tâm niệm trách móc, hận thù, không nói một lời nặng nề với bất cứ ai, không có một hành động nào chứng tỏ mình có hận thù và bạo động.

Đó là một thành quả lớn của sự tu học, dù đa số các con vẫn còn rất trẻ. Thầy biết làm được như thế không phải là dễ! Nếu không biết thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm, nếu không biết nhận diện và ôm ấp những cảm thọ và cảm xúc của  mình thì không thể nào làm được như thế. Đây đã là một thành công lớn của thầy trò mình rồi.

Giả dụ ngày mai các con không còn chỗ ở, giả dụ ngày mai thầy trò mình có bị tản mát mỗi người một ngả, thì Bát Nhã cũng đã là một thành công của chúng ta, và lịch sử Phật giáo Việt Nam sẽ chắc chắn ghi lại trang sử đẹp đẽ này. Thầy là nhà viết sử, thầy biết chuyện đó. Cũng như trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Trường TNPSXH đã trở nên một huyền thoại, dù chỉ tồn tại trong mười một năm. Sự tu học và thực tập của mình chứng tỏ tình huynh đệ là một cái gì có thật, chứ không phải chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi.

Nhưng thầy không nghĩ là tình trạng sẽ xảy ra như thế đâu. Một đất nước như đất nước Việt Nam, một dân tộc như dân tộc Việt Nam, một truyền thống như truyền thống Phật giáo Việt Nam… sẽ không bao giờ để xảy ra một chuyện như thế.

Thầy thấy là hiện giờ đồng bào và Phật tử trong nước cũng như ngoài nước đều rất thương mình, Phật tử thế giới cũng rất thương mình. Thầy trò  mình đang được che chở và yểm trợ; nếu chúng ta giữ vững được lập trường không bạo động, không hận thù, không mưu mô, nếu chúng ta tiếp tục tu học cho tinh chuyên và miên mật, nếu chúng ta tiếp tục nuôi lớn tình huynh đệ… thì chúng ta không có gì cần phải sợ hãi.

Thầy biết có rất nhiều bậc quý nhân đang theo dõi và tìm cách hộ trì cho chúng ta, chúng ta phải giúp họ bằng cách tu  học cho tinh chuyên, cho thật lòng và hoàn toàn bất bạo động. Các sư anh và sư chị của các con tuy có người chưa đến tuổi 30 nhưng rất vững vàng về phương diện đó, và điều này làm thầy rất an lòng.

Các sư bé viết thư cho thầy hay lắm! Thầy rất vui khi nhận được thư của các con. Khi các con tu học có hạnh phúc như thế thì các con nuôi dưỡng thầy rất nhiều. Thầy sẽ sống lâu với các con!

Ôm tất cả vào lòng

Thầy
Nhất Hạnh


Con đường huyền thoại

Thất Ngồi Yên, 05.12.08

Hôm nay có nắng ở xóm Thượng. Thầy đi thiền hành xuống chùa Sơn Hạ qua con đường Tùng. Từ thất Ngồi Yên tới đường Tùng, thầy đi qua những vùng có thảm lá sồi bao phủ, nhất là đoạn đường đi qua thất Phù Vân của thầy Giác Thanh. Thảm lá sồi dày lắm, có nhiều chiếc lá còn giữ được màu tươi, màu y của các vị khất sĩ Nam Tông. Cây trút lá làm cho đất thêm màu mỡ, đất và cây nuôi nhau, điều này thấy rất rõ. Thầy đi chậm để mỗi bước chân có thể tiếp xúc được với bản môn, nghĩa là với thời gian vô cùng và không gian vô biên. Đi cho mình mà cũng là đi cho cha mẹ, cho Thầy tổ, cho Bụt, cho các con. Thầy cảm thấy không có sự ngăn cách nào giữa mình với cha mẹ, Thầy tổ, Bụt và các con. Tất cả đều có mặt trong những bước thiền hành. Bài kệ “để Bụt thở, để Bụt đi” hay lắm, càng thực tập càng thấy hay, cho nên thầy rất thường trở về với bài ấy. Bài ấy cũng có thể được thực tập trong những tư thế khác như “để Bụt thở, để Bụt ngồi” hay “để Bụt thở, để Bụt làm”, hoặc “để Bụt thở, để Bụt chải răng”. Sự thực tập này giống y như là sự thực tập niệm Bụt, Bụt đây không chỉ là một danh hiệu mà là cả một con người thật, đang thở, đang đi, đang rửa bát, đang lau nhà…

Thầy nhớ trong chuyến đi Ấn Độ vừa rồi, thầy đã thực tập “đây là Ấn Độ, Ấn Độ là đây”, thay vì “đây là Tịnh Độ”… Hôm đi thiền hành tại đại lộ Rajpath ở thủ đô New Delhi, thầy đã thực tập theo bài ấy và cũng thực tập đi cho cha mẹ, cho Thầy tổ, cho các con. Thầy thực tập “Bụt đang tản bộ, Bụt đang rong chơi, Bụt đang hạnh phúc, Bụt đang thảnh thơi, mình đang tản bộ, mình đang rong chơi …”. Rồi “Cha đang tản bộ, cha đang rong chơi…”. Khi thực tập cho các con, thầy cũng mời các con đi bằng chân của thầy, “Con đang tản bộ, con đang rong chơi …”. Các con đã có mặt với thầy trong suốt chuyến đi Ấn Độ ấy.

Các con là những người xuất sĩ, các con cũng là những người cư sĩ. Xuất là đi ra, không phải để làm quan, mà để gia nhập vào Tăng đoàn những người xuất gia. Tăng thân cần mình đi đâu thì mình đi đến đó, mình không có một trú xứ duy nhất. Cư là ở lại, cư sĩ cũng có nghĩa là xử sĩ, các con chưa xuất gia (tiếng Anh là going forth) vì đang có bổn phận với gia đình với cha mẹ, nhưng vẫn có cơ hội để tham dự vào những sinh hoạt tu tập; có mặt các con thì mới có được tứ chúng (the fourfold community, the fourfold Sangha). Các chúng xuất sĩ và cư sĩ nương vào nhau, yểm trợ cho nhau, tu tập chuyển hóa và độ đời. Tăng thân là một đoàn thể đẹp, có đủ bốn chúng nam xuất gia, nữ xuất gia, nam tại gia, nữ tại gia. “Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui, tu tập giải thoát, làm an lạc cuộc đời”. Nhà tranh đấu cho Nhân quyền Martin Luther King rất ao ước xây dựng một đoàn thể đẹp như thế, một đoàn thể sống có hạnh phúc, có tình huynh đệ và có khả năng tranh đấu cho đời. Ông gọi tên đoàn thể ấy là “The Beloved Community”, mình tạm dịch là “Tăng thân yêu quý”. Rất tiếc là ông đã bị ám sát năm 39 tuổi tại Memphis, cho nên giấc mơ đẹp ấy chưa thực hiện được. Thầy trò mình may mắn hơn. Thầy trò mình đã xây dựng được Tăng thân khắp chốn, để rồi nơi nào cũng trở thành quê hương (Tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này). Mình đã tiếp nối được chí nguyện của Martin Luther King và công phu tu tập hằng ngày của mình là để chế tác tình huynh đệ, niềm vui sống và khả năng giúp người độ đời. Đó là những thực hiện và tiếp nối cụ thể cho giấc mơ ấy.

Thầy nhớ lần cuối thầy gặp mục sư King tại Thụy Sĩ, trong một hội nghị do Hội đồng Thế giới của các Giáo hội (World Council of Churches) tổ chức, lấy tên là Pacem in Terris (Hòa bình trên Trái đất). Mục sư ở với các vị phụ tá trên lầu thứ 11 của một khách sạn lớn trong đó hội nghị đang xảy ra. Thầy ở tầng trệt và chỉ có một vị phụ tá cư sĩ. Đó là năm 1968. Mục sư đã mời thầy lên ăn sáng để đàm đạo; vì bận họp báo nên thầy lên trễ nửa giờ. Ông đã giữ thức ăn sáng cho nóng. Trong buổi gặp gỡ này thầy đã có dịp nói với ông là: các bạn ở Việt Nam rất yểm trợ ông và xem ông như một vị Bồ tát sống. Ông rất hoan hỉ khi nghe như thế và sau này mỗi khi nghĩ tới buổi họp mặt ấy, Thầy thấy rất hài lòng vì đã nói được với ông câu ấy, bởi vì chỉ mấy tháng sau ông đã bị ám sát.

Con đường Tùng đưa thầy xuống chùa Sơn Hạ là một trong những con đường thiền hành đẹp nhất ở Làng. Các con đã từng đi với thầy trên con đường ấy chưa? Thông được trồng thành rừng, thành hàng, đứng thẳng bên nhau như một Tăng thân, quanh năm xanh tốt. Có thể có tới 8.000 cây Thông trong khu rừng ấy. Vào mùa khô ráo, thầy hay dừng lại giữa đường Tùng, ngồi xuống trên thảm lá thông. Nếu có thị giả đi theo thì thầy trò cùng uống trà trước khi đứng dậy đi tiếp. Cái thất ở chùa Sơn Hạ, nơi Thầy hay đốt lửa trong lò sưởi để tiếp các vị Tôn túc về dự Đại Giới Đàn trong các khóa tu Kiết Đông, ngày xưa là nhà ở của gia đình tá điền. Bề ngoài ngó xấu xí nhưng bên trong đã được sửa sang lại rất xinh xắn và có đầy đủ tiện nghi, nhất là có lò sưởi đốt bằng củi nơi phòng khách. Phía trên lò sưởi có bức thư pháp “bois ton thé” nghĩa là “Uống trà đi con”, hoặc là “Uống trà đi thầy”. Đã có những ngày tuyết lạnh, thầy trò mình, đôi khi có tới hai ba chục người, quây quần bên lò sưởi ấy uống trà và kể chuyện bốn phương tám hướng cho nhau nghe, bởi vì mỗi người đã từ một phương trời đi tới. “Chúng ta là chim, bốn phương bay về đây…”

Cái thất ở Sơn Hạ ấy, Thầy định đặt cho nó một cái tên, bề ngoài có thể không chải chuốt, nhưng bề trong lại rất hay. Đó là cái tên “Thất Da Cóc”. Đúng rồi da của con cóc, peau de grenouille, hay là frog skin. Da cóc thì xù xì ngó không đẹp mấy, nhưng bên trong có thể là rất đẹp. Chú Dũng, ba của thầy Pháp Đôn, lần đầu được thầy đưa vào thất đã khen: “Ngoài da cóc, trong ngọc vàng”. Các con có biết câu ấy không? Đó là vế đầu của câu đố: Ngoài da cóc, trong ngọc vàng, đi ngoài đàng, thơm lừng lựng. Đó là trái gì? Đó là trái mít chín. Bên ngoài thì da mít xù xì như da con cóc. Nhưng bên trong có những múi mít chín vàng rực thơm lừng, đó là ngọc là vàng, và khi đi qua một quãng đường có một trái mít chín thì mình nghe “thơm lừng lựng”. Câu đó có thể đã xuất phát từ miền Huế, tại vì có ba chữ “thơm lừng lựng”.

Vậy thì cái thất của thầy ở Sơn Hạ, ngoài thì là da cóc, trong thì là ngọc vàng, đó là công phu của anh Hiếu, anh ruột của thầy Pháp Quán. Anh đã để ra mấy tuần lễ để trang điểm lại cho ngôi nhà, vốn là nhà của một vị tá điền nghèo khổ. Thầy đã bắt đầu ưa cái tên thất Da Cóc rồi đó, các con có thấy buồn cười chưa. Chuyện đời xưa: một chàng trai đi trên bờ ruộng thấy một con cóc liền bước qua. Vừa mới bước qua thì nghe sau lưng có tiếng đằng hắng rất thanh tao của một thiếu nữ. Chàng quay lại nhìn và ngạc nhiên thấy trước mặt mình một nàng công chúa diễm lệ. Cố nhiên là chàng trai đã cùng cô công chúa ân cần trò chuyện và sau hết, mời cô công chúa về nhà mình để giới thiệu với bố mẹ, và chàng đã không quên nhặt chiếc vỏ da cóc bỏ vào túi và đêm ấy đã xé nát cái da cóc đó, để nàng công chúa đẹp tuyệt trần kia không chui lại được vào cái vỏ da cóc xù xì kia nữa.

Thầy có cảm tưởng thầy cũng may mắn như chàng trai kia và trên bước đường thầy đi, Thầy đã từng gặp bao nhiêu con cóc xù xì. Nhưng tất cả những con cóc ấy sau khi trút bỏ ra được cái vỏ da cóc của mình đã trở nên những vị Hoàng tử tuấn tú, những cô Công chúa đẹp tuyệt trần. Mỗi khi trái tim Bồ đề của mình biểu hiện thì mình trở nên đẹp như một nàng Công chúa hay một vị Hoàng tử. Và khi Tăng thân của mình leo đồi thế kỷ thì cảnh tượng mầu nhiệm vô cùng.

Có những con đường thiền hành thân thương đã đi vào giấc ngủ của Thầy. Ở Tổ đình Từ Hiếu những con đường Thầy đã đi thời còn làm Sadi, và đã trở thành những con đường của huyền thoại, lâu lâu lại có mặt trong những giấc mơ tìm về tới quê nhà. Các con của Thầy ở Bát Nhã cũng đã tạo dựng được những con đường thân thương như thế và sỏi đá trên đường đã trở nên quen biết dưới những bước chân chánh niệm của các vị Hoàng tử, của các nàng Công chúa. Phương Bối ngày xưa cũng đã có những con đường như thế, Phương Vân am cũng đã có những con đường như thế, Lộc Uyển cũng đã có những con đường như thế, và hiện giờ tại Bích Nham, các con của thầy cũng đã dùng bước chân chánh niệm vạch ra những con đường như thế. Những con đường thiền hành ngày xưa tại Thanh Sơn và Rừng Phong cũng mầu nhiệm không kém, chúng đã đi cả vào thi ca. “Cùng nhau ta sẽ đi, sẽ đi thăm Thanh Sơn, leo đỉnh trời bao la. Ta sẽ qua nhà trà, sẽ đi quanh bờ hồ, sẽ đi lên Phật đường…” Tịnh độ chúng ta chắc chắn là có những con đường như thế mà ai đi xa cũng nhớ. Các con có nhớ con đường thiền hành bờ suối đi ngang qua rừng trúc ở nội viện Phương Khê?

Chiều hôm nay, lúc năm giờ chiều ngồi thiền ở thiền đường Nước Tĩnh, Thầy đã mời đức Thế Tôn thở bằng hai lá phổi của thầy. Thầy nói: đây là phổi của con, nhưng cũng là phổi của Ngài. Xin Ngài thở cho khỏe, phổi còn tốt lắm không sao đâu; và đức Thế Tôn thở rất hạnh phúc, hai thầy trò đã thở rất hạnh phúc.

Chùa Sơn Hạ được bao bọc bởi những khu rừng mà phần lớn là rừng thông. Sơn Hạ có suối và có hồ. “Sơn hạ hữu tuyền, trạc chi tắc dũ” là một câu văn trích trong bài tựa của kinh Thủy Sám, có nghĩa là “Dưới chân núi có dòng suối, lấy nước suối ấy mà rửa thì vết thương sẽ lành”. Chùa Sơn Hạ là chùa dưới chân núi. Có một cây cầu bắc qua suối, đầu cầu có tảng đá trên đó có khắc dòng chữ “Sơn hạ hữu tuyền…” bằng chữ Hán. Núi đây là núi Thệ Nhật, trên đó có chùa Pháp Vân, tức là xóm Thượng – Làng Mai. Thầy Nguyện Hải là trú trì chùa Pháp Vân, nhưng vì thầy đang đi dạy ở Việt Nam nên thầy Pháp Đôn hiện thời thay thế. Còn chùa Sơn Hạ thì do thầy Pháp Sơn làm trú trì; thầy là người Tây Ban Nha, thầy cũng có quốc tịch Anh và ngoài tiếng Tây Ban Nha, thầy còn nói tiếng Anh, tiếng Đức  và tiếng Pháp rất giỏi. Thiền sinh rất thích cảnh trí chùa Sơn Hạ. Mùa Đông này có 18 vị cư sĩ đang an cư với các thầy và các sư chú ở đấy.

Năm ngoái, trong mùa Kiết Đông an cư, có một lần thầy đóng vai người hướng dẫn viên đưa một cặp du khách đi từ Sơn Hạ lên chùa Pháp Vân, theo con đường Tùng. Cặp du khách này đâu phải ai xa lạ, đó là giáo sư Hoàng Khôi – Chân Đạo Hành và phu nhân Chân Tuệ Hương, cả hai đều là đệ tử giỏi của Thầy. Mùa đông năm ngoái, hai vị đã từ Sydney tới tham dự an cư Kiết Đông ở Làng Mai và cư trú ở xóm Thượng. Hai vị cư sĩ này đều đã là giáo thọ, đã từng phiên tả và biên tập nhiều sách của thầy bằng tiếng Việt; những cuốn sách như: Hạnh Phúc Mộng và Thực, Truyền sống sinh động của thiền tập v.v… đều là do các vị này thực hiện.

Sau khi mời các vị uống trà ở thất Da Cóc – Sơn Hạ, thầy đưa các vị lên xóm Thượng theo con đường Tùng. Thầy nói: các vị hãy tưởng tượng mình mới tới Pháp Vân lần đầu và tôi là người sẽ đưa quý vị lên gặp vị Thiền sư trên am lá, thất Ngồi Yên, ở mé rừng phía Đông núi Thệ Nhật, gần chùa Pháp Vân. Và nếu biết đi từng bước lên núi với chánh niệm thì quý vị sẽ có cơ hội được gặp vị thầy ấy nhiều hơn, bởi vì thầy thường hay đi thiền hành một mình vào núi, có khi đi hái rau rừng, có khi đi hái thuốc (Sư thê dược khứ) và có khi thầy ngồi cả ngày trong rừng, không ai biết thầy ngồi đâu, kể cả vị sa di thị giả…

Hôm ấy trời mưa mới tạnh, tuy nắng lên rất đẹp nhưng cành lá còn mang những giọt nước mưa đọng long lanh như những hạt ngọc, phản chiếu mầu nhiệm ánh nắng ban mai. Thầy đã dừng lại đưa cánh tay ra hứng lấy một giọt nước từ trên lá Thông và giọt nước đang long lanh như một viên ngọc đã được chuyền xuống ngón tay thầy nguyên vẹn. Thầy bảo giáo sư Chân Đạo Hành đưa bàn tay ra để nhận lấy viên ngọc và trút viên ngọc ấy xuống bàn tay của ông. Bàn tay để trong túi áo nên còn khô và ấm lắm cho nên viên ngọc gieo xuống vẫn lăn tròn nguyên vẹn. Thầy cũng “hái” cho cô Chân Tuệ Hương một viên ngọc như thế. Đất trời thật mầu nhiệm, mỗi phút giây là một viên ngọc quý, tóm thu đất nước trời mây và chỉ cần một hơi thở nhẹ có ý thức, thì hết bao nhiêu phép lạ hiển bày.

Đi thiền hành là như thế, mỗi bước chân là khám phá, mỗi bước chân là niềm vui, mỗi bước chân là nuôi dưỡng và trị liệu. Đến một khúc lên dốc, thầy dừng lại, chỉ lên một góc núi và nói với hai vị: đi một đoạn đường nữa, quý vị sẽ thấy thất Ngồi Yên hiện ra. Có thể là thầy đang ngồi trên ấy. Và khi thất Ngồi Yên hiện ra, thầy cũng dừng lại chỉ cho hai người thấy, và mời hai vị thở và mỉm cười. Thật ra hai vị đã từng thấy thất Ngồi Yên nhiều lần rồi, và cũng đã từng uống trà với thầy trong thất ấy, nhưng lúc này đây các vị đang dùng một cặp mắt mới để nhìn và để khám phá một cái gì mới. Cả ba người như đang sống trong một huyền thoại là họ đang đi tìm vị Thiền sư trên núi, mà không biết có cơ duyên được gặp hay không. Thiền sinh về xóm Thượng đã có hàng vạn người, tới từ bao nhiêu nước, nhưng có mấy ai đã được ông Đạo tiếp ở thất Ngồi Yên? Cũng như mấy ai đã được ông Đạo tiếp ở thất Lắng Nghe ở Tổ đình Từ Hiếu?

Năm ngoái trong mùa an cư Kiết Đông, sư chú Pháp Tri đã làm thị giả cho thầy ở thất Ngồi Yên với sự hướng dẫn của thầy Mãn Tuệ. Sư chú đi học lớp uy nghi về, không thấy thầy đâu, đang chuẩn bị vào núi để tìm. Ngay lúc ấy, thầy với hai vị khách cũng vừa tới; thầy vẫn đóng vai người hướng dẫn khách hành hương, hỏi sư chú: “Thầy có ở nhà không hả sư chú?” Sư chú bỡ ngỡ, chưa biết trả lời làm sao thì thầy hỏi tiếp: “hay là thầy đang bận hái thuốc trong núi chưa về?” Bây giờ thì sư chú đã hiểu, sư chú trả lời: “Thưa quý vị, thầy con vào núi chắc cũng sắp về tới, xin mời các vị vào Thất dùng trà trong khi đợi thầy”. Ở chùa Việt Nam, Los Angeles, có treo một bức thư pháp của thầy tặng Hòa thượng Mãn Giác, bản dịch một bài thơ của thi sĩ Giã Đảo đời Đường: Bên cội Tùng, chú bảo: thầy vừa đi hái thuốc, chỉ nội núi này thôi, mây mù không thấy được. Thật ra là vị thị giả dư biết thầy mình đang ngồi ở mé núi nào, nhưng vì không muốn thầy mình bị quấy rầy bởi ông khách nên trả lời như thế để mình khỏi đi tìm thầy, và để cho thầy được ngồi yên, thế thôi. Thệ Nhật Sơn thỉnh thoảng cũng có sương mù bao phủ, nhưng sương mù không nhiều bằng ở tu viện Kim Sơn miền Bắc California.

Con đường Tùng của thầy đã đi vào huyền thoại, các con thấy chưa? Nhưng con đường nào mà thầy trò mình đã đi lại không đi vào huyền thoại? Như con đường thiền hành xuống suối ở Bát Nhã đó. Thầy trò chúng ta đã đi trên con đường ấy nhiều lần với những bước chân như thế, các con nhớ không? Con đường lên núi Vạn Thạch Liên ở Lộc Uyển, thầy trò mình đã leo lên biết bao nhiêu lần? Và đã bao nhiêu lần thầy trò mình từng ngồi trên những tảng đá trên đỉnh núi nhìn xuống thung lũng Escondido sương mù phủ kín? Con đường mà thầy trò chúng ta đi khởi sự từ sân Phật đường Từ Hiếu, xuống hồ Bán Nguyệt, quanh hồ Sao Mai, vượt cổng tam quan, lên đồi Dương Xuân hay đi về Lăng Viện, con đường ấy đã đi vào huyền thoại, đã đi vào những giấc mơ của thầy trong gần bốn mươi năm xa cách quê hương. Những con đường thiền hành ở xóm Hạ và xóm Mới cũng đã mang dấu chân của thầy trò chúng ta cả mấy chục năm nay và mỗi khi đi xa, thầy trò mình đều rất nhớ. Chúng ta đã từng đem dấu chân của Bụt in xuống trên những con đường thiền hành ở công viên Estes trên dãy Rocky Mountains, ở khuôn viên trường đại học Stonehill, trường đại học UC Santa Barbara, ở công viên Mc Arthur tại Los Angeles, trên những đại lộ của các thành phố lớn như Frankfurt, Rome, Amsterdam, Paris, New York, New Delhi, Hà Nội, v..v… Thầy nhớ hôm đi thiền hành bên hồ Hoàn Kiếm, là một Tăng thân xuất gia và tại gia tới từ 41 quốc gia, chúng ta đã bước những bước chân an lạc thảnh thơi bên bờ hồ, qua cầu Thê Húc, vào đền Ngọc Sơn… Dân chúng thủ đô đã ngạc nhiên thấy đoàn người đi một cách thảnh thơi như những người vô sự, trong khung cảnh của một thành phố rộn ràng mà ai nấy đều có vẻ bận rộn, gấp gáp. Thấy một đoàn người đi như thế, có người bảo là đã tìm ra lại được gốc gác văn hóa và quê hương đích thực của chính mình.

Chúng ta cũng đã được đi như thế ở Trung Hậu, Đồng Đắc, Bằng A, Sóc Sơn, Văn Miếu, Hoa Lư, Phát Diệm, Diệu Đế, Thuyền Tôn, Linh Mụ, Linh Ứng, Tam Thai, Chúc Thánh, Mỹ Sơn, Cam Ranh, Thập Tháp, Nguyên Thiều, Giác Viên, Giác Lâm, Ấn Quang, Hoằng Pháp, Pháp Vân… Ở đâu đối với chúng ta cũng là thánh địa; chỉ cần biết dừng lại, chỉ cần có ý thức thì mảnh đất nào cũng là quê hương.

Chỉ còn mấy tuần lễ nữa là hết năm 2008, ngồi viết thư cuối năm cho các con, thầy cảm thấy ấm áp như đang ngồi chơi với tất cả các con. Năm nay xóm Mới sẽ tổ chức lễ Giáng Sinh, xóm Hạ tết Dương lịch và xóm Thượng tết Kỷ Sửu. Năm nay trong Đại Giới Đàn Mùa Sen Mới sẽ có khoảng 27 vị được truyền đăng trong đó có thầy Pháp Hữu. Bé Huỳnh Thế Nhiệm đã tới Làng lần đầu năm 7 tuổi và sau đó đã trở lại nhiều lần. Nhiệm đã được xuất gia năm 12 tuổi và vào tháng Giêng năm 2009, Nhiệm sẽ được truyền đăng làm giáo thọ. Đó là thầy Chân Pháp Hữu. Trong khóa an cư Kiết Đông này, Pháp Hữu làm y chỉ sư cho bảy vị thiền sinh Tây phương. Họ hạnh phúc lắm với một vị y chỉ sư trẻ như thế. Các baby monks của thầy bây giờ lớn hết rồi, bên cạnh đó là Pháp Chiếu, Mật Nghiêm, Đàn Nghiêm và Mẫn Nghiêm cũng đang làm y chỉ sư cho các thiền sinh. Mẫn Nghiêm đã được truyền đăng năm ngoái trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa để trở thành vị giáo thọ trẻ nhất của Làng Mai. Sư cô Mẫn Nghiêm gặp thầy lần đầu hồi còn 5 tuổi; 12 tuổi qua Làng xin xuất gia. Hạ Thoại Mỹ Quyên là tên đời, năm 16 tuổi cô đã đọc “Nói với tuổi hai mươi” của thầy và lòng dặn lòng sẽ viết một cuốn sách tặng thầy năm thầy 80 tuổi, với đề sách là “Nói với tuổi tám mươi”. Và đến năm tròn 20 tuổi, Quyên đã viết được cuốn sách ấy, 300 trang, hiện giờ thầy còn giữ ở nội viện Phương Khê. Chỉ một mình thầy được đọc thôi, Mẫn Nghiêm đã dặn như thế.

Pháp Hữu cũng sẽ là một vị giáo thọ rất trẻ. Mười năm ở với thầy, thầy trò chưa bao giờ giận nhau, truyền thông giữa hai người rất tốt. Pháp Hữu đã là một trong những vị thị giả giỏi nhất, ý tứ nhất, không thua gì sư anh Pháp Niệm, rất chu đáo, biết thầy cần gì, không cần phải đợi thầy nói lên. Có lần thầy nói với Pháp Hữu: “Ngày xưa thầy Anan làm thị giả cho Bụt cũng chỉ giỏi như con đang làm thị giả cho thầy bây giờ là cùng”. Nhiệm khiêm cung trả lời: “Nhưng con đâu có trí nhớ siêu việt như thầy Anan?” Thầy cười: “Con không cần trí nhớ của thầy Anan tại vì con đã có một chiếc iPod, để trong túi kinh của thầy”. Và hai thầy trò nhìn nhau cười rất tâm đắc.

Viết tới đây thầy bỗng nghĩ đến tuyết, tuyết đang rơi ở Waldbröl nơi Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu. Tuần trước, sư cô Song Nghiêm điện thoại qua, nói tuyết đã rơi và đã cao lên tới 10 phân, cảnh tượng ở Waldbröl đang đẹp diệu kỳ và mời thầy sang bên ấy để chơi với các con của thầy. Thì thầy đang ở bên ấy, các con không thấy hay sao? Thầy cũng đang ở Bích Nham, Lộc Uyển, Cây Phong, Sen Búp, Mộc Lan, Bát Nhã, Từ Hiếu, Hohenau, Suối Thương và nhiều nơi nữa! Phải thấy thầy nơi mình đang ngồi, đang đứng. Các sư em ở Bát Nhã có nhớ bài thi đố của sư anh Pháp Lâm không? Thầy không phải đang ở Ấn Độ mà thôi đâu. Đã nghe Thiền sư Vô Ngôn Thông nói: “Đây là Ấn Độ, Ấn Độ là đây” (Tây thiên thử độ, thử độ tây thiên) chưa? Thầy nhớ tới chiếc võng treo ở rừng cây phía sau Học viện. Trước khi qua, thầy đã viết thư cho các con của thầy ở bên Đức. Thầy nói có vị nào có võng mang tới cho thầy mượn. Thầy sẽ treo võng ngoài vườn và sẽ ngồi võng chơi với các con, ăn mừng Trung Tâm mới. Không biết vị nào đã chuyền lá thư ấy đi và hôm thầy tới, 14.09.08, thì các vị thị giả báo cáo là có tất cả 149 cái võng đã được mang tới. Mùa hè tới thầy trò mình sẽ tha hồ thực tập thiền võng ở bên ấy.

Viết thư cho các con của thầy, viết mấy cho đủ, thầy tạm dừng ở đây. Thầy sẽ gặp lại các con trước giờ giao thừa năm Kỷ Sửu trong buổi bình thơ cuối năm. Thầy chúc tất cả các con của thầy thật hạnh phúc và chế tác được rất nhiều tình huynh đệ.


Áo vách đá, áo vách núi, và áo núi lam

Viện Vô Ưu, Walbröl, 06.05.09.
Thân gởi các con của thầy ở Bát Nhã, và ở khắp nơi.

Hồi hôm ngủ ở đây, thầy đã nằm mơ thấy mình đang leo núi với Bụt, và với bé Hải Triều Âm. Lúc đó khoảng hai giờ khuya bên này, tức là vào khoảng tám giờ sáng ở Việt Nam.

Trong giấc mơ, thầy thấy Bụt còn trẻ lắm, khoảng 60 tuổi, còn thầy thì độ 50 tuổi và bé Hải Triều Âm thì 10 tuổi. Bụt không đầy đặn, phúc hậu như thầy Lệ Trang, mà hơi ốm ốm cao cao như thầy Pháp Hộ. Bụt leo núi thoăn thoắt; thầy đi theo sát Ngài, thầy leo cũng khá giỏi, còn bé Hải Triều Âm thì khỏi nói. Bụt và thầy không cần đợi nó. Tuy làm thị giả nhưng bé Hải Triều Âm chẳng mang theo trà nước gì cả, chỉ mang theo một chiếc túi kinh màu nâu, trong đó không biết có chứa gì không. Bụt không mang bát, thầy không mang bát, và bé Hải Triều Âm cũng chẳng mang theo bát của nó. Thầy và bé Hải Triều Âm đang đóng vai làm thị giả cho Bụt thay thầy A Nan. Nhưng thầy và bé Hải Triều Âm làm sao làm khéo như  thầy A Nan, tại vì hai thầy trò đâu có giúp được gì cho Bụt, kể cả việc mang y và bát cho Ngài.

Núi mà Bụt, thầy và bé Hải Triều Âm đang leo hơi giống núi Thứu, nhưng không phải là núi Thứu. Ở đây, ngoài những vách đá màu lam, còn có những vách đá sừng sững màu nâu, khó leo hơn ở núi Thứu nhiều. Leo hết tầng này đến tầng khác, những tầng núi liên tiếp hiện ra trông hùng vĩ vô cùng. Thầy không thấy mệt mà chắc bé Hải Triều Âm cũng không biết mệt. Được leo núi với Bụt là một diễm phúc lớn, làm sao thấy mệt cho được hở các con?

Trong cuộc đời thật, bé Hải Triều Âm, tức là thằng Tý trong sách Tý, chiếc lá ổi non và trong sách Tý, cây tre triệu đốt, năm nay đã suýt soát 40 tuổi, đã đậu bằng tiến sĩ luật, đã lập gia đình. Trong giấc mơ, bé Hải Triều Âm chỉ có 10 tuổi, vẫn thơ ngây chăm chú như những ngày còn sống ở cư xá Hồ Đào, Xóm Hạ, Làng Mai trong những năm đầu Làng mới mở cửa. Nó mặc một chiếc áo nhật bình màu khói hương, và đeo một chiếc túi vải màu nâu. Thầy mặc áo tràng màu nâu. Và điều lạ nhất là Bụt cũng mặc áo tràng màu nâu, chứ không khoác áo Tăng già lê theo kiểu Nam Tông. Xem bộ Bụt cũng ưa mặc áo tràng màu nâu, màu áo của giới xuất gia ở Việt Nam. Hoặc giả là Bụt muốn “đồng sự” với thầy và bé Hải Triều Âm nên đã mặc áo tràng để cùng leo núi cho vui? Sự thực là tại Làng Mai, có nhiều thầy gốc Thái Lan, Nhật Bản, Đại Hàn, Nam Dương, Sri Lanka, Lào, Campuchia… sau một thời gian sống chung với các thầy ở Tăng xá Xóm Thượng Làng Mai cũng đã cất y Tăng già lê của họ để mặc áo tràng nâu với các thầy mình cho vui, và chỉ khoác y của đất nước mình trở lại vào những dịp tụng giới và truyền giới như thầy Pittaya, thầy Sariputta, thầy Đạo Trị, thầy Ananda, sư chú Học Hiền… chẳng hạn.

Trong giấc mơ, có một lúc nào đó, Bụt dừng lại ngồi chơi ở bên một dòng suối từ vách núi chảy ra. Thầy và bé Hải Triều Âm cũng được ngồi hầu bên Ngài. Bé Hải Triều Âm tự nhiên lắm. Nó chắp tay nhìn lên Bụt, và hỏi chuyện với Bụt. Nó nói: “Bạch Đức Thế Tôn, thầy con nói, màu nâu của chiếc áo tràng mà các thầy và các sư cô ở Việt Nam thường mặc, tượng trưng cho nếp sống giản dị của người xuất gia, và cũng nói lên được sức mạnh của năng lượng bồ đề tâm của người xuất gia. Con cũng thương cái màu nâu đạm bạc ấy lắm. Nhưng tại sao mình lại gọi chiếc áo nâu đó là áo tràng? Áo tràng là áo gì, bạch Đức Thế Tôn?”

Bụt đưa mắt nhìn ra những dãy núi cheo leo rồi nhìn lại bé Hải Triều Âm bằng một cái nhìn rất dễ thương, Ngài nói: “Con có thể gọi chiếc áo tràng ấy là áo vách núi, áo núi đá, hoặc áo vách núi đá”.

Giấc mơ của thầy chấm dứt đột ngột sau câu nói của Bụt. Thức dậy, thầy tiếc ngẩn ngơ, tại vì giấc mơ đẹp quá. Thầy nằm thở, và cố ghi nhớ lại những chi tiết của giấc mơ. Câu nói của Bụt vừa được ghi lại ở trên, thầy chỉ bảo đảm là đúng khoảng 70% mà thôi. Hình như Bụt chỉ dùng một cái tên thôi, hoặc đó là áo vách núi, hoặc là áo núi đá, hoặc là áo vách núi đá. Nhưng có một điều chắc chắn là tên áo chỉ có hai chữ, hoặc là núi đá, hay đá núi, hoặc vách núi, hoặc vách đá, chứ không thể là vách núi đá, cái tên ba chữ quá dài. Thầy ghi lại tất cả cho chắc ăn, đứng về phương diện ý, chứ không phải Bụt đã dùng từng chữ rành rọt như thế.

Bé Hải Triều Âm là một chú tiểu mặc áo nhật bình màu lam, nghĩa là màu khói hương hay khói sương. Đó là màu núi đá trên núi Linh Thứu. Màu lam này không hẳn là màu xanh. Nó chỉ là màu khói sương, nó là màu áo nhật bình mà cũng là màu áo Gia đình Phật tử. Nó cũng đại diện cho sự thanh khiết nhẹ nhàng của khói hương, sương lam, và hùng khí của núi rừng. Núi Lam là vùng đất thiêng nơi vị anh hùng áo vải Lê Lợi chuẩn bị cuộc đánh đuổi quân Minh xâm lược. “Vầng ô lên, sương tan mờ trong mây núi”. Cho nên màu lam cũng là mầu của hùng lực. Chiếc áo tràng màu nâu mà các vị xuất gia Việt Nam đã sử dụng từ hai ngàn năm nay cũng đại diện cho nếp sống lành mạnh và đạm bạc của người dân quê Việt Nam. Dân quê Việt Nam ưa mặc màu nâu. Các cô thôn nữ Việt Nam ngày xưa và cả bây giờ mặc áo dài màu nâu non rất đẹp. Màu nâu thầm lặng đơn sơ và có nhiều hùng lực. Cho nên thầy đã từng nói với bé Hải Triều Âm là các vị xuất gia trẻ đệ tử của thầy nên giữ lấy màu nâu ấy của truyền thống Phật giáo Việt Nam, và chỉ nên đắp y vàng trong những lễ truyền giới và tụng giới. Bé Hải Triều Âm đã nhớ điều đó, và đã thỏ thẻ bạch lên Đức Thế Tôn trong chuyến leo núi hôm qua. Giờ này, ngồi viết thư cho các con, nhớ tới hình ảnh của Đức Thế Tôn trong chiếc áo tràng màu nâu, thầy cảm thấy rất vui. Đức Thế Tôn “đồng sự” với mình đó. Thầy tính đề nghị với các con là từ nay, mình gọi áo nhật bình màu lam là áo núi lam, và gọi chiếc áo tràng màu nâu là áo vách núi. Ở các tu viện Lộc Uyển và Bích Nham có những vách núi rất cheo leo mà các thầy các sư cô mình hay ưa trèo lên. Vách đá cheo leo là một cụm từ rất thiền. Nó tượng trưng cho một con đường khó đi, nhưng leo tới được thì hạnh phúc vô cùng. Con đường xuất gia cũng là một con đường khó đi, nhưng rất đẹp. Chúng ta đều đang được leo núi với Đức Thế Tôn. Thi sĩ Nguyễn Công Trứ cũng đã có khi muốn bỏ tất cả để được đi leo núi. Ông có nói tới một cây thông đứng vững chãi trên sườn núi cheo leo, độc lập không bị hệ lụy vào bất cứ vào một tình huống nào. Đó đích thực là hình ảnh của một người xuất gia. Ông viết:

“Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Giữa vùng vách đá cheo leo                                                                                                       

Ai mà chịu rét thì trèo với thông”.                                                                                                                                                   

Thầy trò mình tuy rất ưa leo lên các vùng vách đá, nhưng thầy trò mình vẫn muốn kiếp sau cứ được làm người như thường. Bài sám Quy mạng của chúng ta trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 có câu:

“Kiếp sau xin được làm người 

Sinh ra gặp pháp, sống đời chân tu 

Dắt dìu, nhờ bậc minh sư

Nương vào chánh tín, hạnh từ xuất gia”.

Thầy rất hạnh phúc mỗi khi nhớ tới là thầy trò chúng ta trong giờ phút hiện tại đang được cùng nhau leo lên ngọn đồi thế kỷ thứ hai mươi mốt. Chúng ta đã leo gần được mười năm rồi (năm nay đã là năm 2009). Năm 2050, chúng ta sẽ đứng trên đỉnh đồi và chắc chắc là khi nhìn xuống sẽ thấy đẹp lắm, không thua gì đứng trên núi Thứu. Thầy Giác Thanh đệ nhất trụ trì tu viện Lộc Uyển trước giờ thị tịch đã được thầy trao một bài kệ (1), và sau khi thị tịch còn được thầy trao thêm một câu đối. Câu đối như sau:

“Một lá ngô đồng rơi, người vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ                                                    

Ngàn hoa thủy tiên hé, đất cứ theo trời hát khúc vô sinh”.

Hai câu này đã được khắc trên tháp kỷ niệm của thầy Giác Thanh tại một vách đá cheo leo trên tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.

Trong truyền thống Thiền, có một tác phẩm rất nổi tiếng bình giảng về các công án Thiền, đó là sách Bích Nham Lục. Nham là vách đá. Bích là màu xanh lam. Núi Yên Tử nơi Trúc Lâm Đại Sư Trần Nhân Tông tu học và hành đạo cũng là một vùng đất thiêng, đầy sương khói màu lam. Màu áo của chúng ta có truyền thống lâu đời, các con nhớ giữ cho được hai màu áo ấy, màu lam và màu nâu.

Ở Bát Nhã không có vách núi cheo leo nhưng thầy trò mình cũng đã leo đồi xuống suối nhiều lần, và lần nào cũng có rất nhiều hạnh phúc. Con đường xuất gia không phải là một xa lộ êm ái mà là một con đường cheo leo. Các con đã leo núi rất giỏi. Bé Hải Triều Âm đã leo núi rất giỏi, vì có Bụt cùng leo. Thầy cũng vậy. Cho nên thầy trò ta đều đang có nhiều hạnh phúc, dù vẫn còn gặp những khó khăn. Các con là những người xuất gia hay tại gia đã từng lên tu tập ở Bát Nhã hay các đạo tràng khác như Từ Hiếu, Bích Nham, Lộc Uyển, Đình Quán, Trúc Lâm, Diệu Trạm… tất cả các con đều là bé Hải Triều Âm của thầy, vẫn còn giữ được tâm hồn vô tư trong sáng của người trẻ tuổi có chí nguyện độ đời. Dù chưa phải là người xuất gia, các con cũng có thể sử dụng hai màu áo ấy. Cái cách chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm, tu tập trong niềm vui, và chế tác tình huynh đệ hàng ngày đủ để làm cho mọi người trong xã hội nhận ra được chúng ta là ai.

Chúng ta là sự nối tiếp của Bụt và chư Tổ sư, trong đó có Trúc Lâm Đại Sĩ, Thiền sư Lâm Tế, Thiền sư Liễu Quán và Thiền sư Nhất Định. Chúng ta đi như một dòng sông, và chúng ta cũng đồng thời đang leo đồi thế kỷ với rất nhiều niềm vui.

Thầy đang ở tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu trong một chương trình hướng dẫn tu tập cho thiền sinh người Đức. Mấy hôm nay, người trẻ Đức tới tu tập đông lắm. Ngày thứ sáu, 08.05.09 tới đây, Tăng đoàn áo đá vách núi đã được ông Thị trưởng thành phố mời tới tòa thị chính để chào mừng, vì đây là lần đầu tiên có những ngày quán niệm được tổ chức tại thành phố xinh đẹp này. Các thị giả của thầy, thầy Pháp Hy và thầy Pháp Hữu sẽ kể chuyện cho các con nghe về những sinh hoạt đang diễn ra tại miền trái tim của Châu Âu.

Hẹn các con ở thư sau.
Thầy của các con,

Nhất Hạnh

___________________________________________________

(1) Trượng phu tiếng đã biết

Việc cần làm đã làm

Tháp vừa dựng sườn núi

Tiếng cười trẻ đã vang.

Tiếp nối sự nghiệp chư Tổ

Nhật Tụng Thiền Môn 2000_
_nhattungthienmon-2010-phuongnam-2009__
chantingfromtheheart__ chantsducoeur-france-2009

Phương khê, 20.05.2009
Thân gởi các con của thầy ở Từ Hiếu, và khắp nơi,

Các con hãy cùng thầy hình dung cái không khí vui tươi của Tổ đình Từ Hiếu vào ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức là ngày 16.02.1897, cách đây 112 năm. Hồi đó, Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ đang làm trú trì chùa Từ Hiếu và Ngài đã làm trú trì được 50 năm rồi! Chùa mới được trùng tu trở lại trước đó hai năm, có lầu chuông, lầu trống và tiền đường mới. Hôm ấy, rằm tháng Giêng Đinh Dậu (1897) vừa mới ăn Tết xong, đại chúng làm lễ khởi sự khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng! Các nghệ sĩ khắc bản làm việc rất vui. Sách Thiền Môn Nhật Tụng có 126  trang, và phải khắc tới 68 bản gỗ. Khắc xong sách Thiền Môn Nhật Tụng, chùa lại còn khắc kinh Báo Phụ Mẫu Ân nữa. Đây là công tác văn hóa của Tổ đình để phục vụ cho hành giả trong tỉnh Thừa Thiên và các tỉnh lân cận.

Hồi ấy chưa có chùa nào có Đại Tạng Kinh, cả ở trong cung vua cũng không có, kinh sách rất hiếm, và sách Thiền Môn Nhật Tụng lại là sách cần thiết nhất cho các chùa. Sư tổ Hải Thiệu-Cương Kỷ hồi đó đã  87 tuổi. Sư tổ có một thị giả trẻ tuổi tên là điệu Kỉnh, 14 tuổi, mà Sư tổ rất thương yêu và tin cậy. Chú Nguyễn Hữu Kỉnh được vào chùa làm điệu năm 11 tuổi và chú đã theo hầu Sư tổ những lúc Sư tổ đi giám sát các nghệ nhân đang khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng. Chú điệu ấy chính là Sư Ông của các con và là Thầy bổn sư của thầy. Chú chính là Sư tổ Thanh Quý Chân Thật của chúng ta sau này.

Hơn một năm sau đó, Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ viên tịch, và tổ Thanh Thái Huệ Minh, đệ tử của Sư tổ, lúc ấy đang làm tri sự Tổ đình Từ Hiếu, đã có ý cho điệu Kỉnh được thế độ làm sa di ngay trước linh sàng của Sư tổ Hải Thiệu, để chú Kỉnh được làm vị đệ tử cuối của Sư tổ với pháp danh là Thanh Quý và pháp tự là Chân Thật. Đó là ngày 2 tháng 3 năm Mậu Tuất  ( 23.03.1898). Thanh Quý có nghĩa là người đệ tử cuối cùng mang chữ Thanh; và pháp hiệu Chân Thật nói lên được tính tình và bản chất của sư chú Thanh Quý. Ai trong sơn môn sau này cũng công nhận là Sư tổ Thanh Quý là một vị cao tăng mà đức độ chân thật khó có người bì kịp. Sư Ông của các con, sa di Thanh Quý, hiệu Chân Thật có một người sư chị rất dịu hiền, pháp danh là Thanh Linh, pháp tự là Diên Trường, được thọ giới sa di ni trước Sư Ông của các con một năm (1898). Sư chị của Sư Ông các con tên là Nhàn, sinh năm 1863, là cháu ngoại của Tùng Thiện Vương, một nhà thơ nổi tiếng của triều Nguyễn. Chính Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ đã làm lễ truyền giới sa di ni cho sư chị, và Sư Ông của các con đã có mặt trong lễ truyền giới ấy. Ni sư Diên Trường sau này đã thành lập các chùa Phổ Quang và Trúc Lâm làm cơ sở tu học cho ni giới. Các ni viện đầu tiên ở Huế là do ni sư Diên Trường thành lập. Năm 1924 (Giáp Tý) trong Đại Giới Đàn tại chùa Từ Hiếu do tổ Thanh Thái Huệ Minh tổ chức, Ni sư Diên Trường đã đứng ra làm y chỉ sư cho các giới tử thọ giới sa di ni và tỳ kheo ni. Thầy rất mừng khi biết ở ni viện Diệu Trạm các con đã thiết lập bàn thờ để thờ Ni sư Diên Trường. Các ni viện khác có gốc rễ từ Tổ đình Từ Hiếu khắp nơi cũng nên làm như thế, bởi Ni sư Diên Trường là vị Ni tổ của tất cả các sư cô thuộc môn phái Từ Hiếu.

Bây giờ thầy xin trở về với sách Thiền Môn Nhật Tụng. Sách Thiền Môn Nhật Tụng của Tổ đình Từ Hiếu có một bài tựa viết chung cho hai sách Thiền Môn Nhật Tụng và Kinh Báo Ân. Bài tựa này được viết ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức là ngày 16.02.1897. Bài tựa nói đến gốc gác của chùa Từ Hiếu, am An Dưỡng do Tổ sư Nhất Định dựng lên, và công lao của Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ trong buổi đầu tạo dựng Tổ đình Từ Hiếu (1848) và gần 50 năm sau, khi đại trùng tu lại Tổ đình (1895) cũng như trong việc chủ trương khắc bản in kinh. Hồi còn tập sự xuất gia tại Tổ đình, thầy đã có cơ hội được phụ tá các sư chú lớn in kinh Thiền Môn Nhật Tụng. Các sư anh đã tổ chức in kinh tại lầu trống của Tổ đình và thầy đã học được cách in kinh với mực tàu và giấy bản. Thầy đã sử dụng một chiếc lá mít hái ở vườn chùa để xoa lên lưng giấy cho mực được in vào đầy đủ trên trang giấy. Có được một bản sách Thiền Môn Nhật Tụng cho riêng mình để học hỏi, thầy rất hạnh phúc. Thầy học thuộc lòng hai buổi công phu rất nhanh. Chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi và mười bài chú khác thầy cũng đã học thuộc lòng trong vòng hai tuần lễ.

Năm 2007, trong chuyến về Việt Nam, thầy đã có dịp chỉ cho một số các thầy, các sư cô Làng Mai tháp tùng phái đoàn được thấy các bản gỗ của sách Thiền Môn Nhật Tụng này và nhờ thầy Từ Hòa in thử một trang cho mọi người cùng thấy. Nếu có dịp các con cũng nên học cách in như thầy đã từng in năm ấy. Ngoài các kinh Thiền Môn Nhật Tụng và Báo Ân còn có kinh Đại Hạnh Phổ Hiền, bản khắc rất đẹp, các con nhớ in thử cho biết.

Tuy là công việc khắc bản Thiền Môn Nhật Tụng được bắt đầu vào ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu (16.02.1897) nhưng chắc chắn trước đó nhiều tháng, bản chính của sách trong đó có bài tựa đã được chuẩn bị viết  xuống đầy đủ rồi, nét chữ viết rất đầy đặn và đẹp. Mỗi trang có bảy dòng, mỗi dòng có mười bảy chữ. Nghi thức cuối cùng trong sách là Nghi thức lạy Báo ân gồm có 27 lạy, trong đó có danh hiệu các tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, Minh Hoằng Tử Dung, Hoán Bích Nguyên Thiều và Thật Diệu Liễu Quán.

Đúng 100 năm sau ngày khởi sự khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng tại Tổ đình Từ Hiếu thì sách Nhật Tụng Thiền Môn 2000 được ấn hành tại Âu Châu và Mỹ Châu, hoàn toàn bằng quốc văn. Sự kiện này được xảy ra năm 1997 và cũng vào mùa Xuân. Sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 cũng đã được chuẩn bị trong suốt 15 năm trước khi được ra đời. Thầy trò chúng ta ở Đạo Tràng Mai Thôn đã làm việc trong từng ấy năm tháng để hôm nay sách được cống hiến cho các hành giả khắp nơi, không những bằng tiếng Việt Nam mà còn bằng nhiều thứ tiếng khác nữa. Sách Thiền Môn Nhật Tụng của chúng ta hiện giờ rất giàu có, ấn bản nào cũng dày trên ba trăm trang, với rất nhiều kinh văn, nghi thức, thi kệ, sám văn và hồi hướng. Tháng 4 năm 2009 vừa qua, chúng ta mới cho ra đời bản tiếng Pháp của sách Nhật Tụng Thiền Môn, với tựa đề là Chants du Coeur, do nhà xuất bản Sully ấn hành, 318 trang. Trước đó sách cũng đã được ấn hành bằng tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý.

Thầy trò chúng ta có cơ hội nối tiếp sự nghiệp chư Tổ một cách thiết thực và nhờ đó, thầy trò chúng ta đang có rất nhiều hạnh phúc. Hiện thời, ở quê hương, chúng ta có hai ấn bản đều mang tên Nhật Tụng Thiền Môn năm 2010. Ước muốn của chúng ta là cứ mỗi mười năm thì sách Thiền Môn Nhật Tụng lại được tu chỉnh một lần để nội dung sách được tiếp tục giàu có hơn, sáng đẹp hơn và phục vụ hữu hiệu hơn cho hành giả khắp chốn. Ấn bản Miền Nam của sách vừa được Phương Nam Book ấn hành, hình thức rất đẹp và rất trẻ. Ấn bản này có mang thêm bài tựa của Thượng tọa Lệ Trang, một vị thầy rất có uy tín và thẩm quyền trong lĩnh vực nghi lễ…

Thầy biết các con của thầy ở Từ Hiếu và Diệu Trạm vừa được đi gặt lúa xong và đang chuẩn bị cho Mùa An Cư Kiết Hạ. Thầy được biết là các vị tôn túc ở Huế đã đáp lời mời của Tổ đình đến dự Lễ Trai Đàn Chẩn Tế rất đông, và các con đang được liệt vị thương tưởng và đùm bọc hết lòng. Đây là một phước đức lớn, đây là ân huệ của chư Tổ. Các con phải bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tu học cho tinh tiến, ngày nào cũng chế tác và nuôi dưỡng tình huynh đệ. Thực tập chánh niệm, mỗi bước chân các con đi cho thầy, cho Sư Ông, cho chư Tổ, và với mỗi bước chân như thế, các con có thể tiếp nhận được năng lượng của chư Tổ, dù là trước sân chánh điện, trên con đường lên thiền đường Trăng Rằm, bên hồ Sao Mai, trước đồi Dương Xuân hay trên Lăng Viện. Chư Tổ đã từng bước đi trên những lối đi ấy, Sư Ông đã từng bước đi trên những lối đi ấy, và thầy cũng đã từng bước đi trên những lối đi ấy. Đi như thế thì mỗi bước chân là phép lạ, mỗi bước chân là thảnh thơi, mỗi bước chân là trị liệu, mỗi bước chân là hạnh phúc. Chúng ta đi cho cha mẹ, cho tổ tiên, cho dòng họ, cho quê hương, cho đất nước, cho nhân loại. Hạnh phúc là cái gì có thật trong giây phút hiện tại. Chúng ta được may mắn làm con cháu của chư Tổ, chúng ta nguyện sống xứng đáng để có thể tiếp tục được sự nghiệp của các Ngài.

Thầy gửi tới các con niềm tin cậy và thương yêu của thầy.
Thầy của các con,

Nhất Hạnh

_____________________________
T.B: Thầy gửi theo đây bài kệ tán dương Ni sư Diên Trường, nguyên tác chữ Hán của Thiền sư Viên Thành, bản dịch của thầy.
Hình ảnh kèm theo: tổ Nhất Định, tổ Cương Kỷ, tổ Tâm Tịnh, tổ Huệ Minh, Chanting from the Heart, Nhật Tụng Thiền Môn 2000, Nhật Tụng Thiền Môn 2010 ấn bản Miền Bắc, Nhật Tụng Thiền Môn 2010 ấn bản Miền Nam, Chants du Coeur.

Có bài thơ tán dương Ni sư Diên Trường do Sư tổ Viên Thành tặng (VNPGSL, trg 153 – 154)

Thiện tai nữ đạo sư                
Giải thoát nhân trung kiệt     
Thịnh Niên xã thế vinh            
Phỏng đạo ngộ thiền duyệt    
Bát kính thị căn trì                  
Trường trai thủ tố tiết            
Uẩn giới phù vân không      
Phiền não hải thủy kiệt       
Giác mộng cảnh thừ chung   
Độ mê tạo bảo phiệt               
Công đức mãn chiên lâm          
Thanh lương đẳng tuệ nguyệt   
An ổn tọa bồ đoàn                     
Liễu chứng vô sinh quyết          
Sơn sắc thanh tịnh thân             
Khê thanh quảng trường thiệt  
Tích lai bản bất sinh                 
Kim khứ hà tằng diệt                 
Siêu nhiên bỉ ngạn đăng            
Liên đài diệu hương khiết
Lành thay nữ đạo sư
Bậc Giải thoát hào kiệt
Bỏ vinh hoa cuộc đời
Tìm vui nơi thiền duyệt
Pháp bát kỉnh hành trì
Nếp trường trai tinh khiết
Uẩn, giới như mây bay
Biển não phiền khô kiệt
Chuông khua tỉnh thức đời
Bè từ độ oan kết.
Công đức như rừng trầm
Mát như vầng tuệ nguyệt
An nhiên bồ đoàn ngồi
Chứng quả vô sinh diệt
Lời kia là suối reo
Thân kia là núi biếc
Xưa chưa hề có sinh
Nay cũng chưa từng diệt
Bờ bên kia bước lên
Đài sen hương diệu khiết

Hạnh nguyện

Phương Khê nội viện, mùa xuân, ngày 31 tháng 05 năm 2009,
Thân gửi các con của Thầy, gần và xa!

Công phu sáng trong sách “Thiền môn nhật tụng” có một bài văn sám mà ngày xưa khi còn làm sa di Thầy rất thích tụng. Văn của bài sám rất hay, và nội dung của bài sám rất có công năng nuôi dưỡng chí nguyện của người tu. Mỗi lần tụng đọc bài sám, chú Phùng Xuân thường để cho lời kinh ôm ấp thấm sâu vào từng huyết quản, từng tế bào của cơ thể. Bài sám văn này là một giấc mơ thật đẹp của người tu, và Thầy rất biết ơn Thiền sư Di Sơn đã viết ra bài sám văn ấy. Các con cũng đã biết bài ấy rồi, đó là bài Sám Quy Mạng. Tên của nó là Phát Nguyện Văn. Tác giả bài Sám Quy Mạng (Phát Nguyện Văn) này là Thiền sư Kiểu Nhiên đời Đường, văn chương rất lỗi lạc. Những văn bia về các Thiền sư sơ kỳ Thiền Tông đều do một tay Ngài viết. Di Sơn là tên núi; vì kính quý Ngài nên dân chúng gọi Thiền sư là Di Sơn thay vì Kiểu Nhiên. Thiền sư họ Tạ, tự là Thanh Trú. Tác phẩm để lại cho đời là “Trữ sơn tập”, mười cuốn.

Trong sách “Nhị khóa hợp giải”, Thiền sư Quán Nguyệt có nói: “Nếu bạn không thích bài Sám Quy Mạng này thì có thể thay vào bằng một bài khác như bài Khế Thủ, bài Thập Phương Tam Thế Phật, hay bài Nhất Tâm Quy Mạng”. Nhưng ai lại không thích bài Sám Quy Mạng này! Thầy nghĩ là đã có biết bao nhiêu thế hệ người trẻ xuất gia đã được bài Sám này nuôi dưỡng, vỗ về và an ủi. Hồi chưa tới tuổi hai mươi, Thầy đã có ước mơ dịch bài này ra quốc văn. Và giấc mơ ấy đã được thành tựu khi Thầy còn là một vị giáo thọ trẻ tuổi giảng dạy tại Phật Học Đường Nam Việt. Thầy đã dịch bài Sám Quy Mạng ra tiếng Việt trong thể thơ lục bát. Nhiều vị học tăng và học ni thời ấy của Phật Học Đường Nam Việt (Chùa Ấn Quang) đã học thuộc lòng. Và bài Sám ấy hiện đang có mặt trong sách “Nhật tụng thiền môn 2010” của chúng ta.

Phần lớn những câu văn trong bài Sám đều là những câu bốn chữ hay sáu chữ, xen lẫn với nhau rất khéo léo, thành ra âm điệu bài tụng có lúc thì êm dịu, có lúc thật trầm hùng.

“Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên được gặp một vị Thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu căn của con đều sẽ được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được thuần hòa. Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc đời phạm hạnh thanh cao. Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian, con sẽ thực tập các uy nghi một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé”.

“Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại thừa, nhờ vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới thành tựu được”.

Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không? Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh nguyện Bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như thế?

Các con hãy cùng Thầy đọc tiếp:

“Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi Tam Bảo sẽ mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai. Con sẽ phụ tá cho chư Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một kiếp”.

“Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền”.

“Ngay trong cõi này và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”.

“Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng: bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề và lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”.

“Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”.

“Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo cứu đói”.

“Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”.

“Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ”.

“Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có chỗ cùng. Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt tới quả vị nhất thiết chủng trí”.

Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã tưới tẩm hạt giống Bồ đề của chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì mà chú cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều đó.

Lời kinh quá đẹp khiến sau này Thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu cho các vị thọ giới tại Làng Mai. Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm – hỏa hoạch băng hà chi địa biến tác hương lâm.”

Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần lực độ đời rất vĩ đại: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền – đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi nguyện hải”.  Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị Bồ tát lớn đang làm. Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm Bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi – phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ đề tâm, vĩnh xuất luân giao hồi khổ.” Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị Bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo.

Giấc mơ của bài Sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể biến thành hiện thực?

Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc Sám văn này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa, Thầy không đặt câu hỏi ấy. Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia có thể trở thành sự thực, nhưng Thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực. Những thập niên bốn mươi và năm mươi là những thập niên của đói kém của chiến tranh. Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức. Là một thầy tu trẻ Thầy đã từng đọc lịch sử Lý Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không? Đó là câu hỏi của Thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát. Có lẽ cái thấy ấy về đạo Bụt Lý Trần đã cho Thầy một niềm tin rằng giấc mơ của Sám Quy Mạng không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành hiện thực.

Hồi còn là vị giáo thọ trẻ ở Ấn Quang, Thầy đã dịch Sám Quy Mạng với một ngôn ngữ khiêm cung. Nguyên văn: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quán Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền” đã được Thầy dịch là “Mưa từ rưới khắp nhân thiên, mênh mông biển hạnh lời nguyền độ tha.” Nguyên văn: “Bất cứ ai thấy được dung mạo của con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi” đã được Thầy dịch là: Chỉ cần thấy dạng nghe danh, muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.” Mấy mươi năm ở hải ngoại không có cơ hội ôn lại bản dịch ấy, Thầy chỉ còn nhớ được một vài đoạn. May quá, Hòa thượng Như Huệ, Viện chủ chùa Pháp Hoa (ở Úc Đại Lợi) trong dịp về chứng minh đại giới đàn Nến Ngọc tổ chức ở Làng Mai mùa hè 1996 đã đọc lại cho Thầy chép xuống toàn bài. Hòa thượng Như Huệ đã từng là học tăng trong Phật học đường Nam Việt, và đã học thuộc lòng bản dịch của Sám văn Quy Mạng. Nhờ đó mà bản dịch ngày nay còn được giữ lại trong sách Nhật Tụng Thiền Môn. Thầy nghĩ là Thầy trò chúng ta cần đọc tụng Sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.

Khuya nay, trong giờ thiền tọa, chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực.

“Kiếp sau xin được làm người, sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt dìu nhờ bậc minh sư”, điều này ta đã thực hiện được.

“Sáu căn ba nghiệp thuần hòa, không vương tục lụy theo đà thế nhân, một lòng tấn đạo nghiêm thân, giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa”, đó là sự thực tập hành trì giới luật và uy nghi hàng ngày của chúng ta.

“Đạo tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không”, đó là những gì mà Thầy trò chúng ta đang nỗ lực thực hiện. Tăng thân hiện giờ đang có mặt khắp nơi, mỗi quốc gia trên thế giới đều có hàng chục hoặc hàng trăm đoàn thể tu học theo pháp môn chánh niệm, gọi là Tăng thân chánh niệm (Communities of mindful living). Những thành phố lớn như: Nữu Ước, Luân Đôn, Los Angeles, Paris, Amsterdam, Berlin, đều đã có nhiều Tăng thân. Những khóa tu tổ chức khắp nơi, những tác phẩm viết về đạo Bụt đi vào cuộc đời đã trở thành một mạng lưới chánh pháp có mặt khắp nơi, đang nỗ lực phá tan được những ngộ nhận và nghi ngờ đối với đạo Bụt, cho thế giới thấy rằng đạo Bụt là một nền nhân bản có tính khoa học, không phải là tôn giáo thần quyền, mê tín dị đoan, tiêu cực yếu đuối. “Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không” là như thế.

“Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung”. Chúng ta đã đào tạo được khá nhiều các vị giáo thọ và giáo thọ tập sự, xuất gia và tại gia, số người tiếp nhận truyền đăng cho đến nay đã lên tới trên 300 vị.

“Thuốc thang cứu giúp cho đời, áo cơm cứu giúp cho người bần dân, bao nhiêu lợi ích hưng sùng, an vui thực hiện trong vòng trầm luân”. Đây là công tác xã hội, đây là một phần của đạo Phật ứng dụng, của đạo Phật đi vào cuộc đời.

Chúng ta đã lập được Trường Thanh niên Phụng sự xã hội đào tạo trên 600 tác viên và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các làng Hoa Tiêu và làng Tự Nguyện để nâng cao phẩm chất sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức. Các tác viên xã hội đã làm việc cứu trợ nạn nhân chiến tranh, chăm sóc các trại tị nạn, có trại lên đến 11.000 người, thành lập các trung tâm định cư trên những vùng đất mới, tái thiết lại những làng bị bom đạn tàn phá. Chúng ta có Ủy ban Tái thiết và Phát triển xã hội, làm việc với Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1972 – 1975). Chúng ta đã có chương trình bảo trợ trên 10.000 trẻ em mồ côi vì chiến tranh. Chúng ta đã có chương trình Máu Chảy Ruột Mềm cứu trợ thuyền nhân trên biển. Chúng ta đã thành lập tổ chức Pour les Enfants du Vietnam, rồi Partage avec les Enfants du Monde, cứu giúp cho trẻ em 17 nước trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã có chương trình Hiểu và Thương, để cứu trợ lũ lụt, giúp trẻ em nghèo thiếu ăn và thất học, mở lớp dạy nghề, xây cầu, đào giếng nước ngọt, mở những lớp học bán trú ở các vùng sâu vùng xa, trả lương một ngàn cô giáo và bảo mẫu. (*)

Cái hay là ở chỗ trong khi làm công tác xã hội, các thành phần trong Tăng thân vẫn giữ được sự thực tập giới luật, thiền ngồi, thiền đi, xây dựng tình huynh đệ và học đi như một dòng sông…

“Không có công việc nào lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan – đản hữu lợi ích vô bất hưng sùng”, đó là hạnh nguyện của chúng ta.

Các vị giáo thọ của chúng ta, trong đó có rất nhiều vị còn ở tuổi thanh xuân, đang thực sự mang đạo Bụt đi vào cuộc đời, một đạo Bụt nhập thế. Chúng ta đã mở những khóa tu đặc biệt để giúp cho mọi giới, những khóa tu dành cho giới làm công tác xã hội, giới văn nghệ sĩ, tài tử điện ảnh… có khóa tu đông đến  2.000 người như khóa tại Washington DC cho các nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu, những khóa tu dành cho giới giáo chức, dành cho giới thương gia, dành cho giới y sĩ và y tá, dành cho các nhà chính trị và dân biểu quốc hội, dành cho giới cảnh sát và nhân viên công lực, giới tranh đấu cho hòa bình và nhân quyền, giới bảo hộ sinh môi… Chúng ta đã đi vào các bệnh viện và các nhà tù để giúp tổ chức tu tập và chuyển hóa…

Từ đạo Bụt nhập thế chúng ta đi vào đạo Bụt ứng dụng. Chúng ta mở phong trào Wake Up cho các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới, những đoàn thể tu tập theo chánh pháp để phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi. Chúng ta lập Viện Phật học Ứng dụng, cung cấp các khóa tu cho giới phụ huynh có khó khăn với con cái, cho giới thanh niên thiếu nữ đang có khó khăn với bố mẹ, cho những ai vừa khám phá ra là mình bị bệnh nan y, cho những ai có người thân mới mất. Ai cũng có thể đến để ghi tên học hỏi và thực tập mà không cần phải quy y. Chúng ta cống hiến đạo Bụt cho thế giới không phải một tôn giáo mà một nghệ thuật sống với những phương pháp chuyển hóa và trị liệu… Chúng ta đang nỗ lực thực tập để bảo hộ sinh môi, tự mình thực tập và kêu gọi mọi người thực tập sống như thế nào để có thể có được một tương lai cho trái đất, để chuyển ngược được quá trình hâm nóng địa cầu. Tu viện Lộc Uyển của chúng ta hiện giờ đã hoàn toàn chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Tất cả các đạo tràng và các Tăng thân của chúng ta trên thế giới đang thực tập tiêu thụ trong chánh niệm, mỗi tuần có một ngày không sử dụng xe hơi, xe gắn máy… Tất cả những điều này chứng tỏ là chúng ta đang quyết tâm thực hiện giấc mơ mà không phải chỉ ngồi đó để quán tưởng và để cho bài Sám ru chúng ta trong một giấc mơ thật đẹp.

Trong những năm gần đây, đạo Bụt với sự thực tập chánh niệm đã dần dần đi vào các lĩnh vực y học, khoa học, luật học và xã hội học. Tinh thần bất nhị và bao dung, không kẹt vào giáo điều của đạo Bụt bắt đầu được thế giới nhận biết, và trên bước đường toàn cầu hóa đạo Bụt có thể góp phần quan trọng trong việc chế tác một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Chúng ta biết giấc mơ có thể và đang trở thành hiện thực. Nếu chúng ta không bị vướng vào địa vị, tiền bạc, tiếng khen, chức vụ, v.v.., nếu chúng ta biết đi với Tăng thân như một dòng sông mà không phải như một giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để thực hiện được giấc mơ. Có phải thế không các con? Thầy mong các con đọc xong thư này thì góp ý với Thầy.

 

Thầy của các con,

Nhất Hạnh

________________________


(*) Chúng ta đã có những công tác tại các xóm nghèo Mã Lạng Quốc Thanh, Cầu Bông Bàn Cờ, và các lớp trung học miễn phí đêm (bắt đầu từ năm 1961, của Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn với các sinh viên Phật tử như: Huê Dương, Chiểu, Khanh, Chi, Nhiên, và Phượng). Chúng ta bắt đầu lập làng Tình Thương với Sư anh Nhất Trí của các con, và các chú Tâm Quang và Tâm Thái với hơn 100 sinh viên Phật tử trong đó có các chị Phượng, Thảo, Thanh, Uyên, Trà Mi, Phùng Thăng, Nga và Tuyết, các anh Quyền, Trâm, Nguyên, Tích, Thanh, Tài (1964 – 1965) và bà Hiệu. Chúng ta đã tổ chức những đoàn sinh viên đi lạc quyên để cứu lụt và cứu đói sau trận Hồng Thủy năm Giáp Thìn dọc theo hai bờ sông Thu Bồn lên đến thượng nguồn. Chúng ta đã lập trường Thanh niên Phụng Sự xã Hội (từ 1965 đến 1975), Ủy ban Tái thiết và Phát triển VN (từ 1971 đến 1975 dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Thiện Hòa). Các thầy Thanh Văn và Châu Toàn, Từ Mẫn, sư chú Phạm Phước… là những cánh tay Bồ tát điều động hàng ngàn tác viên, trợ tác viên và cảm tình viên xã hội đã thực hiện được bao nhiêu công tác giúp cho hàng chục ngàn đồng bào nạn nhân chiến cuộc. Trong công tác, bảy người trong chúng ta đã thiệt mạng trong đó có: Liên, Vui, Thơ, Tuấn, Hy, Lành và sư anh Nhất Trí của các con. Cô Bùi thị Hương bị mất một đoạn chân và anh Lê Văn Vinh phải suốt đời ngồi xe lăn. Chị Nhất Chi Mai (chị Cả trong 6 người Tiếp Hiện đầu tiên của các con) đã đem thân làm đuốc, để kêu gọi hai bên lâm chiến ngưng chém giết nhau (16.07.1967). Trong chương trình Máu Chảy Ruột Mềm trên biển Nam Hải, sư cô Chân Không, anh Luke Fogarty, chị Trang Fogarty, chị Kirsten Roep và chị Mobi Warren đã điều động vớt được 606 thuyền nhân trên biển (1976). Tiếp đó là chương trình thầm lặng cứu người bằng ghe đánh cá trên Vịnh Thái Lan do sư cô Chân Không tiếp tục điều động (1976 – 1978). Sau đó, chúng ta đã thành lập chương trình giúp thuyền nhân ở các trại tị nạn, an ủi và gửi phẩm vật cứu trợ, sách học Anh và Pháp ngữ, kinh Nhật Tụng cho các trại tị nạn như : Songklha, Trad, Sikkhiu, Chonburi… Chúng ta đã thành lập Chương trình Cứu trợ xã hội Hiểu và Thương và hoạt động âm thầm từ  năm 1975 tới bây giờ (2009). Tại hải ngoại, đã có chương trình Hiểu và Thương ấy, hoạt động ở Hà Lan (cùng với chị Kirsten Roep và bà Hebe Kohbrugge), ở Pháp có ba chương trình: Pour les Enfants du Viet Nam, Partage avec les enfants du Monde, và Partage (cùng với anh Pierre Marchand). Trong hai chương trình sau, chúng ta đã hoạt động để giúp trẻ em đói trong 17 nước nghèo trên thế giới trong đó có: Bangla Desh, Ấn Độ, Liban, Thái Lan, Brésil, Colombie… Chúng ta cũng có chương trình Từ Thị (Maitreya Fonds) tại Đức do anh Chân Pháp Nhãn – Karl Schmied  và chị Chân Diệu chủ trương và đang được tiếp nối bởi anh Chân Giác Lưu Christian Kaulf. Tăng thân Thụy Sĩ với chị Margrit Witwer và Tăng thân Ý Đại Lợi đã yểm trợ cho chương trình Hiểu và Thương. Tăng thân Thuyền Từ của chị Chân Ý và anh Chân Trí đã hỗ trợ hơn 600 trẻ em đói kém của chương trình Hiểu và Thương ở Quảng Trị và Thừa Thiên. Tăng thân Hoa Tuyết (Snow Flower Sangha) và anh Chân Thuyên bảo trợ cho hàng trăm giếng nước ngọt cho các gia đình đông con ở xa các vùng sâu vùng xa không có điện có nước. Anh Minh và chị Liên với chương trình Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời năm nào cũng hợp tác với Tăng thân Toronto hỗ trợ rất nhiều nạn nhân lũ lụt đói kém. Tổ chức Hussman Foundation ở Hoa Kỳ đã bảo trợ 57 cô giáo và bảo mẫu và hơn 700 trẻ em thiếu ăn vùng Bảo Lâm, Di Linh… cúng dường xây cất thiền đường ở Bát Nhã. Chị Lilian Cheung đóng góp xây dựng ni viện Diệu Nghiêm và Diệu Trạm.

Giấc mơ của một người tu trẻ

Phương Khê Nội Viện, mùa xuân 2009
Thân gửi các con của thầy, gần và xa!

Buổi công phu sáng trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có một bài văn sám mà ngày xưa khi còn làm sa di thầy rất thích tụng. Văn của bài sám rất hay, nội dung của bài sám có công năng nuôi dưỡng chí nguyện của người tu. Mỗi lần tụng đọc bài sám, chú Phùng Xuân thường để cho lời kinh ôm ấp thấm sâu vào từng huyết quản, từng tế bào của cơ thể. Bài sám văn này là một giấc mơ thật đẹp của người tu, và thầy rất biết ơn thiền sư Di Sơn đã viết ra bài sám văn ấy. Các con cũng đã biết bài ấy rồi, đó là bài Sám Quy Mạng. Tên của nó là Phát Nguyện Văn. Tác giả bài Sám Quy Mạng (Phát Nguyện Văn) này là thiền sư Kiểu Nhiên đời Đường, văn chương rất lỗi lạc. Những văn bia về các thiền sư sơ kỳ Thiền Tông đều do một tay Ngài viết. Di Sơn là tên núi; vì kính quý ngài nên dân chúng gọi thiền sư là Di Sơn thay vì Kiểu Nhiên. Thiền sư họ Tạ, tự là Thanh Trú. Tác phẩm để lại cho đời là Trữ Sơn Tập, mười cuốn.

Trong sách Nhị Khóa Hợp Giải, thiền sư Quán Nguyệt có nói: “Nếu bạn không thích bài Sám Quy Mạng này thì có thể thay vào bằng một bài khác như bài Khế Thủ, bài Thập Phương Tam Thế Phật, hay bài Nhất Tâm Quy Mạng”. Nhưng ai lại không thích bài Sám Quy Mạng này? Thầy nghĩ là đã có biết bao nhiêu thế hệ người trẻ xuất gia đã được bài Sám này nuôi dưỡng, vỗ về và an ủi. Hồi chưa tới tuổi hai mươi, thầy đã có ước mơ dịch bài này ra quốc văn. Và giấc mơ ấy đã được thành tựu khi thầy còn là một vị giáo thọ trẻ tuổi giảng dạy tại Phật Học Đường Nam Việt. Thầy đã dịch bài Sám Quy Mạng ra tiếng Việt trong thể thơ lục bát. Nhiều vị học tăng và học ni thời ấy của Phật Học Đường Nam Việt (Chùa Ấn Quang) đã học thuộc lòng. Và bài Sám ấy hiện đang có mặt trong sách Nhật Tụng Thiền Môn 2010 của chúng ta.

Phần lớn những câu văn trong bài Sám đều là những câu bốn chữ hay sáu chữ, xen lẫn với nhau rất khéo léo, thành ra âm điệu bài tụng có lúc thì êm dịu, có lúc thật trầm hùng.

“ Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên được gặp một vị thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu căn của con đều sẽ  được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được thuần hòa. Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc đời phạm hạnh thanh cao. Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian,con sẽ thực tập các uy nghi một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé “…”. Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại Thừa, nhờ vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba a tăng kỳ kiềp mới thành tựu được”

Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không? Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh nguyện bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như thế?

Các con hãy cùng thầy đọc tiếp:

“Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi tam bảo sẽ  mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai. Con sẽ phụ tá cho chư Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một kiếp”.

“Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền”

“Ngay trong cõi này và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”

“Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng : bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề và  lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”

“Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”

“Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo cứu đói”

“Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”

“Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ.”

“Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có chỗ cùng . Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt tới quả vị nhất thiết chủng trí.”

Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã  tưới tẩm hạt giống bồ đề của chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì  mà chú cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều đó.

Lời kinh quá đẹp khiến sau này thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu cho các vị thọ giới tại Làng Mai. Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm – hỏa hoạch băng hà chi địa biến tác hương lâm.”

Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần  lực độ đời rất vĩ đại: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện bồ tát Phổ Hiền – đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi nguyện hải -” Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị bồ tát lớn đang làm. Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi – phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát bồ đề tâm,vĩnh xuất luân giao hồi khổ”.  Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo.

Giấc mơ của bài sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể biến thành hiện thực?

Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc sám văn này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa, thầy không đặt câu hỏi ấy. Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia có thể trở thành sự thực, nhưng thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực. Những thập niên  bốn mươi và năm mươi là những thập niên của đói kém của chiến tranh. Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức. Là một thầy tu trẻ thầy đã từng đọc lịch sử Lý Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không? Đó là câu hỏi của thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát. Có lẽ cái thấy ấy về đạo Bụt Lý Trần đã cho Thầy một niềm tin rằng giấc mơ của sám Quy Mạng không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành hiện thực.

Hồi còn là vị giáo thọ trẻ ở Ấn Quang, thầy đã dịch sám Quy Mạng với một ngôn ngữ khiêm cung. Nguyên văn: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng  lượng từ bi của bồ tát Quán Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền” đã được Thầy dịch là “mưa từ rưới khắp nhân thiên, mênh mông biển hạnh lời nguyền độ tha”. Nguyên văn “Bất cứ ai thấy được dung mạo của con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi” đã được thầy dịch là : “Chỉ cần thấy dạng nghe danh, muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau”. Mấy mươi năm ở hải ngoại không có cơ hội ôn lại bản dịch ấy, thầy chỉ còn nhớ được một vài đoạn. May quá, Hòa thượng Như Huệ viện chủ chùa Pháp Hoa (ở Úc Đại Lợi) trong dịp về chứng minh đại giới đàn Nến Ngọc tổ chức ở Làng Mai mùa Hè 1996 đã đọc lại cho Thầy chép xuống toàn bài. Hòa thượng Như Huệ đã từng là học tăng trong Phật Học Đường Nam Việt, và đã học thuộc lòng bản dịch của Sám văn Quy Mạng. Nhờ đó mà bản dịch ngày nay còn được giữ lại trong sách Nhật Tụng Thiền Môn. Thầy nghĩ là thầy trò chúng ta cần đọc tụng sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.

Khuya nay trong giờ thiền tọa chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực.

“Kiếp sau xin được làm người , sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt dìu nhờ bậc minh sư” điều này ta đã thực hiện được.

“Sáu căn ba nghiệp thuần hòa, không vương tục lụy theo đà thế nhân, một lòng tấn đạo nghiêm thân, giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa”, đó là sự thực tập hành trì giới luật và uy nghi hàng ngày của chúng ta.

“Đạo tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không”, đó là những gì mà thầy trò chúng ta đang nổ lực thực hiện. Tăng thân hiện giờ đang có mặt khắp nơi, mỗi quốc gia trên thế giới đều có hàng chục hoặc hàng trăm đoàn thể tu học theo pháp môn chánh niệm, gọi là tăng thân chánh niệm (communities of mindful living). Những thành phố lớn như Nữu Ước, Luân Đôn, Los Angeles, Paris, Amsterdam, Berlin, đều đã có nhiều tăng thân. Những khóa tu tổ chức khắp nơi, những tác phẩm viết về đạo Bụt đi vào cuộc đời đã trở thành một mạng lưới chánh pháp có mặt khắp nơi, đang nổ lực phá tan được những ngộ nhận và nghi ngờ đối với đạo Bụt, cho thế giới thấy rằng đạo Bụt là một nền nhân bản có tính khoa học, không phải là tôn giáo thần quyền, mê tín dị đoan, tiêu cực yếu đuối. “ Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không” là như thế.

“Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung” Chúng ta đã đào tạo được khá nhiều các vị giáo thọ và giáo thọ tập sự, xuất gia và tại gia, số người tiếp nhận truyền đăng cho đến nay đã lên tới trên 300 vị.

“Thuốc thang cứu giúp cho đời, áo cơm cứu giúp cho người bần dân,bao nhiêu lợi ích hưng sùng, an vui thực hiện trong vòng trầm luân”. Đây là công tác xã hội, đây là một phần của đạo Phật ứng dụng, của đạo Phật đi vào cuộc đời.

Chúng ta đã lập được Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo trên 600 tác viên và và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các Làng Hoa Tiêu và  Làng Tự Nguyện để nâng cao phẩm chất sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức. Các tác viên xã hội đã làm việc cứu trợ nạn nhân chiến tranh, chăm sóc các trại tị nạn, có trại lên đến 11.000 người, thành lập các trung tâm định cư trên những vùng đất mới, tái thiết lại những làng bị bom đạn tàn phá. Chúng ta có Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội, làm việc với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1972-1975). Chúng ta đã có chương trình bảo trợ trên 10.000 trẻ em mồ côi vì chiến tranh. Chúng ta đã có chương trình Máu Chảy Ruột Mềm cứu trợ thuyền nhân trên  biển. Chúng ta đã thành lập tổ chức Pour les Enfants du Vietnam, rồi Partage avec les Enfants du Monde , cứu giúp cho trẻ em  17 nước trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã có chương trình Hiểu và Thương, để cứu trợ lũ lụt, giúp trẻ em nghèo thiếu ăn và thất học, mở lớp dạy nghề, xây cầu, đào giếng nước ngọt, mở những lớp học bán trú ở các vùng sâu vùng xa, trả lương một ngàn cô giáo và bảo mẫu (*)

Cái hay là ở chỗ trong khi làm công tác xã hội, các thành phần trong tăng thân vẫn giữ được sự thực tập giới luật, thiền ngồi, thiền đi,  xây dựng tình huynh đệ và học đi như một dòng sông…

“Không có công việc nào lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan – đản hữu lợi ích vô bất hưng sùng – đó là hạnh nguyện của chúng ta.

Các vị giáo thọ của chúng ta, trong đó có rất nhiều vị còn ở tuổi thanh xuân, đang thực sự mang đạo Bụt đi vào cuộc đời, một đạo Bụt nhập thế. Chúng ta đã mở những khóa tu đặc biệt để giúp cho mọi giới, những khóa tu dành cho giới làm công tác xã hội, giới văn nghệ sĩ, diễn viên điện ảnh,… có khóa tu đông đến 2000 người như khóa tại Washington DC cho các nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu, những khóa tu dành cho giới giáo chức, dành cho giới thương gia, dành cho giới y sĩ và y tá, dành cho các nhà chính trị và dân biểu quốc hội, dành cho giới cảnh sát và nhân viên công lực, giới tranh đấu cho hòa bình và nhân quyền, giới bảo hộ sinh môi….Chúng ta đã đi vào các bệnh viện và các nhà tù để giúp tổ chức tu tập và chuyển hóa…

Từ đạo Bụt nhập thế chúng ta đi vào đạo Bụt ứng dụng. Chúng ta mở phong trào Wake Up cho các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới, những đoàn thể tu tập theo chánh pháp để phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi. Chúng ta lập Viện Phật Học Ứng Dụng, cung cấp các khóa tu cho giới phụ huynh có khó khăn với con cái, cho giới thanh niên thiếu nữ đang có khó khăn với bố mẹ, cho những ai vừa khám phá ra là mình bị bệnh nan y, cho những ai có người thân mới mất. Ai cũng có thể đến để ghi tên học hỏi và thực tập mà không cần phải quy y. Chúng ta cống hiến đạo Bụt cho thế giới không phải  một tôn giáo mà  một nghệ thuật sống với những phương pháp chuyển hóa và trị liệu…Chúng ta đang nỗ lực thực tập để bảo hộ môi trường, tự mình thực tập và kêu gọi mọi người thực tập sống như thế nào để có thể có được một tương lai cho trái đất, để chuyển ngược được quá trình hâm nóng địa cầu. Tu viện Lộc Uyển  của chúng ta hiện giờ đã hoàn toàn chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Tất cả các đạo tràng và các tăng thân của chúng ta trên thế giới  đang thực tập tiêu thụ trong chánh niệm, mỗi tuần có một ngày không sử dụng xe hơi, xe gắn máy…, tất cả những điều này chứng tỏ là chúng ta đang quyết tâm thực hiện giấc mơ mà không phải chỉ ngồi đó để quán tưởng và để cho bài Sám ru chúng ta trong một giấc mơ thật đẹp.

Trong những năm gần đây, đạo Bụt với sự thực tập chánh niệm đã dần dần đi vào các lĩnh vực luật học, khoa học, y học và xã hội. Tinh thần bất nhị và bao dung không kẹt vào giáo điều của đạo Bụt bắt đầu được thế giới nhận biết, và trên bước đường toàn cầu hóa đạo Bụt có thể góp phần quan trọng trong việc chế tác một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Chúng ta biết giấc mơ có thể và đang trở thành hiện thực. Nếu chúng ta không bị vướng vào địa vị, tiền bạc, tiếng khen, và những chức vụ v.v. nếu chúng ta biết đi với tăng thân như một dòng sông mà không phải như một giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để thực hiện được giấc mơ. Có phải thế không các con ? Thầy mong các con đọc xong thư này thì góp ý với thầy.

Thầy của các con
Nhất Hạnh

(*) Chúng ta đã có những công tác tại các Xóm Nghèo Mã Lạng Quốc Thanh, Cầu Bông Bàn Cờ, và các lớp trung học miễn phí đêm (bắt đầu từ năm 1961, của Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn với các sinh viên Phật tử như Huê Dương, Chiểu, Khanh, Chi, Nhiên, và Phượng). Chúng ta bắt đầu lập Làng Tình Thương với Sư Anh Nhất Trí của các con, và các chú Tâm Quang và Tâm Thái với  hơn 100 sinh viên Phật tử  trong đó có các chị Phượng, Thảo, Thanh, Uyên và Tuyết, các anh Quyền, Trâm, Nguyên, Tích, Thanh và Tài (1964-1965). Chúng ta đã tổ chức những đoàn sinh viên đi lạc quyên để cứu lụt và cứu đói sau trận Hồng Thủy năm Giáp Thìn dọc theo hai bờ sông Thu Bồn lên đến thượng nguồn. Chúng ta đã lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (từ 1965 đến 1975), Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển VN (từ 1971 đến 1975 dưới sự lãnh đạo của Hòa Thượng Thiện Hòa . Các thầy Thanh Văn và Châu Toàn, Từ Mẫn, sư chú  Phạm Phước… là những cánh tay bồ tát điều động hàng ngàn tác viên, trợ tác viên và cảm trình viên xã hội đã thực hiện được bao nhiêu công tác giúp cho hàng chục ngàn đồng bào nạn nhân chiến cuộc. Trong công tác, mười bảy người trong chúng ta đã thiệt mạng trong đó có Liên ,Vui, Thơ, Tuấn, Hy, Lành và Sư  Anh Nhất Trí của các con. Cô Bùi Thị Hương bị mất một đoạn chân và anh Lê văn Vinh phải suốt đời ngồi xe lăn. Chị Nhất Chi Mai (chị Cả trong 6 người Tiếp Hiện đầu tiên của các con)  đã đem thân làm đuốc, để kêu gọi hai bên lâm chiến ngưng chém giết nhau (16.07.1967 . Trong chương trình Máu Chảy Ruột Mềm trên biển Nam Hải, Sư Cô Chân Không,  anh Luke  Fogarty , chị Trang Fogarty, chi Kirsten Roep và chị Mobi Warren đã điều động vớt được 606 thuyền nhân trên biển (1976). Tiếp đó là chương trình thầm lặng cứu người bằng ghe đánh cá trên Vịnh Thái Lan do sư cô Chân Không tiếp tục điều động (1976-1978). Sau đó chúng ta đã thành lập chương trình giúp thuyền nhân ở các trại tị nạn, an ủi và gửi phẩm vật cứu trợ, sách học tiếng Anh và tiếng Pháp, kinh Nhật Tụng cho các trại tị nạn như  Songklha, Trad,  Sikkhiu, Chonburi .. Chúng ta đã thành lập Chương trình Cứu Trợ Xã Hội Hiểu và Thương và hoạt động  âm thầm  từ  năm 1975 tới bây giờ (2009). Tại hải ngoại, đã có chương trình Hiểu và Thương ấy, hoạt động ở  Hà Lan (cùng với chị Kirsten Roep và bà Hebe Kohbrugge), ở  Pháp có ba chương trình Pour les Enfants du Viet Nam, Partage avec les enfants du Monde, và Partage ( cùng với anh Pierre Marchand ) . Trong hai chương trình sau, chúng ta đã hoạt động  để giúp  trẻ em đói trong 17 nước nghèo trên thế giới trong đó có Bangla Desh, Ấn Độ, Liban, Thái Lan, Brésil, Colombie…Chúng ta cũng có chương trình Từ Thị (Maitreya Fonds) tại Đức do anh Chân Pháp Nhãn Karl Schmied  và chị Chân Diệu chủ trương và đang được tiếp nối bởi anh Chân Giác Lưu Christian Kaulf. Tăng thân Thụy Sĩ với chị Margrit Witwer và tăng thân Ý Đại Lợi đã yễm trợ cho chương trình Hiểu và Thương. Tăng thân Thuyền Từ  của chị Chân Ý  và anh Chân Trí đã hỗ trợ hơn  600 trẻ em đói kém của chương trình Hiểu và Thương ở Quảng Trị và Thừa Thiên. Tăng thân Hoa Tuyết (Snow Flower Sangha)  bảo trợ cho hàng chục giếng nước ngọt cho các gia đình đông con  ở xa các vùng sâu vùng xa không có điện có nước.  Anh Minh và chị Liên với chương trình Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời năm nào cũng hợp tác với tăng thân Toronto  hỗ trợ rất nhiều  nạn nhân lũ lụt đói kém. Tổ chức Hussman Foundation ở Hoa Kỳ  đã bảo trợ 57 cô giáo và bảo mẫu và hơn 700 trẻ em thiếu ăn vùng Bảo Lâm, Di Linh… cúng dường xây cất Thiền Đường ở Bát Nhã. Chị Lilian Cheung đóng góp xây dựng Ni Viện Diệu Nghiêm và Diệu Trạm.

Ngay những năm đầu 1975-1990, trong khi việc  đi cứu đói còn rất  khó khăn,  chúng ta vẫn len lỏi mang được những món quà đến các trại cải tạo như trại  Hàm Tân (Ni Sư Tịnh Nguyện và chị Thuần) đến các trại học tập khó đến như Hà Nam Ninh, Vĩnh Phú.  Chúng ta cũng đã liên lạc được và  bày tỏ lòng ưu ái với những nhà văn không còn hứng khởi sáng tác (trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội ) và  tỏ bày niềm tin yêu đến cho họ để họ có cảm hứng sáng tác trở lại. Chúng ta cũng có dịp đem quà đến các vùng Kinh Tế Mới đói kém, qua bàn tay nhân ái và cương cường của Ni Sư Trí Hải và các đệ tử với chiếc ô tô chất đầy những thuốc men, gạo đường, áo quần và… những bài thuyết pháp bỏ túi tại chỗ. Qua các cánh tay của anh Chân Thể Hòa và chị Thuần chúng ta gửi được gạo tiền cho đồng bào đói kém  những vùng sâu vùng xa của đất nước trong những năm mà tình trạng còn rất khó khăn. Bằng cánh tay của các bạn  Chân Dụng Hòa, Chân Hỷ Căn,  A, và Viễn chúng ta đã chăm sóc cho những người khuyết tật, hiến tặng thủy tinh thể cho người  mắt không còn sáng,  yểm trợ cho các bô lão cô đơn, thành lập các lớp bán trú, gây quỹ trả lương cho hàng trăm cô giáo và thầy giáo, để đối phó với nạn thiếu dinh dưỡng của trẻ em, để làm sao cho mỗi đứa bé ở các miền sâu miền xa có được ít nhất là một ly sữa đậu mỗi ngày, mỗi bữa cơm có đủ chất dinh dưỡng.

Ngày xưa trước 1975, các ni sư  lớn như Cát Tường, Thể Quán  (Thừa Thiên), Thể Thanh (Cam Ranh), Như Huyền (Quảng Ngãi), Viên Minh (Nha Trang), quý thầy lớn như Chánh Trực (Quảng Trị, Như Vạn, Long  Trí…(Quảng Nam)   đều đã là những cánh tay Bồ tát vươn ra rất xa để cứu độ nhân gian, ngày nay các thầy như Hải Ấn ở Huế, các  ni sư Đàm Nguyện (Hà Nội), Như Minh , Diệu Đạt, Minh Tánh,  (Huế), Hạnh Toàn, (Quảng Ngãi), Ni Sư Giới Minh, thầy Pháp Lộ, sư cô Y Nghiêm, các anh Chân Giác Hạnh, Chân Hương Trí, Chân Hỷ Tịnh, anh Chân Hương Niệm , anh Chân Hỷ Căn, anh Chân Tướng Hòa , anh Việt, anh Tân,  chú Dũng, cô Mai, cô Xuân, cô Tuyết, cô Thân, chị Chân Đoan…. đều còn là những cánh tay hữu hiệu hiện đang còn tiếp tục công  việc ấy. Cánh tay của Tăng thân dài lắm, dang duỗi ra và với tới những vùng sâu vùng xa, không những trong quê hương mà ở cả những vùng khác trên trái đất như Bangla Desh, Ấn Độ, Israel, Palestine…

Ngồi yên như núi

Thân gửi các con của Thầy ở Bát Nhã, Từ Hiếu, và khắp nơi,

Thầy đang ngồi ở thất Ngồi Yên, xóm Thượng, Làng Mai, viết cho các con. Khoá tu mùa Hè ở Mai Thôn rất vui và rất thanh tịnh. Tuy có khó khăn kinh tế trên thế giới, nhưng số người về Làng tu tập trong bốn tuần lễ cũng rất đông, và có thể đông hơn mọi năm. Trẻ em đông đã đành, mà các em thiếu niên (teenagers) từ 12 đến 17 cũng đông lắm. Số lượng những người thanh niên (young adults) từ 18 đến 25 cũng khá đông, và từng lứa tuổi được sinh hoạt chung, pháp đàm chung và ăn cơm chiều chung để có cơ hội trao đổi kinh nghiệm tu học và xây dựng tình bằng hữu. Phong trào Wake Up (Tỉnh Dậy Đi Thôi, Các Bạn Trẻ) cho người trẻ Tây phương đang đi lên một cách mau chóng. Các con có thấy cái áo thun Wake Up chưa? Có rất nhiều em đã về Làng đều đều mỗi năm, đã quen với nếp sống và thực tập ở Làng cho nên đã giúp được rất nhiều cho những em mới được tới lần đầu. Sáng hôm 16.7.09, sư chú Pháp Triển đã bày bán tại xóm Mới lần đầu tiên những chiếc đồng hồ đeo tay có dấu hiệu giây phút hiện tại. Đồng hồ này đã được thầy và các vị xuất gia trẻ ở xóm Thượng vẽ kiểu (design), có nét chữ của thầy: It’s now. Đưa đồng hồ lên xem thì bất cứ lúc nào đồng hồ cũng cho mình biết đây là giây phút hiện tại. Có đồng hồ kiểu nam giới và đồng hồ kiểu nữ giới. Chỉ nội trong ngày hôm ấy, đã có 150 người tới quán sách để thỉnh đồng hồ đeo tay. Có một thiền sinh tắc lưỡi nói: “Đây thật là một ý tưởng tuyệt vời (This is really a brilliant idea).” Ta có thể gọi đồng hồ này là đồng hồ giây phút hiện tại. Sư chú Pháp Triển là một trong hai người xuất gia trẻ giúp thầy thiết kế cho chiếc đồng hồ này. Vị xuất gia trẻ thứ hai giúp thầy là thầy Pháp Chiếu, cũng còn rất trẻ, cuối năm nay sẽ được truyền đăng làm giáo thọ! Chiếc đồng hồ đeo tay It’s now này được sản xuất tại Hoa Kỳ.

Tuần thứ ba của khoá tu mùa Hè có tới trên 800 thiền sinh, đại diện khoảng 50 quốc gia trên thế giới. Kể cả chúng thường trú, thì hiện thời dân chúng bốn xóm lên tới trên một ngàn người. Vậy mà không khí rất thanh tịnh, êm ả. Mọi người có rất nhiều hạnh phúc khi đi thiền lên đồi xóm Mới, vào rừng xóm Hạ, hoặc ngồi thiền dưới những bóng cây sồi của lưng đồi xóm Thượng nhìn về phía chùa Sơn Hạ. Tịnh độ không còn là một ý niệm nữa mà đã trở thành một thực tại trong những giờ thiền đi và thiền ngồi ấy. Trẻ em cũng như người lớn đều có khả năng an trú trong giây phút hiện tại. Ngày hôm qua trong khi nói pháp thoại thầy thấy được cảnh tượng một bà mẹ vừa nghe pháp vừa cho con bú, hai mẹ con đều đang có hạnh phúc rõ ràng. Trong truyền thống Á Đông, sự kiện vừa nghe pháp vừa vạch áo cho con bú có thể là chưa được chấp nhận, bởi vì có người sẽ nghĩ rằng như thế thì chưa tỏ bày sự tôn kính đúng mức đối với chính pháp. Nhưng thầy nghĩ rằng đây là môi trường của Phật Học Ứng Dụng, và đứa trẻ trong khi bú sữa mẹ để có thức ăn bổ dưỡng cho cơ thể nó đồng thời cũng hưởng được không khí thanh tịnh an lạc của pháp đường như một thức ăn tinh thần. Thầy thấy hình ảnh ấy rất đẹp. Không biết vị phụ trách thu hình có cơ hội thu lại được hình ảnh ấy hay không? Trong suốt bốn tuần lễ, các vị xuất sĩ và cư sĩ thuộc chúng thường trú tuy phải để nhiều thì giờ và tâm lực để chăm sóc và hướng dẫn tu tập cho thiền sinh, nhưng ai cũng cảm thấy hạnh phúc vì cái hạnh phúc của thiền sinh. Sự tu tập chuyển hóa và niềm vui của thiền sinh chính là chất liệu nuôi dưỡng hạnh phúc cho chúng thường trú. Có cơ hội tạo hạnh phúc cho người, đó là mong muốn của những người tu, và thầy trò chúng ta đang có cơ hội ấy ở Mai Thôn, ở Lộc Uyển, ở Bích Nham và ở các nơi khác. Thầy thấy rất rõ là trong tương lai ở tại mỗi quốc gia phải có nhiều trung tâm tu tập như Làng Mai mới đủ cung cấp cho nhu yếu tu tập càng ngày càng lớn lên của dân chúng. Tại nhiều nước như Úc và Hà Lan, đạo Bụt đang lớn mạnh một cách rất mau chóng. Các vị giáo thọ mà chúng ta đang đào tạo sẽ có trách nhiệm thiết lập những trung tâm tu tập như thế trong tương lai ở khắp mọi nơi. Mục đích của chúng ta không phải là truyền giáo, không phải là đi tìm thêm tín đồ cho đạo Bụt; mục đích của chúng ta là tạo dựng những môi trường tu học để mọi người có cơ hội tới thực tập chuyển hóa khổ đau và học hỏi cách sống làm sao cho có thêm nhiều hạnh phúc. Chúng ta không bao giờ mong muốn thiền sinh từ bỏ gốc rễ văn hóa và tâm linh của họ, trái lại chúng ta luôn luôn khuyến khích họ trở về khai thông suối nguồn của những truyền thống ấy.

Chúng ta đã học hỏi được rất nhiều từ những gì đã xảy ra cho tu viện Bát Nhã trong những tháng vừa qua. Trong những tuần qua thầy đã nhận được rất nhiều lá thư của các con của thầy viết từ tu viện Bát Nhã. Các con kể thầy nghe đủ thứ chuyện, nhưng không có lá thư nào của các con mà không có câu: “Thầy ơi, thầy đừng có lo cho các con nghe thầy.” Câu nói ấy của các con có nghĩa: Thầy ơi, các con đang không lo cho chính các con, mà các con chỉ sợ thầy đang lo cho các con thôi. Nếu thầy lo thì thầy sẽ bệnh và như vậy thì hỏng hết. Và vì vậy thầy đã nhắn với các con: Thầy không đang lo lắng cho các con đâu, các con đừng lo lắng cho thầy. Đừng có “lo qua lo lại.” Mỗi bên chỉ cần hành xử cho hay về phía mình, như vậy là đủ rồi! Thông điệp như thế là đã rõ ràng chưa, hả các con? Thầy không lo lắng cho các con, nhưng điều đó không có nghĩa là thầy không lưu tâm. Thầy lưu tâm đến các con từng ngày, từng giờ, từng phút. Sở dĩ thầy không lo lắng vì thầy có niềm tin nơi các con. Thầy có niềm tin rằng các con có thể hành xử được như chánh pháp trong những hoàn cảnh thách thức và khó khăn. Và các con đã chứng tỏ làm được điều ấy. Và cũng do đó niềm tin của thầy nơi các con đã được tăng trưởng một cách mau chóng. Điều này đem lại nhiều hạnh phúc vừa cả cho thầy vừa cả cho các con.

Ngày xưa Sư Ông của các con, tổ Thanh Quý, không bao giờ nói với thầy rằng Sư Ông thương thầy và có niềm tin nơi thầy. Cái cách của các bậc tiền bối của chúng ta ngày xưa là như thế. Thương mà nói ra thì có cảm tưởng tình thương ấy mất bớt đi một chút gì linh thiêng. Nhưng thầy cảm nhận được tình thương ấy và niềm tin cậy ấy nơi Sư Ông. Và thầy có rất nhiều hạnh phúc. Không hạnh phúc nào lớn hơn cho một người đệ tử, khi người đệ tử ấy biết mình đang được thầy mình thương yêu và tin cậy. Suốt một đời tu của thầy, thầy được nuôi dưỡng bằng tình thương và lòng tin cậy thầm lặng đó của Sư Ông. Và thầy nghĩ rằng Sư Ông cũng có rất nhiều hạnh phúc khi Sư Ông có những người đệ tử mà Sư Ông có thể đặt hết tình thương và lòng tin cậy của mình vào. Thầy là một người có hạnh phúc lớn, vì thầy có niềm tin nơi các con. Tin vào các con tức là tin vào tương lai. Giả sử mình không tin vào tương lai thì mình có thể sống hạnh phúc được hay không?

Thầy tin là các con có đủ khả năng hiểu, thương và hành xử bất bạo động. Bất cứ trong hoàn cảnh khó khăn nào mà mình giữ được cái nhìn từ bi, và hành xử theo lòng từ ái thì mình sẽ được năng lượng lành che chở, đó là năng lượng của Tam Bảo. Không có sự che chở nào vững chãi và an toàn bằng năng lượng của Tam Bảo, của trí tuệ và từ bi. Cái ngày mà thầy nghe tin họ xông vào cư xá Rừng Phương Bối, quăng liệng đồ đạc và xô ngã những người họ gặp và đi lên lầu ba nơi các con đang ngồi thiền và trì niệm danh hiệu Quan Thế Âm trong tư thế bất động, không hề tìm cách chống trả và phản ứng, là thầy biết các con đã làm được như thầy trông đợi, và không có lý do gì nữa để cho thầy phải lo lắng cho các con.

Thầy không lo lắng cho các con, nhưng rất nhiều người đã lo lắng cho các con, trong nước cũng như ngoài nước, người đồng bào cũng như người nước ngoài, Phật tử cũng như không phải Phật tử. Ba mẹ và gia đình các con lo lắng cho các con đã đành, mà bốn chúng, có trách nhiệm hay không có trách nhiệm trong cơ cấu Giáo Hội cũng lo lắng cho các con. Các sư anh, sư chị và sư em của các con ở mọi đạo tràng trong nước và ngoài nước cũng đều lo lắng cho các con. Và cũng như các con, mọi người cũng đồng thời lo lắng cho thầy. Họ lo rằng thầy đang lo. Mà nếu thầy lo nhiều thì thầy sẽ bệnh. Cứ nói ngay tại đạo tràng Mai Thôn. Các sư anh và sư chị của các con đều nghĩ rằng thầy đang lo lắng rất nhiều cho các con, nhất là trong những ngày dầu sôi lửa bỏng nhất. Những ngày như thế thầy hay ngồi thiền hoặc đi thiền để gửi thêm năng lượng cho các con. Và cũng vào một trong những ngày dầu sôi lửa bỏng nhất ở Bát Nhã thì tất cả các vị xuất gia bốn xóm đã trở về nội viện Phương Khê để dự ngày xuất sĩ. Thấy thầy ngồi bên bờ suối Phương Khê, nét mặt tươi tỉnh, không tỏ vẻ lo lắng gì, họ rất ngạc nhiên và mừng rỡ. Thì ra là mọi người vừa lo cho các con, vừa lo cho thầy. Tội nghiệp quá. Thầy nghe thuật lại vào khuya hôm ấy có mưa giông rất lớn ở Bát Nhã. Ai cũng mừng. Mưa to gió lớn như thế thì người ta không có cơ hội tới hành hung các con được. Mưa to như thế thì ít nhất các con cũng hứng được một ít nước mưa để cầm cự qua ngày. Có một vị thân hữu kể lại cho thầy nghe là vào một trong những ngày dầu sôi lửa bỏng như thế, điện thoại về Bát Nhã vị ấy đã được nghe tiếng cười của các thầy, các sư chú và các sư cô, điều đó làm cho vị thân hữu này rất yên tâm. Thầy nghĩ rằng nếu không có tình huynh đệ, nếu không biết hướng đi và cách hành xử trong những trường hợp khó khăn, nếu không có niềm tin vào con đường của tình thương thì không thể nào duy trì được niềm vui sống và tiếng cười ấy.

Những khó khăn xảy ra cho Bát Nhã không những đã làm lớn lên đức tin của thầy nơi các con mà cũng đã mở mắt được cho biết bao nhiêu người. Sự Thật nhờ những khó khăn ấy mà được bung ra từ từ. Lâu nay, người ta cứ muốn nói rằng chuyện Bát Nhã là một chuyện nhỏ nhen xảy ra trong nội bộ của một ngôi chùa, không đáng để thông tin, không đáng để người trong nước và ngoài nước lưu tâm đến. Hơn ai hết, trong chúng ta ai cũng biết ngay là tự lúc đầu đây không phải là một vụ tranh chấp chùa viện nội bộ, mà là hậu quả của một giả tưởng: họ nói sự có mặt của Bát Nhã có thể là một đe dọa cho an ninh quốc gia, vì những người tu ở Bát Nhã, tức là các con, là những người có ý hướng làm chính trị. Đài truyền hình Lâm Đồng đã chẳng hai lần gợi ý ấy hay sao? Có một nhân sĩ điện thoại tới hỏi thăm, tìm cách giúp đỡ Bát Nhã, đã được trả lời: Đây là vấn đề an ninh quốc gia, ông không nên động tới. Nhưng những diễn tiến của sự việc Bát Nhã đã chứng minh rằng những vẽ vời ấy hoàn toàn sai với sự thật. Giả tưởng như thế, đặt điều như thế thì cũng như trong kinh nói vẽ một bức tranh trên hư không, không có khung vải, không có nền giấy, không bao giờ có thể vẽ thành được! Bây giờ đây thì trong nước và ngoài nước ai cũng thấy được điều đó, nghĩa là các thầy, các sư chú, các sư cô và các vị tập sự ở Bát Nhã chỉ làm có một việc: tu học thuần túy và hướng dẫn người khác tu học với mình. Mục đích của người tu là tu tập để tự mình chuyển hóa và giúp phục hồi những giá trị đạo đức và văn hóa đã và đang bị từ từ phá sản, để giúp ngăn chặn những tệ nạn xã hội đang lan tràn, như bạo hành, ma túy, đĩ điếm, tự tử, gia đình tan vỡ, tham nhũng và lạm dụng quyền hành, và đồng thời giúp cho người trong xã hội có một hướng đi tâm linh lành mạnh. Sau những bão táp đã xảy ra, ai cũng thấy được các con là những người chân tu, tuy tuổi còn trẻ nhưng chí nguyện độ đời rất lớn, và niềm tin của các con nơi nền đạo đức dân tộc không thể nào lay chuyển được. Các con đã tới Bát Nhã không phải để tìm cầu danh lợi, địa vị, tài sản, đất đai, mà để tìm cầu một lý tưởng, lý tưởng tu tập để độ đời. Một số người sau khi bị xách động đã tới Bát Nhã để đe dọa và xua đuổi các con, nhưng nhờ cách hành xử hòa ái và bất bạo động của các con, họ đã nhận ra được rằng các con là những người chân tu, thấy rằng các con là con, là em, là đồng đạo của họ cho nên họ đã khóc và đã bỏ về. Các con có nhớ những buổi tuần hành người ta tổ chức để xua đuổi các con, khi nghe tiếng trì tụng Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm, nhiều người trong đoàn của họ đã chắp tay lại hướng lên từng lầu của cư xá Mây Đầu Núi, Bếp Lửa Hồng và Rừng Phương Bối và sau đó đã bỏ về, không tham dự các cuộc tuần hành ấy nữa hay không? Chính cách hành xử hòa ái và bất bạo động của các con đã giúp họ thấy được là họ đã nghe những điều thất thiệt, và hình ảnh các con trước mặt họ quả thật là hình ảnh của người trẻ chân tu. Thầy tin rằng có rất nhiều vị sĩ quan công an và nhân viên công an sau nhiều tháng nhiều ngày tiếp xúc với các con qua những buổi xét hỏi giấy tờ, hộ khẩu và qua những lần chứng kiến đe dọa khiêu khích và chửi mắng được liên tiếp tổ chức ở Bát Nhã cũng đã thấy được rằng các con là những người chân tu, những người hoàn toàn không tha thiết gì đến vấn đề chính trị. Chắc chắn là đã có những vị công an về nhà và khóc một mình trong đêm tối, không hiểu tại sao mình phải đi làm những việc mà thực sự mình không muốn làm, và đặt câu hỏi tại sao sự có mặt an hòa của những người tu như thế mà lại có nguy hại cho nền an ninh quốc gia như người ta đã nói với họ?

Chắc chắn Thượng Tọa Đức Nghi cũng biết rất rõ rằng các con là những người xuất gia chân tu, hành trì giới luật và uy nghi vững chãi. Thầy Đức Nghi cũng có những nỗi khổ tâm của thầy, một mặt muốn thấy những ước vọng riêng của mình và những hứa hẹn của người ta với mình trở nên sự thật, một mặt lại cảm thấy khổ đau ray rứt vì phải hành xử không dễ thương với những người huynh đệ trong đạo của mình. Thầy nghe nói rằng không đêm nào mà thầy Đức Nghi không khóc. Tội nghiệp lắm. Sư phụ Đức Nghi đã nhiều lần nói với các sư anh của các con là sư phụ bị áp lực rất nặng từ bên ngoài. Các vị đệ tử của sư phụ Đức Nghi cũng biết rằng các con là những người hành trì giới luật và uy nghi vững chãi, rằng các con chỉ muốn được tu chứ không hề muốn làm chính trị hoặc chiếm dụng tài sản của ai, nhưng một khi đã lỡ bị guồng máy cuốn đi, các vị ấy đã không thể nào dừng lại được. Các thầy Đồng cũng có những nỗi khổ tâm của họ, chắc chắn quý vị ấy ngủ cũng không ngon mà ăn cũng không ngon. Thầy nghe nói rằng các con luôn luôn đối xử với các thầy Đồng rất lễ phép, không hề chê bai và trách móc, mỗi khi gặp đều chắp tay búp sen, thầy rất mừng. Pháp môn căn bản của mình là đừng để tan vỡ tình huynh đệ và phải chuẩn bị để một ngày mai có thể có sự hàn gắn dễ dàng.

Chân tu không phải chỉ là sự thực tập giới luật và uy nghi trên phương diện hình thức. Nếu không biết quán chiếu, nếu không có những pháp môn tu tập hữu hiệu thì không xử lý được những năng lượng bạo động, sợ hãi, hèn nhát và hận thù trong ta, và khi những năng lượng ấy làm chủ thân tâm thì ta không thể giả bộ trầm tĩnh và bất bạo động được. Thầy đã nghe câu chuyện một sư em trai mới tu chưa được một năm, có học về nghề võ, và năm ngoái vào ngày xảy ra vụ một số thanh niên tới nhà Tâm Ban Đầu khiêng liệng giường chiếu và vật liệu ra ngoài một cách thách thức, đã chịu không nỗi cảnh tượng khiêu khích bạo động kia. Sư chú đang cầm máy quay phim để ghi lại sự việc đang xảy ra thì đã bị một người trong đám thanh niên kia cầm gậy đánh lén từ phía sau lưng và nếu không tránh kịp chắc đã bị vỡ đầu. Sư chú đã lên thưa với vị y chỉ sư: “Xin phép thầy cho con thôi tu. Con không chịu nỗi nữa. Con chỉ cần 15 phút là có thể đánh ngã được tất cả bọn côn đồ ấy. Rồi sau đó nếu cần đi ở tù sáu tháng hay một năm con sẽ đi ở tù. Và ở tù xong, con sẽ đi tu trở lại.” Vị y chỉ sư kia là một vị giáo thọ trẻ, tuổi chưa đến 30, đã nói với sư em của mình: “Này em, đừng gọi những người trẻ kia là bọn côn đồ. Họ cũng là những thanh niên như em, nhưng vì bị thông tin sai lạc nên đang hành xử như thế. Họ nghĩ rằng chúng ta là một bọn côn đồ đã tới đây để chiếm dụng nhà cửa và đất đai. Họ là nạn nhân của những thông tin sai lạc, họ cần được giúp đỡ hơn là bị trừng phạt. Họ không phải là kẻ thù của em đâu. Kẻ thù của em là cơn giận đang chiếm cứ em. Em hãy ngồi xuống đây và bắt đầu thở những hơi thở thật sâu, thật dài, ôm lấy cái giận trong em, nhìn sâu vào bản chất của nó. Nếu em điều phục được cơn giận trong em, nếu em làm phát khởi được cái hiểu và cái thương, em sẽ trở thành tươi mát và trong tương lai em có thể giúp cho nhóm người ấy thấy được rằng những thông tin mà người ta đem tới cho họ là những thông tin sai lạc và họ sẽ không còn hành xử như họ đang hành xử. Bụt đã làm như thế, thầy đã làm như thế và bây giờ em cũng phải làm như thế. Ngồi xuống, ngồi xuống ngay đây và thực tập đi em.” Sư chú đã ngồi xuống thực tập. Những hơi thở đầu lớn như bò rống, rất nặng nề khó khăn, nhưng từ từ sư chú đã dịu xuống và cuối cùng sư chú đã điều phục được tâm của mình. Sau đó mấy hôm sư chú đã nói: “Hú hồn. Nếu hôm ấy con không thực tập, nếu hôm ấy con đã sử dụng bạo động để đáp lại bạo động thì con đã làm hư hoại tấm gương sáng của Bụt và của Thầy, bởi vì Bụt và Thầy không bao giờ hành xử như thế.”

Hiểu, thương và bất bạo động không phải là những đề tài để đàm luận mà là những bài tập để quán chiếu và thực hành. Có những người tu đã hai hoặc ba chục năm mà khi gặp những trường hợp bức xúc và khiêu khích đã không cưỡng lại được cơn giận dữ và sợ hãi và đã đáp ứng lại bằng những hành xử bạo động. Các con tuy có người mới tu có ba bốn năm, có người mới tu có sáu tháng mà đã hành xử được như thế, đó là nhờ các con có pháp môn tu tập cụ thể: nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa được tâm hành bất thiện của mình. Cho nên vì vậy mà các vị ấy mới nhận ra được rằng các con là những người chân tu, và pháp môn thực tập của các con không phải chỉ là “để dành cho kẻ sơ cơ”, hoặc chỉ là “thiền ngoài da” như một số người ưa phán xét. Đó là những pháp môn mà mình phải tin tưởng vào một trăm phần trăm, là chân lý tối hậu của đời mình, trực tiếp do Bụt chỉ dạy trong kinh An Ban Thủ Ý. Thầy thấy rất nhiều các vị tôn túc có chức vụ hay không có chức vụ trong Giáo Hội cũng đã thấy được các con là những người tu trẻ ham tu ham học, đã buông bỏ những ham muốn và lợi danh của cuộc đời để đi theo con đường của kẻ xuất gia chân chính. Các vị ấy biết các con là những người có hành trì giới luật và uy nghi nghiêm túc nên đã hết lòng bảo hộ cho các con, dù khả năng của liệt vị còn hạn hẹp. Thầy nhớ có lần quý vị đã nói rõ trong văn thư: Tu viện Bát Nhã là cơ sở trực thuộc của Giáo Hội, ai tu tập đàng hoàng thì được tiếp tục ở đó, ai phá phách và bạo động thì phải đi. Có lúc bằng văn thư, quý vị tôn túc cũng đã bảo trợ cho các con được an cư dưới sự che chở của các Ngài. Và gần đây, quý vị ấy cũng đã ra lệnh phải chấm dứt những hành vi bạo động, nối lại điện nước cho các con. Quý vị tôn túc làm như thế là đã nhiều lắm rồi, các con biết không? Nếu tình trạng không được như quý ngài mong muốn, đó là vì quyền hạn của các ngài cũng chỉ được giới hạn tới đó, ngoài ra còn phải có những điều kiện khác nữa. Nhưng một khi sự thực đã bung ra thì thiện duyên sẽ bắt đầu được nối kết. Vài ba năm nữa khi thấy sự có mặt của tu viện Bát Nhã không có một mảy may gì nguy hiểm cho an ninh quốc gia mà trái lại còn giúp chấn chỉnh và phục hồi được những giá trị đạo đức, luân lý và văn hoá cho đất nước thì cái ý tưởng kia, cái e sợ kia, cái nghi ngờ kia sẽ tan biến, và chúng ta sẽ được để yên để tiếp tục tu học, giúp đời. Những đạo tràng như Mai Thôn, Lộc Uyển, Bích Nham, Rừng Phong, Trúc Xanh, Sen Búp, Mộc Lan, Vô Ưu v.v… trên thế giới chỉ góp phần vào sự xây dựng đạo đức và an sinh xã hội cho các nước Tây Phương, có nguy hại gì đến an ninh quốc gia của các nước ấy đâu?

Các con có biết rằng bây giờ đây trong nước và trên thế giới ai cũng đã biết tới Bát Nhã và ý thức được những gì đã xảy ra không? Ai cũng thấy được cách hành xử bình tĩnh và bất bạo động của các con, và ai cũng cảm thấy hãnh diện vì các con. Bức hình các con ngồi yên trong tư thế thiền tọa giữa lúc có bạo động và khiêu khích, bức hình ấy đã được chuyền đi rộng rãi và được hàng triệu người xem, như bức hình của Hòa Thượng Quảng Đức năm 1963 không khác. Chúng ta đang được bao nhiêu người tri kỷ che chở và bảo hộ. Thầy biết các con của thầy không lo lắng, và các con biết là thầy cũng không lo lắng. Các con chỉ cần ngồi thật yên bên đó, cũng như thầy và các anh chị em chỉ cần ngồi thật yên bên này, thì thế nào sấm cũng lặng, mây cũng tan. Năng lượng im lặng của chúng ta là năng lượng của hiểu và thương, đây là thứ im lặng hùng tráng, đây cũng là thứ im lặng sấm sét. Trên hình thức, dù mai mốt có xảy ra chuyện thầy trò mình mỗi người ở một nơi, thì chúng ta cũng sẽ luôn luôn còn có nhau. Hạt giống kim cương đã có trong trái tim của mỗi các con; sau này mỗi các con sẽ trở thành một Phương Bối, mỗi các con sẽ trở thành một tu viện Bát Nhã. Sẽ có hàng trăm, hàng ngàn Bát Nhã ở quê nhà và trên thế giới. Điều này đang từ từ trở nên sự thật, có phải không các con? Chúng ta là một tăng thân, chúng ta không phải là một cơ sở vật chất. Để thầy chép xuống đây bài kệ của thiền Sư Tịnh Quang, một thiền Sư Việt Nam sống vào giữa thế kỷ thứ 12 để các con đọc. Bài kệ này nói lên được phong độ tự do và hào hùng của Thiền Sư. Đọc lên mình cảm thấy Thiền Sư cũng nói lên được cảm nghĩ của chính thầy trò mình:

Trên không manh ngói che
Dưới không đất cắm dùi
Người xách gậy tìm lại
Kẻ mặc áo lạ tới
Khi hành động xúc tiếp
Như rồng nhảy đớp mồi.

Các con nên nhớ “mồi” ở đây tức là trái nguyệt cầu mà những con rồng trên mái chùa đang đùa giỡn một cách rất tuyệt diệu.

Nguyên văn chữ Hán:

Thượng vô phiến ngỏa già
Hạ vô trác chùy địa
Hoặc dị phục trực nghệ
Hoặc sách trượng nhi chí
Động chuyển xúc xử gian
Như long dược thôn nhỉ.

Thôi đã đến giờ đi nói pháp thoại. Thầy sẽ viết tiếp cho các con sau.

Thầy của các con
Nhất Hạnh


Biển thanh lương

 

Tu viện Bích Nham, tiểu bang New York, Hoa Kỳ, ngày 8-8-2009
Các con của Thầy,

Thầy đến Bích Nham chiều hôm qua. Sáng nay được tin từ Tổ đình báo qua là Sư thúc Chí Mậu của các con mới viên tịch hồi 4:30 sáng. Thầy đã lên thiền đường Đại Đồng để thắp hương và cầu nguyện cho Sư Thúc. Sáng nay lúc 11 giờ, đại chúng ở Bích Nham sẽ vân tập tại thiền đường Đại Đồng để tụng kinh cho Sư Thúc. Thầy mới viết xong hai câu gửi về cho Tổ đình:

Thanh lương hải nguyệt sinh trừng tuệ,
chí nguyện sơn đầu thịnh mậu xuân.

Hai câu ấy có nghĩa: Mặt trăng trên biển thanh lương đã làm phát sinh trí tuệ lặng chiếu. Trên đỉnh núi chí nguyện một mùa xuân thịnh mậu của chánh pháp sẽ tới với chúng ta. Câu đầu có hai chữ Trừng Tuệ pháp danh của Sư Thúc, và câu nhì có hai chữ Chí Mậu. Thầy nhớ lại bài kệ truyền đăng trao cho Sư Thúc trong Đại giới đàn Đoàn Tụ ở Làng Mai năm 2004. Bài kệ ấy rất hay, nói lên được chí nguyện và sự thành đạt của Sư Thúc:

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ buớc siêu trần.

 

Việc Sư Thúc qua Làng Mai tu tập chắc chắn đã do chư Tổ sắp đặt. Sư Thúc tu tập trong suốt một mùa Đông rất tinh tiến, rất hạnh phúc và đạt được rất nhiều chuyển hóa và thong dong.  Ngày về lại Tổ đình, ai cũng thấy Sư Thúc là một con người mới. Sư Thúc không cần học mười năm ở Phật học viện mà vẫn đạt được những gì mà nhiều người khác dù có dùi mài trên mười năm đèn sách vẫn không đạt được. Sư Thúc thấy được những quý giá của sự sống. Đã ca tụng trời xanh, mây trắng, đã trân quý và sống sâu sắc những năm tháng còn lại của mình. Sư Thúc đã qua trở lại Làng Mai để tu học thêm nhiều tháng nữa, đã tháp tùng phái đoàn Làng Mai đi giảng dạy ở các nước Âu châu, và đã gửi những vị đệ tử lớn về Làng Mai tu học. Những ngày gần đây Sư Thúc đã rất hạnh phúc khi thấy những gì mà Sư Thúc đã thành tựu được, và luôn luôn ca ngợi vẻ đẹp của đất trời, của hoa lá quanh mình. Thầy rất mừng khi thấy Sư Thúc tiến bộ vượt bực như vậy.

Công phu chí cả nuôi từ quán là sự thực tập nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu. Sư Thúc đã làm được, vì vậy cho nên Tổ đình bắt đầu khởi sắc: Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân. Sư Thúc đã thấy như thầy thấy rằng cái quý nhất trên đời không phải là địa vị, danh vọng và tiền bạc mà là tình huynh đệ, cho nên đã để thì giờ còn lại để thực tập điều đó: quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ. Các vị đệ tử của Sư Thúc đột nhiên cảm thấy rất gần gũi với Sư Thúc và sự truyền thông giữa thầy trò cũng như hạnh phúc giữa thầy trò với nhau tăng tiến rất mau chóng, như khi ta đi với một đôi hài bảy dặm. Đó là một phép lạ lớn, một thành tựu lớn mà ai cũng thấy. Vì vậy cho nên giải thoát không còn là một ước vọng hay một danh từ nữa mà đã trở nên một sự thực: Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần.

Như trong bức thư thầy viết cho Sư Thúc cách đây mười mấy hôm, trong đó thầy đã nói rằng ít ai thành tựu được những gì mà Sư Thúc đã thành tựu, hôm nay thầy thấy trong lòng ấm áp viết thư cho các con để nhắc các con rằng chừng nào mình còn có những người như Sư Thúc trong hàng ngũ của những người xuất gia, chừng đó mình vẫn còn may mắn và không lý do gì mà mình không can đảm tiếp nối con đường của mình.

Xin các con mỗi ngày đi, thở trong chánh niệm và gửi năng lượng về thêm cho Sư Thúc và cho Tổ đình.

Thầy của các con