Biển thanh lương

 

Tu viện Bích Nham, tiểu bang New York, Hoa Kỳ, ngày 8-8-2009
Các con của Thầy,

Thầy đến Bích Nham chiều hôm qua. Sáng nay được tin từ Tổ đình báo qua là Sư thúc Chí Mậu của các con mới viên tịch hồi 4:30 sáng. Thầy đã lên thiền đường Đại Đồng để thắp hương và cầu nguyện cho Sư Thúc. Sáng nay lúc 11 giờ, đại chúng ở Bích Nham sẽ vân tập tại thiền đường Đại Đồng để tụng kinh cho Sư Thúc. Thầy mới viết xong hai câu gửi về cho Tổ đình:

Thanh lương hải nguyệt sinh trừng tuệ,
chí nguyện sơn đầu thịnh mậu xuân.

Hai câu ấy có nghĩa: Mặt trăng trên biển thanh lương đã làm phát sinh trí tuệ lặng chiếu. Trên đỉnh núi chí nguyện một mùa xuân thịnh mậu của chánh pháp sẽ tới với chúng ta. Câu đầu có hai chữ Trừng Tuệ pháp danh của Sư Thúc, và câu nhì có hai chữ Chí Mậu. Thầy nhớ lại bài kệ truyền đăng trao cho Sư Thúc trong Đại giới đàn Đoàn Tụ ở Làng Mai năm 2004. Bài kệ ấy rất hay, nói lên được chí nguyện và sự thành đạt của Sư Thúc:

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ buớc siêu trần.

 

Việc Sư Thúc qua Làng Mai tu tập chắc chắn đã do chư Tổ sắp đặt. Sư Thúc tu tập trong suốt một mùa Đông rất tinh tiến, rất hạnh phúc và đạt được rất nhiều chuyển hóa và thong dong.  Ngày về lại Tổ đình, ai cũng thấy Sư Thúc là một con người mới. Sư Thúc không cần học mười năm ở Phật học viện mà vẫn đạt được những gì mà nhiều người khác dù có dùi mài trên mười năm đèn sách vẫn không đạt được. Sư Thúc thấy được những quý giá của sự sống. Đã ca tụng trời xanh, mây trắng, đã trân quý và sống sâu sắc những năm tháng còn lại của mình. Sư Thúc đã qua trở lại Làng Mai để tu học thêm nhiều tháng nữa, đã tháp tùng phái đoàn Làng Mai đi giảng dạy ở các nước Âu châu, và đã gửi những vị đệ tử lớn về Làng Mai tu học. Những ngày gần đây Sư Thúc đã rất hạnh phúc khi thấy những gì mà Sư Thúc đã thành tựu được, và luôn luôn ca ngợi vẻ đẹp của đất trời, của hoa lá quanh mình. Thầy rất mừng khi thấy Sư Thúc tiến bộ vượt bực như vậy.

Công phu chí cả nuôi từ quán là sự thực tập nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu. Sư Thúc đã làm được, vì vậy cho nên Tổ đình bắt đầu khởi sắc: Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân. Sư Thúc đã thấy như thầy thấy rằng cái quý nhất trên đời không phải là địa vị, danh vọng và tiền bạc mà là tình huynh đệ, cho nên đã để thì giờ còn lại để thực tập điều đó: quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ. Các vị đệ tử của Sư Thúc đột nhiên cảm thấy rất gần gũi với Sư Thúc và sự truyền thông giữa thầy trò cũng như hạnh phúc giữa thầy trò với nhau tăng tiến rất mau chóng, như khi ta đi với một đôi hài bảy dặm. Đó là một phép lạ lớn, một thành tựu lớn mà ai cũng thấy. Vì vậy cho nên giải thoát không còn là một ước vọng hay một danh từ nữa mà đã trở nên một sự thực: Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần.

Như trong bức thư thầy viết cho Sư Thúc cách đây mười mấy hôm, trong đó thầy đã nói rằng ít ai thành tựu được những gì mà Sư Thúc đã thành tựu, hôm nay thầy thấy trong lòng ấm áp viết thư cho các con để nhắc các con rằng chừng nào mình còn có những người như Sư Thúc trong hàng ngũ của những người xuất gia, chừng đó mình vẫn còn may mắn và không lý do gì mà mình không can đảm tiếp nối con đường của mình.

Xin các con mỗi ngày đi, thở trong chánh niệm và gửi năng lượng về thêm cho Sư Thúc và cho Tổ đình.

Thầy của các con

 

 

 

Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ


NHẤT TÂM CẦU NGUYỆN
NAM-MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NHỊ THẾ TỪ HIẾU TỔ ĐÌNH TRÚ TRÌ
HÚY thượng TRỪNG hạ HUỆ hiệu CHÍ MẬU PHẠM CÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH (1948-2009)

 

Tu Viện Bích Nham, tiểu bang New York, Hoa Kỳ
Ngày 8-8-2009

Các con của Thầy,
Thầy đến Bích Nham chiều hôm qua.  Sáng nay được tin từ Tổ Đình báo qua là Sư Thúc Chí Mậu của các con mới viên tịch hồi 4:30 sáng.  Thầy đã lên thiền đường Đại Đồng để thắp hương và cầu nguyện cho Sư Thúc.  Sáng nay lúc 11 giờ, đại chúng ở Bích Nham sẽ vân tập tại Thiền Đường Đại Đồng để tụng kinh cho Sư Thúc.

Thầy mới viết xong hai câu gửi về cho Tổ Đình:

Thanh lương hải nguyệt sinh trừng tuệ,
chí nguyện sơn đầu thịnh mậu xuân.

Hai câu ấy có nghĩa: Mặt trăng trên biển thanh lương đã làm phát sinh trí tuệ lặng chiếu.  Trên đỉnh núi chí nguyện một mùa xuân thịnh mậu của chánh pháp sẽ tới với chúng ta.  Câu đầu có hai chữ Trừng Tuệ pháp danh của Sư Thúc, và câu nhì có hai chữ Chí Mậu.  Thầy nhớ lại bài kệ truyền đăng trao cho Sư Thúc trong đại giới đàn Đoàn Tụ ở Làng Mai năm 2004.  Bài kệ ấy rất hay, nói lên được chí nguyện và sự thành đạt của Sư Thúc:

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ buớc siêu trần.

Việc Sư Thúc qua Làng Mai tu tập chắc chắn đã do chư Tổ sắp đặt.   Sư Thúc tu tập trong suốt một mùa Đông rất tinh tiến, rất hạnh phúc và đạt được rất nhiều chuyển hóa và thong dong.  Ngày về lại Tổ Đình, ai cũng thấy Sư Thúc là một con người mới.  Sư Thúc không cần học mười năm ở Phật học viện mà vẫn đạt được những gì mà nhiều người khác dù có dùi mài trên mười năm đèn sách vẫn không đạt được.  Sư Thúc thấy được những quý giá của sự sống.  Đã ca tụng trời xanh, mây trắng, đã trân quý và sống sâu sắc những năm tháng còn lại của mình.  Sư Thúc đã qua trở lại Làng Mai để tu học thêm nhiều tháng nữa, đã tháp tùng phái đoàn Làng Mai đi giảng dạy ở các nước Âu Châu, và đã gửi những vị đệ tử lớn về Làng Mai tu học.  Những ngày gần đây Sư Thúc đã rất hạnh phúc khi thấy những gì mà Sư Thúc đã thành tựu được, và luôn luôn ca ngợi vẻ đẹp của đất trời, của hoa lá quanh mình.  Thầy rất mừng khi thấy Sư Thúc tiến bộ vượt bực như vậy.

Công phu chí cả nuôi từ quán là sự thực tập nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu.  Sư Thúc đã làm được, vì vậy cho nên Tổ Đình bắt đầu khởi sắc: Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân.   Sư Thúc đã thấy như thầy thấy rằng cái quý nhất trên đời không phải là địa vị, danh vọng và tiền bạc mà là tình huynh đệ, cho nên đã để thì giờ còn lại  để thực tập điều đó: Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ.  Các vị đệ tử của Sư Thúc đột nhiên cảm thấy rất gần gũi với Sư Thúc và sự truyền thông giữa thầy trò cũng như hạnh phúc giữa thầy trò với nhau tăng tiến rất mau chóng, như khi ta đi với một đôi hài bảy dặm.  Đó là một phép lạ lớn, một thành tựu lớn mà ai cũng thấy.  Vì vậy cho nên giải thoát không còn là một ước vọng hay một danh từ nữa mà đã trở nên một sự thực:  Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần.

Như trong bức thư thầy viết cho Sư Thúc cách đây mười mấy hôm, trong đó thầy đã nói rằng ít ai thành tựu được những gì mà Sư Thúc đã thành tựu, hôm nay thầy thấy trong lòng ấm áp viết thư cho các con để nhắc các con rằng chừng nào mình còn có những người như Sư Thúc trong hàng ngũ của những người xuất gia, chừng đó mình vẫn còn may mắn và không lý do gì mà mình không can đảm tiếp nối con đường của mình.

Xin các con mỗi ngày đi, thở trong chánh niệm và gửi năng lượng về thêm cho Sư Thúc và cho Tổ Đình.

Thầy của các con,

Thầy trong Tăng thân

Thư gửi các bạn thiền sinh trong khóa tu “One Buddha Is Not Enough” tại Estes Park, tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ.
(Bản dịch Lá Thư thứ hai của Thầy cho thiền sinh khóa tu “One Buddha Is Not Enough”, Thầy viết vào tháng 8 năm 2009)

 

Đây là lá thư thứ hai Thầy viết cho quý vị từ bệnh viện Massachusetts General Hospital. Tình trạng của Thầy đã khá sau bảy ngày trị liệu. Thầy cám ơn tất cả các thầy các sư cô và tất cả liệt vị đã gửi năng lượng thương yêu cho Thầy. Được biết tất cả đại chúng trong khóa tu, xuất gia cũng như tại gia, đã và đang thực tập hết lòng, Thầy rất hạnh phúc. Những thất vọng, lo lắng và buồn tủi được gây ra lúc đầu vì sự vắng mặt của Thầy đã được hoàn toàn chuyển hóa thành niềm vui, hy vọng và sự tin cậy. Tăng thân đã hướng dẫn và điều động khóa tu một cách tuyệt vời, khó có thể làm hay hơn được, dù không có mặt Thầy. Sự chuyển hóa và những niềm vui mà quý vị đang có đã nuôi dưỡng Thầy rất nhiều, cũng như đã và đang nuôi dưỡng tất cả mọi thành phần khác của Tăng thân. Hôm nay, gần hoàn mãn khóa tu, tất cả chúng ta đều đã thấy được tài năng, sự mầu nhiệm và phép lạ của Tăng thân, và ai cũng phải công nhận rằng Tăng thân đã thật sự tiếp nối được Thầy, và tiếp nối một cách rất đẹp đẽ, do đó ta không còn phải lo sợ gì cho tương lai của sự thực tập. Tăng thân chứng tỏ có khả năng tiếp nối được sự nghiệp của Bụt, của Tổ, của Thầy. Ngày xưa vua Ba Tư Nặc đã từng nói với Bụt rằng mỗi khi nhìn kỹ Tăng đoàn của Bụt, vua thấy được Bụt một cách rõ ràng hơn. Một trong những thành tựu lớn của khóa tu này là tất cả chúng ta đều thấy được Thầy trong Tăng thân, kể cả những vị mới đến với Tăng thân lần đầu.

Nhân dịp này Thầy muốn đề nghị biến khóa tu Colorado thành một khóa tu hằng năm trong truyền thống Làng Mai, và nếu điều kiện cho phép, tất cả chúng ta đều tới khóa tu với tư cách những thành phần trong Tăng thân để cho những người chưa có cơ hội tới với Tăng thân có thể tới mà thực tập giáo pháp mầu nhiệm này. Làm được như thế thì mỗi người trong quý vị sẽ trở thành sự tiếp nối của Thầy. Mỗi khi nghĩ rằng mình đã được tiếp nối đẹp đẽ bởi Tăng thân, bởi quý vị, Thầy lại cảm thấy trái tim mình rất ấm áp. Thầy có niềm tin vững chãi nơi Tăng thân, và tin chắc rằng Tăng thân của Thầy sẽ luôn luôn tạo được phép lạ của sự chuyển hóa và trị liệu mỗi khi có một khóa tu, dù Thầy có mặt hay không có mặt với sắc thân tứ đại này. Thầy rất mong được nghe kiến giải của quý vị về vấn đề ấy.

Một lần nữa Thầy xin cám ơn tất cả quý vị và mong ước được gặp lại quý vị sớm trong các khóa tu tới.

Thương và tin cậy,

Thầy,
Nhất Hạnh

Thầy nhớ tăng thân

(Bản dịch lá thư Thầy gửi cho các thiền sinh trong Khóa Tu Colorado)

Boston, tháng 08 ngày 21 năm 2009
Thân gửi các bạn thiền sinh trong khóa tu “ One Buddha is not enough” tại Estes Park, Colorado

Các bạn thiền sinh thân mến,
Thầy đang ngồi trong bệnh viện Massasuchetts General Hospital viết thư này cho quý vị. Thầy biết tăng thân đã vân tập đầy đủ chiều hôm nay tại Công Viên Estes Park để khai mạc khóa tu. Thầy rất buồn không có mặt hôm nay tại khóa tu với quý vị. Thầy nhớ khóa tu, nhớ khung cảnh tuyệt vời của khóa tu và nhất là nhớ tăng thân- nhớ quý vị. Được ngồi với tăng thân, được đi thiền hành với tăng thân, được thở với tăng thân, được chia sẻ với tăng thân, đối với thầy là một hạnh phúc lớn, bởi vì thực tập như thế với Tăng thân, ai cũng cảm thấy được nuôi dưỡng và trị liệu.

Thầy đang hết lòng chữa trị, bởi vì thầy biết chăm sóc cho bản thân cũng là một cách chăm sóc cho tăng thân. Các bác sĩ ở đây đã quyết định là thầy phải ở lại bệnh viện để chữa trị ít ra là trong 14 ngày. Thầy bị nhiễm trùng Pseudomonas aerigunosa trong phổi. Xin quý vị đừng lo lắng bởi vì đây là một chứng bệnh có thể chữa trị được. Tim thầy còn tốt, thận thầy còn tốt, gan thầy còn tốt, ruột thầy còn tốt. Cái gì cũng còn tốt cả. Các bác sĩ  ở đây đang chữa trị cho thầy bằng hai loại trụ sinh khá mạnh. Mỗi ngày phải chuyền thuốc tới bốn lần và các bác sĩ theo dõi rất kỹ càng quá trình của sự trị liệu. Thầy được phép mỗi ngày ra khỏi bệnh viện đi vào công viên một giờ đồng hồ để thiền hành. Thầy biết hiện giờ tại khóa tu có cả một ngàn thiền sinh tới tham dự, không khí của khóa tu chắc là hào sảng lắm. Vui quá đi! Thầy tin chắc là các vị giáo thọ của chúng ta, xuất gia cũng như tại gia, sẽ hướng dẫn khóa tu một cách xuất sắc, dù Thầy không có mặt. Nếu nhìn cho kỹ, quý vị sẽ thấy Thầy cũng đang có mặt trong khóa tu, thấy Thầy đang ngồi thiền với quý vị, đi thiền hành với quý vị, thở với quý vị. Thầy cảm thấy rất rõ là Thầy đang có mặt trong quý vị và quý vị cũng đang có mặt trong Thầy. Trong khóa tu này, quý vị sẽ có cơ hội nhận diện được tài năng và sự mầu nhiệm của Tăng thân, sẽ thấy được sự tiếp nối của Thầy nơi Tăng thân và thấy rằng sự có mặt của Tăng thân mang theo sự có mặt của Thầy. Quý vị hãy cho Thầy đi bằng hai chân mạnh khoẻ của quý vị, thở bằng hai lá phổi  lành mạnh của quý vị và cười bằng nụ cười tươi trẻ của quý vị.

Sau khóa tu tại trường đại học Stone Hill, một khóa tu đầy hào hứng và hạnh phúc, Thầy đã tới bệnh viện M.G.H. để kiểm tra sức khoẻ. Các bác sĩ nói Thầy phải ở lại bệnh viện để chữa trị ngay, không thể nào trì hoãn được. Vì vậy cho nên Thầy phải nghe lời. Thầy đang hết lòng chữa trị ở đây, biết rằng chữa trị cho Thầy cũng là chăm sóc cho quý vị, và Thầy biết quý vị cũng đang thực tập hết lòng ở bên đó để hồi hướng cho Thầy. Như vậy tuy cách xa nhau chúng ta vẫn không thấy có gì ngăn cách. Xin quý vị thực tập cho giỏi để Thầy có nhiều hạnh phúc và nhớ sau khi hoàn mãn khóa tu phải đem về nhà bộ băng giảng tại khoá Stone Hill để nghe, nhất là bài giảng cuối.

Hy vọng Thầy sẽ viết tiếp cho quý vị trong vài ngày tới, trước khi khóa tu hoàn mãn.

Thầy,
Thích Nhất Hạnh

Thân Kim Cương

Bích Nham ngày 07-10-2009
Thư gửi các con Bát Nhã của Thầy,


Sở dĩ Thầy viết “các con Bát Nhã của Thầy” mà không viết “các con của thầy ở Bát Nhã” như kỳ trước, tại vì tuy các con không còn cư trú ở Bát Nhã nữa, nhưng các con vẫn còn mang danh xưng tăng thân Bát Nhã.  Các con với Bát Nhã là một.  Đi đâu các con cũng mang Bát Nhã đi theo, và Bát Nhã đã trở thành một thân kim cương bất hoại.  Bài kệ mà chúng ta xướng tụng trước khi đọc kinh Kim cương có danh từ “thân kim cương” như sau:

Làm sao vượt sinh tử
Đạt được thân kim cương?
Tu tập theo lối nào
Quét được muôn huyễn tướng?
Xin Bụt đem lòng thương
Mở bày kho bí tạng
Vì tất cả chúng con
Đem pháp mầu diễn xướng!

Bát Nhã đã trở nên huyền thoại, đã trở thành thân kim cương, không ai có thể tiêu hủy được nữa.  Bát Nhã là một đóa sen ngát hương nở trên bùn lầy của vô minh, của sự sợ hãi, lo lắng, tham nhũng và lạm dụng quyền hành.  Bát Nhã đã đi vào lịch sử.  Và các con đã may mắn có cơ duyên góp phần làm phát hiện đóa sen Bát Nhã.  Bát Nhã đã trở thành một phần của gia sản văn hóa đất nước.

Các con Bát Nhã của thầy hiện giờ không phải chỉ đang tỵ nạn ở chùa Phước Huệ mà cũng đang có mặt ở nhiều nơi khác, trong nước và ngoài nước.  Ở đâu các con cũng có đóa sen Bát Nhã trong lòng.  Đó là chí nguyện tu tập và độ đời, đó là trái tim ban đầu, đó là tâm bồ đề.  Đó là nguồn năng lượng giúp cho chúng ta còn là chúng ta, giúp cho chúng ta không bị tha hóa, mua chuộc, và bỏ cuộc.

Thầy đang có hạnh phúc vì thầy đang viết thư tâm sự với các con.  Dưới bút hiệu Nguyễn Lang thầy đã viết cho Chủ Tịch Nước và cho các bậc nhân sĩ trí thức Việt Nam trong và ngoài nước để nhờ các vị ấy lên tiếng can thiệp về vụ Bát Nhã.  Và đây là thư thầy viết cho các con.

Trước hết, thầy muốn kể cho các con nghe là chùa Phước Huệ nơi mà một số các con đang tá túc là nơi thầy đã từng cư trú trong nhiều năm.   Đó là những năm trong thập niên 50.   Hồi ấy thầy còn trẻ lắm, và chùa Phước Huệ còn đơn sơ chứ không đồ sộ như ngày nay.  Phía sau chùa là một vườn chè có cả ngàn cây.  Thầy có một cái am nhỏ mái lá vách đất ngay giữa vườn chè.  Thầy ở đó một mình, trong am chỉ vẻn vẹn có một cái giường ngủ và một cái bàn viết.  Thượng Tọa Thái Thuận chắc có thể chỉ cho các con thấy địa điểm của chiếc am lá ngày xưa ấy.  Một đêm thầy nằm mơ thấy mẹ thầy, dung nhan không khác gì ngày xưa với mái tóc dài óng mượt.  Đang được ngồi nói chuyện với mẹ với rất nhiều hạnh phúc thì bỗng nhiên thầy thức dậy.  Và thầy nhớ ra rằng mẹ thầy đã mất trước đó mấy năm.  Thầy trỗi dậy, mở cửa đi ra ngoài.  Trong am không có nhà vệ sinh, và vì làng Công Hinh (tên ngôi Làng trong đó có chùa Phước Huệ) là một miền núi quê, chung quanh am này toàn là cây chè nên mình có thể ngồi đi tiểu giữa những cây chè.  Vừa bước ra khỏi am thì thầy tiếp xúc được với ánh trăng vằng vặc bao phủ cả đồi chè.  Trăng đêm ấy là trăng hạ tuần, sáng đẹp và hiền hòa vô cùng.  Đất trời rất thanh tịnh.  Và thầy có cảm tưởng là thầy đang được mẹ ôm vào lòng, tình mẹ dịu như ánh trăng khuya.  Bỗng nhiên thầy giác ngộ ra rằng mẹ của thầy chưa bao giờ mất, mẹ của thầy luôn luôn còn đó cho thầy, và bản chất của mẹ là vô sinh bất diệt.   Những đau buồn thương nhớ trong mấy năm mất mẹ vừa qua đột nhiên tan biến, và thầy đã mỉm cười trong ánh trăng khuya.  Thầy nhớ là thầy đã ghi câu chuyện này ở đâu đó, có thể là trong tác phẩm Nẻo Về Của ý.

Thầy biết là đồi chè bây giờ không còn nữa, chiếc am lá cũng không còn, nhưng nếu các con có dịp đi thiền hành bên ngoài trong khung viên chùa Phước Huệ vào một ban đêm có trăng, thì các con có thể hình dung lại cái đêm mầu nhiệm ấy, và nhìn lên mặt trăng các con sẽ thấy thầy và mẹ thầy đang mỉm cười với các con.

Trong chuyến đi hoàng pháp mùa Thu 2009 này ở Hoa Kỳ đã xảy ra một sự kiện mầu nhiệm, đó là khóa tu tổ chức tại công viên Estes ở tiểu bang Colorado.  Khóa tu này có 980 thiền sinh từ các tiểu bang đến tham dự, bắt đầu từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 8 năm 2009.  Trong số các thiền sinh ấy có khoảng 50 phần trăm những người chưa bao giờ gặp thầy, nghe thầy giảng hoặc tới tham dự một khóa tu với thầy.  Họ chỉ biết thầy qua những cuốn sách do thầy viết, xuất bản tại Hoa Kỳ.  Họ đến khóa tu mục đích là để trực tiếp nghe thầy giảng dạy và hướng dẫn tu tập.  Có rất nhiều vị đã phải đi máy bay nhiều tiếng đồng hồ mới tới được thành phố Denver rồi thuê xe lên núi dự khóa tu.  Đúng rồi, công viên Estes là nơi có cơ sở của tổ chức YMCA (Young Men Christian Association), có khả năng cung cấp chỗ cư trú, thức ăn và tiện nghi vệ sinh cho khoảng 1000 người; cao hơn mặt biển tới gần 1000 thước, nên rất mát và lạnh, cảnh vật núi rừng vĩ đại xanh tươi và mầu nhiệm.  Cứ mỗi hai năm một lần là thầy đến để hướng dẫn khóa tu, mà khóa nào cũng đông người tham dự.

Nhưng kỳ này vì bệnh cho nên thầy không thể tới tham dự và hướng dẫn khóa tu được.  Các bác sĩ tại bệnh viện Massachusetts General Hospital (MGH) sau khi chẩn bệnh cho thầy đã đề nghị thầy nên bỏ khóa tu tại trường Đại Học Stonehill ở tiểu bang Massachusetts thầy đang hướng dẫn nửa chừng, và bỏ luôn khóa tu ở YMCA nơi công viên Estes tại tiểu bang Colorado để điều trị bệnh nhiễm trùng phổi của thầy.  Các bác sĩ nói ít nhất thầy phải ở lại 14 ngày trong bệnh viện thì mới điều trị được.  Bác sĩ Sicilian, vị y sĩ trưởng nổi tiếng về cách điều trị bệnh nhiễm trùng phổi do vi khuẩn pseudomonas aeruginosa cũng là người chịu trách nhiệm về khu điều trị đặc biệt trên tầng lầu thứ 12 của bệnh viện đã khuyên thầy nên ở lại ngay bệnh viện đêm hôm ấy để bắt đầu điều trị.  Nhưng sau đó thầy đã quyết định về lại trường đại học Stonehill để hoàn tất khóa tu ở đấy trước khi trở lại nhập viện.  Khóa tu tại Stonehill có chủ đề là Be Peace, Be Joy, Be Hope (Bình An, Hạnh Phúc và Hy Vọng), khởi đầu từ ngày 11-08-09, và vào năm giờ chiều ngày 13-08-2009 thầy đã có được chút thì giờ để đi kiểm điểm lại sức khỏe.  Mấy tuần lễ trước đó, chứng bệnh nhiễm trùng đã trở nặng và thầy thấy thỉnh thoảng trong đàm khạc ra có chất máu đỏ tươi hoặc tím đen.  Sau bảy giờ đồng hồ chờ đợi và thử nghiệm, các bác sĩ đã khuyên thầy nên bắt đầu điều trị ngay, không được trì hoãn.

Thầy về tới trường Đại Học lúc 12 giờ khuya, và sáng hôm sau thầy cũng đã đi ngồi thiền với đại chúng, vẫn nói pháp thoại và đi thiền hành như không có chuyện gì xảy ra.  Không ai biết là thầy đang có bệnh.  Những bài pháp thoại trong ba ngày chót của khóa tu, ai cũng nói là rất hào hùng.  Thầy Pháp Đệ đã nói: trong khi nói các bài pháp thoại ấy, thầy rạng rỡ như có hào quang (you were luminous during these dharma talks).  Chỉ có các sư anh sư chị lớn của các con mới biết là thầy đang bệnh, và sẽ đi vào bệnh viện ngay sau khi chấm dứt khóa tu.  Chiều ngày 14-08-09 có một buổi họp đặc biệt của hội đồng giáo thọ, trong đó có các anh chị lớn được báo tin là thầy sẽ vào bệnh viện vào ngày thứ hai 17-08-09 và thầy sẽ không bay với tăng thân về Denver để cùng hướng dẫn khóa tu.  Trong buổi họp, hội đồng giáo thọ đã phân công và nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn khóa tu thay thầy, ai cũng có tinh thần tự nguyện rất cao, không cần có sự mời thỉnh.  Khóa tu ở Stonehill cũng rất đông, có khoảng gần một ngàn thiền sinh.  Ngoài các vị giáo thọ xuất gia, chưa ai biết là thầy sẽ không đi dự khóa tu ở YMCA, Estes Park, kể cả các thầy các sư cô.  Và khi gần đến giờ lên xe buýt đi ra phi trường, các thầy và các sư cô trong tăng thân mới biết là thầy sẽ không cùng bay với các vị ấy.   Đây là lần đầu tiên một sự kiện như thế đã xảy ra: thầy bỏ một khóa tu và tăng thân phải thay thầy hướng dẫn khóa tu.  Ban tổ chức biết thì giờ đã cận kề, không đủ thời gian để hoãn lại khóa tu, bởi vì tất cả đều đã được chuẩn bị: đặt phòng ốc, mua thực phẩm, xin nghỉ chép, mua giấy máy bay, hoặc đã lên đường về khóa tu bằng xe hơi hay xe buýt từ những tiểu bang khác rồi.

Chắc chắn là sẽ có rất nhiều vị thiền sinh buồn chán bất mãn và thất vọng vào ngày khóa tu khai mạc, khi biết rằng thầy không đến được.  Có những vị đã từng đọc sách thầy trong bao nhiêu năm, và đây là cơ hội đầu để có thể gặp thầy và tu tập với thầy.  Có những vị đã hứa với bạn bè và người thân sau khóa tu sẽ trở về thuật lại những kinh nghiệm gặp gỡ và tu tập với thầy.  Hy vọng và chờ đợi càng nhiều thì sự thất vọng buồn chán sẽ càng lớn.  Các thầy các sư cô lên đường bay về Denver với ý thức ấy, nhưng ai cũng có đủ can đảm để nhận chịu trách nhiệm: đây là cơ hội để chứng tỏ mình xứng đáng với sự trong cậy của Bụt, của chư Tổ và của Thầy.  Cơ hội là lúc này chứ không bao giờ nữa.  Cho nên ai nấy đều quyết tâm và hợp lực hướng dẫn khóa tu với tất cả tâm chí của mình.  Năng lượng cũng như tình huynh đệ trong tăng thân chưa bao giờ vững mạnh như trong những ngày ấy.

Trong khi đó thì thầy đã bắt đầu được trị liệu tại bênh viện MGH, một bệnh viện lớn nhất và có uy tín nhất trong vùng Đông Bắc Hoa Kỳ.  Nhập viện ngày 17-08-2009 thì đến sáng ngày 21-08-2009 thầy viết cho thiền sinh của khóa tu tại YMCA, Estes Park, Colorado một lá thư.  Tại bệnh viện, thầy nghe tin là tối hôm đó, khi nghe đọc lá thư của thầy, nhiều người đã khóc, xuất gia cũng như tại gia.  Tối hôm ấy sau khi đọc lá thư, các thầy và các sư cô đã trì tụng danh hiệu Quan Thế Âm và sau đó đã đưa ra những chỉ dẫn tổng quát về sự thực tập (orientation) cho trọn khóa tu.  Và tiếp theo thì toàn thể khóa tu thực tập im lặng hùng tráng cho đến giờ pháp đàm chiều hôm sau.  Sự thực tập im lặng hùng tráng này đã giúp cho khóa tu rất nhiều.  Rất nhiều người trong khi thực tập im lặng đã có cơ hội nhận diện và ôm ấp những bất mãn và thất vọng của mình, những tâm hành đã phát khởi khi nghe tin thầy không có mặt trong khóa tu.  Buổi thiền hành sáng ngày hôm sau, giờ ăn sáng im lặng và buổi pháp thoại đầu đã giúp cho nhiều vị thiền sinh ôm ấp và chuyển hóa được những tâm hành thất vọng, lo lắng và bất mãn của họ. 

Tại bệnh viện MGH thầy được nghe tin tức về khóa tu mỗi ngày hai lần.  Thầy được biết là các sư anh sư chị giáo thọ đã nói những bài pháp thoại rất hay và rất thực tế.  Thầy được biết là các thầy và các sư cô, không ai bảo ai, không ai cần sách tấn ai, tất cả đã có mặt rất đúng giờ trong các buổi sinh hoạt tu tập, và làm gương mẫu cho đại chúng một cách hết lòng và tất cả các thiền sinh đều cảm được điều ấy, do đó ai cũng nỗ lực tu tập.  Đến ngày thứ ba thì tất cả đều được chuyển hóa.  Trong buổi be-in (có mặt cho nhau) vào ngày thứ năm, có nhiều vị đã phát biểu rằng khóa tu “One Buddha Is Not Enough” này là khóa tu trong ấy họ được chuyển hóa nhiều nhất, và tuy thầy không có mặt với hình hài thầy, tất cả đều cảm thấy sự có mặt của thầy trong khóa tu, trong các thầy các sư cô và trong chính họ.  Sáng hôm ngày 25-08-09 thầy viết cho đại chúng khóa tu một lá thư thứ hai, và lá thư này đã được đọc trong đầu buổi sinh hoạt be-in này.  Trong lá thư thầy đề nghị rằng khóa tu tại YMCA ở công viên Estes nên được tổ chức hàng năm, dù thầy có mặt hay không có mặt, và mọi thiền sinh kể cả những vị mới tới lần đầu trong khóa tu này nên ghi danh đến tu tập và góp phần tổ chức khóa tu cho những người khác cũng có cơ hội đến tu tập.  Sau khi sư chị Đẳng Nghiêm đọc lá thư ấy và đặt câu hỏi là ai đồng ý với thầy để đến tu tập cùng nhau mỗi năm một lần ở đây, thì tất cả đều đưa tay lên tự nguyện.

Khóa tu đông tới 980 người mà chỉ có 15 người bỏ về vì lý do thầy không có mặt, còn tất cả đều ở lại để quyết tâm thực tập.  Vì thầy không có mặt nên tất cả đều nổ lực tu trì cho nên khóa tu đem lại rất nhiều chuyển hóa và an lạc.  Có nhiều người nói: khóa tu này tuy không có thầy, nhưng tôi thấy nó là khóa tu hay nhất từ trước đến giờ (it was the best retreat I have attended.)  Nghe kể lại như thế thầy rất hạnh phúc.  Thầy thấy là thầy đã được tiếp nối đầy đủ bởi tăng thân của thầy, thầy thấy thầy đã được các con của thầy tiếp nối thầy một cách đẹp đẽ.  Nếu thầy không bị bệnh và không vắng mặt trong khóa tu thì mọi người đã không có cơ hội chế tác được sức tự lực tự cường dũng mãnh như thế.  Cho nên trong cái rủi lại có cái may.

Cả thầy và cả tăng thân đều đã thấy rằng thầy đã được tiếp nối, và dù sắc thân này của thầy đang còn hay đã tàn hoại thì tăng thân vẫn tiếp tục lớn mạnh và sự thực tập sẽ mãi mãi được duy trì về sau.  Một vị thiền sinh sau khóa tu đã viết cho thầy, “Chúng con đã nhận được thông điệp của thầy:  One Buddha Is Not Enough.  Con hiểu: one Thầy is not enough.  Mỗi người trong chúng con phải thay thế được cho thầy.  Và khóa tu YMCA 2009 đã chứng thực được điều đó.”

Tây phương có câu ngạn ngữ: từ đống tro tàn, con chim Phượng Hoàng đã bay lên.  Từ cái Rủi, cái May đã được thoát hình.  Khóa tu YMCA 2009 là một con chim Phượng Hoàng tuyệt đẹp, nó đem lại cho chúng ta rất nhiều niềm tin và hạnh phúc.  Đóa sen Bát Nhã cũng là một con chim Phượng Hoàng khác thoát hình từ đống tro tàn của tham nhũng, lạm dụng quyền hành, u mê, sợ hãi và dối gạt.  Nhờ những bùn đất ấy mà đóa sen đã nở.  Các con của thầy, nhờ được trui luyện trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, đã học hỏi được rất mau chóng, đã chuyển hóa được rất mau chóng, đã tiếp nhận được sự trao truyền một cách mau chóng, đã đứng vững được như một tăng thân có hùng lực và từ bi, đã chứng tỏ được rằng vô úy, từ bi, hùng lực và hành xử bất bạo động là những gì có thực chứ không phải là những điều chỉ có trên đầu môi chót lưỡi.  Các con đã cứu chuộc (redempt) cho cả một cộng đồng Phật giáo trong nước cũng như ngoài nước.  Các con đã tỏ ra không thù oán gì thầy Đức Nghi và các thầy Đồng.   Các con đã tỏ ra không thù oán ngay những người đã tới đập phá Bát Nhã và trục xuất các con, trong đó có những chú công an.  Các con đã thấy được kẻ thù ta không phải là con người mà là vô minh, hận thù, bạo động, tham nhũng, hèn nhát, và dối gạt đang cần được chuyển hóa trong ta và chung quanh ta.  Một vị công an tại Dam’bri đã xin lỗi thầy Pháp Tụ khi thầy ấy điện thoại tới thăm hỏi và nói rằng sở dĩ ông ta đã hành xử như thế cũng là tại vì cấp trên ra lệnh.  Các con cũng đã thấy được cái khổ của người công an.

Trong giờ vấn đáp hôm qua tại khóa tu Enlightenment Is Now Or Never (Giác Ngộ là bây giờ hoặc không bao giờ hết) tại tu viện Bích Nham, một thiền sinh Tây Phương đã hỏi thầy, “Bạch thầy con rất muốn có từ bi đối với những người đã gây ra khổ đau cho nhiều người khác, nhưng sao con thấy khó thương được họ quá.”  Thầy đã trả lời: Quý vị đừng tưởng từ bi là một cái gì tiêu cực.  Từ bi là một năng lượng rất hùng tráng. Từ bi không có nghĩa là ngồi đó để người kia muốn làm gì thì làm. Có từ bi thì mình phải tìm cách chuyển hóa người đó.  Nếu cần tranh đấu thì phải tranh đấu, tạo áp lực quần chúng buộc người ấy phải chấm dứt hành động đàn áp hại nước hại dân của người ấy.  Làm như thế mà không có tâm niệm hận thù và ghét bỏ người ấy, cái đó mới đích thực là từ bi.  Từ bi phải đi chung với hùng lực.   Bài tựa Chú Lăng Nghiêm có câu: đại hùng, đại lực, đại từ bi. Các con của thầy nhờ đang có được một ít năng lượng của hùng lực và từ bi ấy cho nên đã đánh động được lương tâm thế giới, trong nước cũng như ngoài nước và gây niềm tin nơi pháp môn thực tập mà đức Thế Tôn chỉ dạy.  Chúng ta không lặp lại những giáo lý của Bụt như những con vẹt.  Chúng ta thực tình muốn ứng dụng giáo lý ấy vào cuộc đời.  Nếu tất cả các điều kiện đều thuận lợi hết, nếu không có khó khăn đến từ bên trong và bên ngoài thì các con đã không làm được những gì mà các con làm. Thầy cũng vậy, nhờ đã trải qua những khó khăn và tủi nhục nên thầy đã chế tác được năng lượng hiểu và thương và làm được như lời Bụt dạy trong Kinh Pháp Hoa: lấy mắt thương nhìn cuộc đời (từ nhãn thị chúng sanh).

Thư còn dài thầy sẽ gửi tiếp cho các con sau.


Âm thanh huyền diệu chiếc hồ cầm

Thầy đang viết tiếp cho các con từ thất Thạch Lang ở tu viện Bích Nham. Hôm nay là ngày 13 tháng 10, 2009. Thầy vừa đi New York về. Ở New York, Thầy và Tăng thân đã hướng dẫn hai ngày tu tập cho khoảng trên 2000 thiền sinh Hoa Kỳ thuộc Tăng thân miền Đông Bắc. Địa điểm là nhà hát Beacon ở đường Broadway, và đề tài của hai ngày thực tập là Xây Dựng một Xã Hội An Bình và Từ Bi (Building a Peaceful and Compassionate Society). Vào lúc 12g30 ngày 10.10.09, trên hai ngàn người đã được đi thiền hành ở đại lộ Broadway để gởi năng lượng về cho các con Bát Nhã của Thầy đang an trú ở Phước Huệ.

Thầy nhớ thời gian ở Phước Huệ, Thầy đã cư trú với hai vị huynh đệ của Thầy là thầy Tâm Cát và thầy Đức Trạm, cũng suýt soát tuổi Thầy. Cả ba người trong những năm 1940 đã từng học chung ở Phật Học Đường Báo Quốc, Huế. Thầy Tâm Cát tên đời là Huyền Tôn Viễn Lâu, thầy Đức Trạm là một trong các vị đệ tử lớn của Hòa Thượng Trí Thủ ở chùa Ba La Mật. Ba anh em ở đó tu học với nhau và hướng dẫn Phật tử cùng tu học. Chiều nào ba người cũng ra chơi bóng đá ở một khu đất rộng phía sau chùa. Hồi đó, chưa có ai trong giới xuất gia biết chơi bóng đá. Hòa Thượng Thiện Minh (tức là thầy Trí Nghiễm) hồi đó còn trẻ, tuổi khoảng 25, là người xuất gia đầu tiên chịu chơi bóng đá trước nhất, cùng với các chú sa di ở chùa Linh Sơn, Đà Lạt. Những năm sau đó thì có các thầy Như Trạm, Trí Không, Long Nguyệt và một số các vị học tăng khác từ Phật Học Đường Ấn Quang cùng lên Phước Huệ tu học với Thầy. Tại chùa Phước Huệ, Thầy cũng đã mở các lớp tiểu học và trung học cho trẻ em trong làng. Sư anh Nhất Trí của các con đã được xuống tóc ở đấy. Và cùng một ngày, một cậu bé khác cũng đã được xuống tóc và thọ ba giới. Cậu chỉ được thọ ba giới, bởi vì cậu còn bé quá, mới sáu hoặc bảy tuổi gì đó. Cậu bé sau này đã trở thành Hòa Thượng Nguyên Hạnh hiện giờ là Viện Chủ chùa Việt Nam ở Houston, một ngôi chùa thuộc hạng lớn nhất ở Hoa Kỳ. Sư anh Nhất Trí của các con có nét chữ viết tay giống hệt nét chữ của Thầy, cũng giống như sư chị Lương Nghiêm khi viết bút pháp thì nét chữ cũng rất giống nét chữ của Thầy. Sư anh Nhất Trí của con là một trong những người đi đầu trong phong trào Thanh Niêm Phụng Sự Xã Hội, và đã góp công xây dựng hai làng Tình Thương đầu tiên của phong trào này là làng Cầu Kinh và làng Thảo Điền. Chính Hòa Thượng Châu Đức đã mang sư anh từ Quảng Nam vào và gởi gắm cho Thầy. Những học sinh theo các lớp tiểu học hoặc trung học thời đó ở Bảo Lộc bây giờ đây đều đã trên sáu mươi hoặc bảy mươi, đa số đều đã trở thành ông nội hoặc bà ngoại… Các con hãy mỉm cười đi. Các con còn rất trẻ, hãy tập sống sâu sắc trong giây phút hiện tại, hãy cười bằng những nụ cười rất tươi và rất thật, hãy nhìn bằng con mắt thật hiền và thật sáng, hãy học thương yêu và tha thứ ngay trong giờ phút hiện tại, hãy chế tác những giây phút hạnh phúc với sự thực tập chánh niệm… để đừng trở thành những bậc đại lão hòa thượng sớm quá. Sư Ông của các con, Tổ Thanh Quý Chân Thật, đã giữ được tâm hồn trẻ thơ trong trắng của Ngài cho đến tuổi 80. Đó là nhờ Sư Ông đã nuôi nấng được Tâm Ban Đầu nguyên vẹn. Sư thúc Chí Mậu đã kể rằng vào giờ thị tịch, Sư Ông đã nằm trong tư thế sư tử tọa với hai bàn tay chắp lại thành búp sen. Thầy trò mình cũng mong ước thực tập được như Sư Ông, giữ gìn chí nguyện và Tâm Ban Đầu cho nguyên vẹn trong suốt một đời tu. Năng lượng của Tâm Ban Đầu đem lại cho chúng ta và cho những người thương của chúng ta rất nhiều hạnh phúc. Mà Tâm Ban Đầu là loại thực phẩm quý giá nhất của một người tu.

Trong chuyến đi này ở Bắc Mỹ, khi giảng dạy về Bốn Nguồn Thực Phẩm, Thầy đã đề cập tới Tư Niệm Thực trước, rồi mới nói tới Thức Thực, Xúc Thực và Đoàn Thực. Cách giảng dạy này được áp dụng bắt đầu từ khóa tu dành cho người xuất sĩ tổ chức ở Tu viện Lộc Uyển. Thầy mong các con Thầy khắp nơi có dịp được nghe ba bài pháp thoại của khóa tu ấy. Tâm Ban Đầu cũng gọi là Sơ Tâm hay Bồ Đề Tâm, là nguồn thực phẩm cần thiết nhất của chúng ta. Nó thuộc về nguồn thực phẩm thứ nhất là tư niệm thực. Ở ngoài đời, người ta gọi nó là lý tưởng, là chí hướng, là ước muốn sâu sắc nhất của một đời người. Có cái lý tưởng đó thì tự khắc ta có một nguồn năng lượng lớn giúp ta đi tới, vượt thắng được mọi chướng ngại, thực hiện được những mơ ước và đạt được nhiều hạnh phúc. Người không có lý tưởng và chí hướng là người không có sức sống. Đối với chúng ta, những người tu, lý tưởng ấy là chuyển hóa khổ đau trong ta và giúp đời chuyển hóa. Chúng ta đã đến với nhau vì lý tưởng ấy chứ không phải vì tìm cầu danh lợi, quyền hành và sắc dục. Và vì biết rằng danh lợi, quyền hành và sắc dục là thứ tư niệm thực có thể mang lại nhiều hoạn nạn và khổ đau cho thân tâm cho nên chúng ta đã quyết tâm từ bỏ chúng để đi tìm một nguồn tư niệm thực lành mạnh hơn, đó là tâm bồ đề. Tâm bồ đề lúc ban đầu mạnh lắm, nó giúp ta cắt đứt và buông bỏ hệ lụy một cách dễ dàng. Trong suốt một đời tu, ta phải biết nuôi dưỡng tâm ấy, đừng để nó bị soi mòn. Và do đó ta phải có nguồn thực phẩm thứ hai, đó là thức thực, nghĩa là tâm thức cộng đồng của một Tăng thân. Tăng thân là một đoàn thể của những người có cùng một chí hướng. Mọi người trong Tăng thân đều có nguồn năng lượng của tâm bồ đề, ai cũng muốn thực tập để chuyển hóa tự thân và để đóng góp vào sự nghiệp độ đời. Tăng thân trong khi sống đời sống lục hòa cọng trú, chế tác được năng lượng tập thể của Niệm, của Định và của Tuệ. Chính năng lượng này giúp nuôi dưỡng tâm bồ đề của mỗi thành phần trong Tăng thân. Sở dĩ các con của Thầy yêu mến Tăng thân, không muốn rời Tăng thân, tìm mọi cách để xây dựng Tăng thân, đó là vì các con có nhu yếu được nuôi dưỡng bởi năng lượng tập thể này. Cho nên khi người ta muốn giải tán Tăng thân thì các con đã tìm mọi cách để bảo hộ Tăng thân, không để cho Tăng thân tan rã.

Ở ngoài đời, những người đi làm cách mạng cũng có tâm bồ đề của họ. Họ có lý tưởng, họ có chí nguyện cứu nước, cứu dân, đánh đuổi quân xâm lược, tranh đấu cho nền độc lập của đất nước. Tư niệm thực của người đi làm cách mạng cũng lớn không kém tâm bồ đề của người tu. Và người làm cách mạng cũng cần đến một Tăng thân để nuôi dưỡng chí nguyện ấy, đó là tổ chức cách mạng của họ. Nếu trong Tăng thân chúng ta có tình đồng đạo, thì trong tổ chức cách mạng cũng có tình đồng chí. Chính cái tình đồng chí ấy là nguồn tư niệm thực nuôi dưỡng được chí khí và hành động của người cách mạng. Xây dựng tổ chức cách mạng phải có đạo đức cách mạng: liêm khiết và chính trực là hai đức tính căn bản của một tổ chức cách mạng. Cũng như giới, định và tuệ là bản chất của một Tăng thân. Nếu ta không thực tập giới luật, uy nghi và chánh niệm thì ta không nuôi dưỡng được năng lượng của Tăng thân. Nếu người cách mạng không thực tập liêm khiết và chính trực thì không nuôi dưỡng được tổ chức cách mạng và ngọn lửa cách mạng sẽ tàn lụi. Một Tăng thân cũng thế, nếu không có sự thực tập lục hòa cọng trú với năng lượng của niệm, định và tuệ thì Tăng thân sẽ không còn sức sống, bề ngoài thì giống như một đoàn thể tu học nhưng bên trong thì chỉ có những cá nhân đi tìm cầu tiện nghi vật chất và tình cảm cho một cuộc sống không lý tưởng. Giáo Hội là Tăng thân của mọi Tăng thân, nếu Giáo Hội được làm bằng những Tăng thân có sức sống lý tưởng của bồ đề tâm thì năng lượng của Giáo Hội sẽ hùng hậu và Giáo Hội sẽ trở thành nguồn năng lượng tư niệm thực cho cả hai chúng xuất gia và tại gia. Nếu không thì Giáo Hội chỉ là nơi người ta tới tìm cầu chức vị và quyền lợi. Nếu ngọn lửa thiêng cách mạng đã tàn lụi, thì tổ chức chính trị không còn sức sống, và những người xin gia nhập không còn là những người mang lý tưởng và chí nguyện cứu nước cứu dân nữa, mà chỉ là những người đi tìm cầu địa vị và quyền lợi mà thôi.

Khi các Cha của Dòng Chúa Cứu Thế lên tiếng để che chở cho Tăng thân Bát Nhã, Thầy thấy dòng tu này đang bảo trì được sức sống của một Tăng thân nên mới có đủ hùng lực để lên tiếng như thế. Khi Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội Lâm Đồng lên tiếng che chở và bảo hộ cho Tăng thân Bát Nhã thì Thầy thấy Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội còn bảo trì được sức sống của một Tăng thân nên mới có được đủ can đảm và tình yêu thương ấy. Mà sở dĩ các vị lên tiếng bảo vệ và che chở cho các con là vì Tăng thân Bát Nhã là một Tăng thân còn được nuôi dưỡng bởi Tâm Bồ Đề, không ai muốn chạy theo danh vọng, quyền hành và sắc dục, tất cả đều chỉ muốn tu tập và độ đời. Hồi tháng Tư năm nay, tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu bên Đức, Thầy đã nói một bài pháp thoại ngắn về Tăng thân và về cơ sở: cái quan trọng nhất là sự có mặt của một Tăng thân đẹp, còn cơ sở là vấn đề phụ thuộc. Có một trái đào thật đẹp thì mình mới đi tìm một cái đĩa hay một cái khay để đặt trái đào lên. Nếu không có trái đào thì cái đĩa hoặc cái khay ấy dùng để làm gì? Nếu không có cơ sở Bát Nhã này thì có cơ sở Bát Nhã khác, điều quan trọng nhất là phải xây dựng một Tăng thân đẹp. Hành động đầu tiên của Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ dưới cây Bồ Đề là đi tìm các bạn tu mà thành lập một Tăng thân. Dựng Tăng là sự nghiệp của các vị Bụt. Dựng Tăng cũng là sự nghiệp của bất cứ người tu nào. Cũng như người làm cách mạng thì phải xây dựng tổ chức đoàn thể cách mạng. Nếu không có Tăng thân thì sự nghiệp của một vị Bụt không thể nào thành tựu. Nếu không có tổ chức cách mạng thì sự nghiệp của người làm cách mạng không thành. Trong sáu mươi năm qua, Thầy của các con không có lúc nào bỏ lơi sự thực tập xây dựng Tăng thân. Thầy đã giúp dựng lên hàng ngàn Tăng thân trên thế giới, và mỗi Tăng thân như thế đã trở thành nơi nương tựa cho nhiều hành giả địa phương. Martin Luther King là người Thầy rất thân quen, đã nói tới Tăng thân như những “beloved communities” nghĩa là những “Tăng thân yêu quý”. Tăng thân Bát Nhã cũng là một trong những “Tăng thân yêu quý” này.

Ngày xưa khi còn là một người xuất gia trẻ, trong thời gian cách mạng chống Pháp, Thầy đã từng tìm cách che chở cho những chiến sĩ cách mạng gặp bước nguy nan tìm cách tỵ nạn trong chùa. Đây là một trong những việc làm nguy hiểm nhất: lính Pháp có thể bắn chết mình vì mình đã dám che chở cho quân kháng chiến. Các thầy Trí Thuyên, Tâm Thường và bao nhiêu vị xuất gia trẻ khác trong nước đồng lứa tuổi với Thầy đã bị bắn vì làm những công việc ấy. Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tìm đến ẩn náu tại các ngôi chùa, và các thầy các sư cô đã luôn luôn tìm cách bảo bọc và che chở họ. Đó là vì chúng ta ai cũng có tâm yêu nước, và vì yêu nước nên mới muốn bảo hộ cho các chiến sĩ. Trong lá thư gởi cho Chủ Tịch Nước ngày 30.09.09, Thầy đã nhắc lại chuyện này. Thầy chắc rằng Chủ Tịch Nước hồi còn làm một chiến sĩ cách mạng, cùng với bao nhiêu chiến sĩ khác mà bây giờ đã trở thành những bậc cách mạng lão thành, đã từng trải qua những gian nan hiểm nguy như thế và không thể nào quên được tình quân dân cá nước ngày xưa. Và cũng vì vậy cho nên trong lá thư ấy, Thầy cũng viết rằng những vị công an, cảnh sát nào và những người nào đã ra lệnh cho họ sử dụng mọi cách để đánh bật các con ra khỏi Bát Nhã “chắc hẳn không phải là con cháu của cách mạng”. Hành động ấy là một hành động vô ân, bất nghĩa, phản bội, không phải là hành động của truyền thống cách mạng. Và Thầy đã lên tiếng xin Chủ Tịch Nước ngăn chận lại hành động trái chống với đạo đức cách mạng, và với truyền thống luân thường đạo lý của đất nước ta. Tại sao những người công an này hành xử như thế, sử dụng những biện pháp bá đạo như thế? Tại sao họ không tiếp nối được truyền thống liêm khiết và chính trực của cách mạng? Tại sao họ không phải là con cháu của cách mạng? Tại sao tham nhũng và lạm dụng quyền hành lan tràn? Chỉ có một câu trả lời đích xác: tại vì ngọn lửa cách mạng đang tàn lụi, đạo đức cách mạng không còn và vì nguồn tư niệm thực là lý tưởng cách mạng không còn. Khi chúng ta không còn giữ được tâm bồ đề, thì ta không còn là “đạo hữu” của nhau, không còn là “đồng đạo” của nhau nữa, dù ta vẫn còn mang danh Phật tử. Khi chí nguyện cách mạng không còn, khi ta bị tham nhũng và lạm dụng quyền hành lũng đoạn thì ta cũng không thật sự còn là “đồng chí” của nhau, dù trên giao tiếp ta vẫn gọi người kia là đồng chí. Có lý tưởng, có tâm bồ đề và có tình huynh đệ rồi thì chúng ta đã có đủ hạnh phúc, chúng ta không cần đi tìm hạnh phúc về phía tiền bạc, danh vọng quyền hành và sắc dục nữa. Chúng ta sống với nhau một nếp sống lành mạnh và đơn giản. Thầy đã ngồi thiền với các con, ăn cơm chánh niệm với các con, thở với các con, nghe chuông với các con, đi thiền hành và chấp tác với các con, tổ chức các khóa tu với các con và tìm thấy hạnh phúc trong những giây phút sống chung ấy. Thì các chiến sĩ cách mạng cũng thế, họ sống với nhau hạnh phúc vì họ có lý tưởng, có khả năng buông bỏ những gì mang tới hệ lụy. Họ chiến đấu bên nhau, chịu đựng sương gió bên nhau, tại vì họ có tình đồng chí, tại vì họ được sưởi ấm bởi lửa thiêng cách mạng.

Nói như vậy không có nghĩa là ngày nay ta không khơi dậy lại được ngọn lửa của Tâm Bồ Đề đã tàn lụi trong ta, không có nghĩa là ta không làm sống dậy được ngọn lửa thiêng cách mạng đang tàn lụi trong ta. Khi các con đến với Tăng thân, ngọn lửa của bồ đề tâm trong các con đã được khơi dậy. Biết bao nhiêu người xuất gia trẻ sau khi đọc tác phẩm “Nói Với Người Xuất Gia Trẻ” và tiếp xúc với Tăng thân đã khôi phục lại được tâm bồ đề của họ. Và chúng ta đã bắt đầu sống với nhau rất thật, rất hạnh phúc, bởi vì trong chúng ta ngọn lửa của chí nguyện đang bốc cháy. Người trẻ đến với chúng ta càng ngày càng đông. Và đây là điều làm cho kẻ khác sợ. Họ đã gửi người tới trà trộn với chúng ta ở Làng Mai, ở Lộc Uyển, ở Từ Hiếu, ở Bát Nhã, ở khắp nơi, để xem chúng ta thực sự đang làm gì và tại sao chúng ta hấp dẫn được những thành phần trẻ mau chóng như thế? Chúng ta có bí quyết gì không? Chúng ta không có bí quyết gì cả! Nếu có một cái gọi là bí quyết thì đó là vì ta biết sống thật với nhau trong tình huynh đệ, chúng ta biết buông bỏ những đeo đuổi nào có thể mang tới hệ lụy, chúng ta có lý tưởng tu tập, giúp người và độ đời. Và chúng ta sống từng phút giây với lý tưởng ấy. Vì vậy cho nên khi người trẻ tiếp xúc với chúng ta cũng thấy trái tim họ được thắp lên bởi lý tưởng độ đời ấy. Chuyện này chắc chắn cũng có thể được thực hiện trong một đoàn thể hay một tổ chức cách mạng: nếu người ta sống thực với nhau, nếu người ta khơi dậy được ngọn lửa lý tưởng cách mạng, nếu người ta có năng lượng của lý tưởng thì nạn tham nhũng và sự lạm dụng quyền hành sẽ bị đánh bại, và những người tới với tổ chức không còn là những người vụ lợi, những người cơ hội chủ nghĩa nữa.

Nếu những người đến dò xét ta thấy được sự thực này thì “cả hai bên cùng có lợi”: ta được an ổn tu hành còn họ học được cách vực dậy niềm tin nơi lý tưởng. Đằng này họ không thấy được cho nên họ nghi ngờ. Và từ nghi ngờ đi tới sợ hãi. Vì sợ hãi họ đã sử dụng những biện pháp phi đạo đức để giải tán một đoàn thể những người trẻ mà họ có cảm tưởng không kiểm soát được. Sự thực: có cần phải kiểm soát sự nuôi dưỡng đạo đức hay không?

Có một ông vua rất hiếu kỳ muốn tìm hiểu tại sao một chiếc hồ cầm có thể phát ra những âm thanh kỳ diệu như thế và đã ra lệnh chẻ chiếc hồ cầm ra để tìm bí quyết. Chẻ chiếc đàn ra thành hàng trăm mảnh mà không tìm ra được gốc gác của những âm thanh kỳ diệu đã nghe. Phải ngồi quán sát cây đàn và cách đánh đàn, chứ không thể chẻ cây đàn ra được. Tăng thân cũng như một cây đàn, cứ tham dự và quán sát, thì sẽ thấy được phép lạ của Tăng thân, tại sao phải chẻ Tăng thân ra thành nhiều mảnh, gửi mỗi mảnh về quê quán của mình để mất đi cơ hội học hỏi? Các bậc cách mạng lão thành, và tất cả những ai trong chúng ta còn giữ được chút lửa hồng của cách mạng trong lòng, nhờ sự thực bung ra từ pháp nạn Bát Nhã, đều có cơ hội quán chiếu để làm cháy lên trở lại ngọn lửa huyền diệu ngày xưa.

(thơ còn dài, Thầy sẽ gửi tiếp sau)

Sống mỗi ngày cho đẹp,
Thầy

Khơi dậy ngọn lửa thiêng

Tu Viện Bích Nham

Hôm qua tại thiền đường Đại Đồng của tu viện Bích Nham đã có lễ xuất gia cho hai người trẻ tuổi, một người đã tốt nghiệp Nha Khoa và một người đã tốt nghiệp Kinh Doanh. Đó là hai sư cô Chân Lân Nghiêm và Chân Mạnh Nghiêm. Hai người này đã có cơ hội được thầy chỉ dạy về giới luật và uy nghi trong suốt một tuần lễ trước ngày xuất gia. Các vị này đã được chấp nhận thường trú ở xóm Hạc Trắng của Tu viện Bích Nham.

Thầy nhớ khi xuống tóc cho các sư em thầy đã nhất tâm hộ niệm để các em giữ mãi được tâm ban đầu trong suốt một đời tu. Giữ được tâm ban đầu thì thế nào tu tập cũng thành công. Có những người tu thành công, và có những người tu không thành công. Nếu người tu không biết cách thực tập thì có thể bị hư hỏng trong khi tiếp nhận sự cung kính và cúng dường từ người tại gia. Cho nên mỗi khi có một đợt người trẻ xuất gia, điều đầu tiên thầy căn dặn họ là phải rất cẩn thận trước sự cung kính và cúng dường của người cư sĩ.

Khi mặc vào chiếc áo tu, mình trở thành biểu tượng của Tam bảo là Bụt, Pháp và Tăng. Mình đại diện cho Tăng Bảo. Trong Tăng Bảo có Pháp Bảo và Phật Bảo. Vì vậy thấy hình dáng của một vị xuất gia, người cư sĩ có khuynh hướng muốn tỏ bày niềm cung kính. Và cách thức tỏ bày niềm quy kính ấy là lễ lạy và cúng dường.

Một người mới xuất gia phải thực tập như thế nào khi có người tới lễ lạy? Ta có khuynh hướng muốn nói: xin đừng lạy tôi, tại vì tôi mới xuất gia, chưa có đức độ gì để quý vị lễ lạy. Nhưng nếu ta từ khước như thế  thì vị cư sĩ kia mất đi một cơ hội để tỏ bày niềm quy kính Tam Bảo của người ấy. Cho nên ta phải ngồi thật yên, theo dõi hơi thở và quán chiếu: người cư sĩ kia đang tỏ bày niềm quy kính đối với Tam Bảo chứ không phải đang tôn sùng cái ngã của mình. Mình phải ngồi thật yên cho người ấy lạy. Họ lạy Tam Bảo chứ không phải lạy mình. Và như thế mình sẽ được an toàn, và đức khiêm cung của mình sẽ được bảo vệ. Nếu không thì mình sẽ hư hỏng. Hư hỏng vì mình tưởng mình là đối tượng của sự cung kính. Cũng như lá cờ quốc gia.  Lá cờ ấy chỉ là một mảnh vải. Người ta chào cờ là người ta chào một quốc gia chứ không phải chào một mảnh vải. Nếu mảnh vải nghĩ nó là đối tượng của sự kính trọng kia thì mảnh vải đã lầm.

Bản thân thầy vốn không thích để ai lễ lạy. Nhưng mà thầy phải tập ngồi để người ta lễ lạy. Lễ lạy là một phép thực tập quan trọng của người tại gia. Mình phải ngồi với chánh niệm để đại diện cho Tam Bảo. Nếu thực tập được như thế thì người lễ lạy nuôi dưỡng được niềm tôn kính Tam Bảo, còn mình cũng nuôi dưỡng được đức khiêm cung. Nếu không thực tập thì mình trở thành nạn nhân của sự cung kính và đời tu của mình sẽ thất bại.

Sư Ông của các con, tổ Thanh Quý, là một người có đức khiêm cung rất lớn. Bản tính của Sư Ông là không thích ai lễ lạy mình, nhưng vì là một vị thầy nên Sư Ông phải để cho người ta lễ lạy. Khi đại sư Chí Niệm xây tháp cho Sư Ông, Sư Ông dặn là phải an trí trên chóp tháp một tượng đức Bổn Sư, như vậy sau này có ai đến lễ lạy ở tháp, Sư Ông  muốn đó là họ đang lễ lạy đức Bổn Sư chứ không phải là lễ lạy Sư Ông. Ở chùa tổ Từ Hiếu ai cũng biết chuyện đó. Thầy trò chúng ta phải học cho được thái độ khiêm cung ấy của Tổ Thanh Quý. Đức khiêm cung đó sẽ có thể giữ cho chúng ta mãi mãi còn là chúng ta. Chúng ta thấy cả trong hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông đều có những vị xuất gia hư hỏng vì thiếu sự thực tập này; các vị ấy thấy người ta lễ lạy mình thì cứ tưởng là người ta đang khâm phục cái ta của mình. Trong khi đó ai cũng biết rằng cái ta là cái đáng ghét nhất. Trong truyền thống đạo Bụt, cái ta chỉ là một ảo tưởng.

Khi lạy xuống, ta có cơ hội buông bỏ ảo tưởng về cái ta. Năm vóc sát đất, ta mở rộng hai bàn tay. Ta quán chiếu: “Lạy đức Thế Tôn, lạy chư vị tổ sư tâm linh và huyết thống, con không có gì để tự hào cả. Những gì con đang có như một chút ít tài năng, một chút thông minh, tất cả đều do đức Thế Tôn và liệt vị trao truyền. Con chỉ là sự tiếp nối của liệt vị.” Khi quán chiếu như thế ta thấy trong con người của ta có rất nhiều không gian, có rất nhiều tự do, và ta buông bỏ được mọi mặc cảm tự tôn. Nếu ta có mặc cảm tự ti, ta cũng quán chiếu như thế: “Lạy đức Thế Tôn, lạy chư vị tổ sư tâm linh và huyết thống, con có những yếu kém, những yếu kém này cũng không phải là con mà đã được trao truyền lại. Là sự tiếp nối của liệt vị, con nguyện sẽ thực tập để chuyển hóa những yếu kém ấy trong con, và đáp ứng được sự trông đợi của liệt vị.”

Đời sống của người xuất gia phải vừa khiêm cung vừa giản dị. Mười giới sa di và sa di ni mà ta tiếp nhận ngày ta được gia nhập đoàn thể của những người xuất gia là những giới pháp đẹp tuyệt vời. Giới thứ sáu là không sử dụng các loại mỹ phẩm và các đồ trang sức, giới thứ bảy là không vướng mắc vào các lối tiêu khiển trần tục, giới thứ tám là không sống đời vật chất sang trọng và xa hoa. “Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất và xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào, con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là, gấm vóc, xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang.” Cái đẹp của người xuất gia được làm bằng đức khiêm cung và nếp sống đơn giản. Cho nên khi tiếp nhận phẩm vật cúng dường, người xuất gia không giữ phẩm vật ấy cho mình mà phải chuyển lại cho đại chúng, nghĩa là cho đoàn thể của người xuất gia. Những phẩm vật cúng dường này là để dành cho những vị nào đang thực sự thiếu thốn. Đời sống xuất gia thì phải “tam thường bất túc” nghĩa là trong ba cái ăn, mặc và ở thì đừng có cái nào quá đầy đủ. Phải thiếu một chút thì mới đúng. Ví dụ ăn thì không nên ăn quá no. Mặc thì không nên mặc quá ấm, đừng nói là quá đẹp. Ở thì không nên ở quá tiện nghi, đừng nói là quá sang. Theo tiêu chuẩn ấy mà xét, ta có thể thấy được ai là người chân tu, ai không phải là  người chân tu. Khoác áo người xuất gia, ta có tư cách để tiếp nhận sự cung kính và cúng dường. Nếu ta không thực tập, thì ta sẽ lạm dụng sự cung kính và cúng dường ấy và đánh mất pháp thân của ta. Pháp thân là đời sống tâm linh đích thực.

Thầy có cái may mắn là tới tuổi này rồi mà thầy vẫn còn cảm thấy e thẹn khi có một vị cư sĩ cúng dường. Các con biết đó, thầy cũng sống đơn giản như các con, và mỗi khi có ai cúng dường thầy chẳng bao giờ giữ lấy cho riêng thầy. Đạo tràng nào của chúng ta cũng có chương trình Hiểu và Thương, và chúng ta luôn luôn biết cắt bớt sự tiêu thụ để chia sẻ những tài vật đang có với những người thiếu thốn: những bé cô nhi, những bô lão cô đơn, những trẻ em thiếu học hành và dinh dưỡng, những nạn nhân của nghèo đói, bệnh tật và thiên tai.  Chúng ta nuôi dưỡng từ bi bằng những chương trình cứu trợ ấy. Và ta có biết bao nhiêu sư anh sư chị và các thân hữu cư sĩ đã và đang hết lòng giúp chúng ta làm việc này. Đó là một trong những hạnh phúc lớn của người xuất gia. Đó là sự thực tập giới thứ hai: chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật với những kẻ thiếu thốn. Hạnh phúc của chúng ta được làm bằng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ chứ không phải là làm bằng khả năng tiêu thụ. Sở dĩ những người trẻ tới đông đảo với chúng ta vì họ thấy được cái hạnh phúc đó. Đến với chúng ta, họ thực tập buông bỏ được những hệ lụy và khổ đau của họ, và họ nếm được chất liệu hạnh phúc do lý tưởng và tình huynh đệ đem lại. Hai vị mới được xuất gia ngày hôm qua đều là con nhà đại gia, có học vị cao, có dư điều kiện sống một đời sống vật chất dư dã và xa hoa, nhưng các vị ấy đã buông bỏ hết để được xuất gia.  Mắt họ long lanh khi tiếp nhận giới pháp, điều này chứng tỏ họ đang có hạnh phúc lớn, và hạnh phúc ấy được làm bằng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ.

Thầy thấy người đi làm cách mạng cũng có chí hướng tương tợ như chí hướng của những người xuất gia. Hành động của Siddharta Gotama khi bỏ ngai vàng để đi xuất gia cũng là một thứ hành động cách mạng. Sở dĩ ta buông bỏ được là tại vì ta có chí nguyện lớn.  Người làm cách mạng phải là người có chí nguyện lớn, nếu không thì người ấy cũng không buông bỏ được nếp sống phù hoa để đi theo con đường phụng sự đất nước. Và cũng như người xuất gia, người cách mạng cũng phải sống một nếp sống đơn giản không nặng nề danh vọng và lợi lộc. Một nhà cách mạng chân chính cũng sống một nếp sống đơn giản như một người xuất gia, và cũng có cái hạnh phúc tương tợ như cái hạnh phúc của người xuất gia, nghĩa là có chất liệu lý tưởng và có tình huynh đệ, có tình đồng chí. “Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá.  Miệng còn cười, chân giá buốt không giày.  Yêu nhau tay nắm lấy bàn tay.” Theo tinh thần này, thì một người công an cũng là một chiến sĩ cách mạng. Người công an cũng có thể sống có hạnh phúc với lý tưởng cách mạng và với tình đồng chí như người xuất gia.

Trong số các vị đệ tử thọ giới Tiếp Hiện tại Hoa Kỳ, có một đại úy công an tên là Cheri Maples. Vị này đã tu tập rất giỏi theo pháp môn Làng Mai, ban đầu thì thọ Năm Giới, nhưng sau đó nhiều năm đã thọ giới Tiếp Hiện, và năm 2008 đã được nhận lễ Truyền Đăng làm giáo thọ cư sĩ. Thật ra Cheri Maples trong hơn mười năm qua đã làm trách vụ giáo thọ cư sĩ một cách xuất sắc rồi, và quần chúng mà vị này hướng dẫn tu tập phần lớn đã thuộc về giới những người có nhiệm vụ giữ gìn an ninh cho xã hội, trong đó có giới cảnh sát, công an, thẩm phán, luật sư và ban quản giáo các nhà tù, các trung tâm cải huấn. Cheri Maples đã ở trong ngành cảnh sát 20 năm, đã từng giữ trách vụ đào tạo cảnh sát công an, có nhiệm vụ bổ dụng và cất chức những vị này.

Trong 20 năm phục vụ ở ngành Cảnh Sát, Cheri Maples đã thực tập theo pháp môn Làng Mai được 14 năm. Sự thực tập này đã giúp cho Cheri chuyển hóa rất nhiều và đã giúp cho Cheri thành công lớn trong việc đào tạo phân phối và bổ nhiệm nhân viên Cảnh Sát. Do sự thành công lớn lao đó mà Cheri đã được đưa lên một chức vị cao trong cục Cải Huấn và Tư Pháp. Trong nhiệm vụ mới này, Cheri đã huấn luyện hơn 1500 nhân viên, trong đó có các luật sư, chánh án, sĩ quan công an và quan chức nhà nước, huấn luyện bằng cách sử dụng những pháp môn mà Cheri đã học được từ Làng Mai. Trong hiện tại, Cheri đang áp dụng những pháp môn (gọi là kỹ thuật tu tập) ấy để giúp cho những nhân viên quản trị các trại giam và ngay cho những người bị giam giữ trong các trại tù ấy.

Năm 2003, Cheri đã tổ chức một khóa tu tại Madison, Wisconsin cho trên 650 người, trong đó phần lớn là các nhân viên Cảnh Sát, Công An, và các viên chức trong ngành Tư Pháp. Thầy và tăng thân Làng Mai đã được mời tới hướng dẫn khóa tu này. Trong khóa tu này, không có đốt hương, không có tụng niệm, không có lễ nghi, chỉ có sự thực tập để làm lắng dịu và chuyển hóa thân tâm, làm sống dậy và nuôi dưỡng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ, đem một chiều hướng tâm linh vào đời sống chuyên nghiệp, để có thể thành công hơn trong nghiệp vụ và để có thêm niềm vui trong đời sống hàng ngày. Khóa tu thành công lắm. Các con hãy tưởng tượng những chú cảnh sát Hoa Kỳ to con đang tập đi thiền hành với những bước chân thảnh thơi, đang tập ngồi thiền với những hơi thở lắng dịu, đang tập hạnh lắng nghe và ái ngữ với một thế ngồi bình an. Giới cảnh sát công an và các viên chức làm trong ngành Tư Pháp có một đời sống rất căng thẳng và nhiều khổ đau. Các con có biết là mỗi năm ở Hoa Kỳ có khoảng 300 cảnh sát viên tự tử bằng súng của chính họ không? Hành động này gọi là ăn súng của chính mình (eating their own gun). Số lượng các vị cảnh sát tự tử bằng súng của mình đông bằng hai lần số lượng cảnh sát bị côn đồ và tội đồ bắn chết.  Giới viên chức quản trị các trại giam cũng có rất nhiều căng thẳng vì phải đối diện thường xuyên với năng lượng bạo động trong trại giam và ngay trong chính bản thân. Người ta cho biết là sau 20 năm phục vụ trong ngành này, phần lớn các nhân viên chỉ có tuổi thọ trung bình là 58 tuổi.

Những nhân viên cảnh sát và công an đã từng tới Bát Nhã và đã gây khó khăn cho các con Bát Nhã của thầy chắc chắn cũng có nhiều căng thẳng và khổ đau trong bản thân. Họ là viên chức nhà nước và phải tuân theo mệnh lệnh của cấp trên, nhiều khi buộc phải làm những điều khiến cho họ cảm thấy bứt rứt trong thân tâm họ. Các baby monks của thầy khi viết thư cho các chú công an đã thấy được điều này, cho nên thầy đã thầm khen các con khi thầy được đọc lá thư ấy. Lương bổng của người công an không đủ sống, thầy biết như vậy, và một số những người công an đã phải sử dụng quyền hành và chức vụ của mình để kiếm thêm tiền, do đó cũng dần dần đánh mất lý tưởng phục vụ đất nước của họ.

Cheri Maples nói rằng năm 1984, khi đi vào ngành Cảnh Sát, nguyện ước sâu sắc nhất của cô là phục vụ cho hòa bình, chấm dứt bạo động và bất công xã hội. Đó là chất liệu lý tưởng. Cheri viết trong bài tựa một cuốn sách của thầy những dòng sau đây: “Mỗi đêm, tôi đều trăn trở với những khổ đau do nghèo đói, kỳ thị chủng tộc, bất công xã hội, trộm cắp, lạm dụng tình dục, bạo hành trong gia đình, tiêu thụ bừa bãi và áp bức xã hội gây nên. Tôi khao khát bình an, nhưng tôi không biết rằng cái bình an ấy phải tới từ trái tim của mình trước. Tôi bị tràn ngập bởi những khổ đau mà tôi chứng kiến được trong xã hội, bởi những hiểu lầm, và bởi chính cái chính sách của nha Cảnh Sát Công An của tôi. Cái bất bình giận dữ của kẻ khác đã thắp cháy lên cái bất bình giận dữ trong tôi. Và tôi bắt đầu thực hành nhiệm vụ của tôi một cách máy móc. Tôi bắt đầu uống rượu. Tôi bị chứng trầm cảm.  Và tôi đã tạo ra khổ đau cho tôi, cho những người thân, và cho cả những người khác.” Sau khi được tiếp xúc với Pháp Môn Làng Mai, được biết rằng có thể mang bên hông một khẩu súng với chánh niệm thì Cheri mới bắt đầu được chuyển hóa, và đã làm sống dậy được lý tưởng của mình. Cuối cùng Cheri đã phục vụ được thật nhiều cho đất nước và dân tộc của Cheri. Hạnh phúc của Cheri tăng tiến rất nhiều, đó là nhờ công phu tu tập. Nghe tin các con bị trục xuất khỏi Bát Nhã và đang bị bao vây tại Phước Huệ, Cheri đã viết thư cho Chủ Tịch Nước và Ông Bộ Trưởng Bộ Công An để nhờ can thiệp cho các con được trở về tu tập an ổn tại nơi các con đã được xuất gia, và Cheri đã gửi cho thầy một bản sao của lá thư ấy. 

Nếu Cheri đã tu tập thành công, đã làm sống dậy được lý tưởng phụng sự đất nước, đã tìm được niềm vui trong đời sống phục vụ quốc gia, nhờ vào công phu tu tập, thì các chú công an của mình cũng có thể làm như thế được, phải không các con, nhất là khi ta biết rằng nhiều vị sĩ quan và nhân viên công an cũng là con nhà Phật tử.  Trong lá thư gửi cho Chủ Tịch Nước và Ông Bộ Trưởng Bộ Công An, Cheri đã nói lên ước vọng là trong tương lai sẽ có những khóa tu tổ chức cho giới cảnh sát và công an tại Việt Nam như khóa tu đã từng được tổ chức ở tiểu bang Wisconsin, và có thể có khả năng là các vị cảnh sát và công an Hoa Kỳ cũng được đi Việt Nam thực tập chung với các vị cảnh sát và công an Việt Nam. Khóa tu ở Wisconsin thành công lớn lắm, tuy không phải là một khóa tu dễ dàng. Khổ đau và thành kiến lúc ban đầu rất lớn, đã được từ từ chuyển hóa trong khóa tu.   Khóa tu ấy có chủ đề là “Canh Giữ Cho Hòa Bình” (Keeping the Peace). Chủ đề này làm thầy nhớ bài hát của thiếu nhi Việt Nam ở ngoài Bắc “Chú bộ đội, chúng cháu yêu chú lắm, súng vác trên vai, chú canh giữ cho hòa bình.” Những thực tập trong khóa tu đã giúp cho mọi người thực hiện thêm được rất nhiều bình an trong lòng người nhân viên công an và trong các cộng đồng xã hội mà những vị ấy phục vụ. Cheri đã viết trong lá thư: “Nhờ sự giáo huấn của Thầy, cả Cục Cảnh Sát trong đó có tôi đã được chuyển hóa. Từ những nhân viên chỉ biết sử dụng quyền hành, chúng tôi đã trở nên những chiến sĩ hòa bình có liên hệ tốt đẹp với quần chúng.”

Các khóa tu tổ chức cho giới cảnh sát công an, cũng như các khóa tu tổ chức cho giới dân biểu và quan chức nhà nước đều được tổ chức dưới hình thức không tôn giáo (non sectarian) vì vậy cho nên trong các khóa tu ấy không có sự thực tập nghi lễ và tín mộ, bởi vì luật lệ của các nước dân chủ Tây phương là như thế: “Không được trộn lẫn giáo quyền và chính quyền.” Thầy và Tăng thân đã tôn trọng nguyên tắc ấy, và các khóa tu kia không có mục tiêu khuyên người ta trở thành Phật tử mà chỉ muốn giúp cho người thực tập chuyển hóa khổ đau và khó khăn nội tâm, tìm lại được niềm tin nơi lý tưởng và tình huynh đệ. Cái học trong các Phật học đường của chúng ta có tính lý thuyết nhiều hơn thực tập, và vì thế những pháp môn thực tập này cần phải được đưa vào các trường cơ bản, trung cấp và cao cấp Phật học, để cho đạo Phật thật sự có thể được ứng dụng thực tế vào đời sống hàng ngày. Có sự thực tập này, người tu mới phục hồi và giữ vững được lý tưởng của người xuất gia, không bị lợi và danh ràng buộc. Sự thực tập này cũng rất có ích lợi cho các trường Trung Cấp Công An Nhân Dân, các trường Đại Học Cảnh Sát Nhân Dân và các Học Viện An Ninh Nhân Dân. Nó có thể được giảng dạy như một môn học và thực tập không có màu sắc tôn giáo, giống như trong khóa tu Wisconsin. Thầy nghĩ rằng vị Vụ Trưởng Vụ Hợp Tác Quốc Tế của ngành Công An có thể trao đổi với Giáo Thọ Cheri Maples để có thêm kiến giải về vấn đề này và các vị giáo thọ của chúng ta cũng sẽ có thể góp phần trong việc giảng dạy và thực tập trong các cơ sở đào tạo nhân viên Công An và Cảnh Sát ấy. Làm được công việc ích nước lợi dân thì dù có bị chụp mũ là cộng sản cũng không sao, miễn là nhờ đó mà dân chúng bớt khổ. Công an khổ thì dân chúng cũng khổ theo.  Công an có những khổ đau trong lòng mà không giải tỏa được thì sẽ trút lên đầu gia đình và trên đầu dân chúng. Công an mà tham nhũng và lạm quyền thì không những tội cho công an  mà còn tội cho chánh quyền và nhất là cho dân chúng. Giáo dục làm sao mà những chánh sách của các Tổng Cục và của các Cục có thể đáp lại nhu yếu đích thực của người dân thì đó mới là một nền giáo dục thật sự hữu ích. 

Này các con của thầy, trong lịch sử, cứ thỉnh thoảng lại có một vị đại đạo sư xuất hiện để thanh lọc và làm mới lại truyền thống Phật giáo. Các vị như Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Huyền Trang, Huệ Năng, Lâm Tế, Trí Giả, Tăng Hội v.v. đều là những nhà cách mạng có khả năng làm cho đạo Bụt trẻ lại, để có thể phục vụ hữu hiệu hơn trong những hoàn cảnh xã hội đã thay đổi. Đạo sư Thái Hư trong những năm 30 của thế kỷ trước đã kêu gọi “Cách  mạng giáo lý! Cách mạng giáo chế! Cách mạng giáo sản!”; rất nhiều người trong giới xuất gia nước ta đã lắng nghe những lời kêu gọi ấy và đã nỗ lực tìm cách chấn hưng đạo Phật. Suốt một cuộc đời thầy, thầy cũng chỉ tìm cách làm những việc ấy. Nếu không cách mệnh giáo lý thì khó có thể ứng dụng giáo lý vào đời sống mới, vì vậy từ đạo Bụt nhập thế mình đã có đạo Bụt ứng dụng. Nếu không cách mạng giáo chế thì giới luật và uy nghi truyền thống không đủ để đối phó với những vấn nạn lớn của thời đại và những băng hoại trong xã hội nhiều tệ nạn ngày nay. Vì vậy mà mình đã có Năm Giới tân tu, Mười Giới tân tu, dòng Tiếp Hiện, và giới Khất Sĩ tân tu. Nếu không cách mệnh giáo sản mà cứ bám vào chế độ cúng dường thì làm sao có đủ tự do để thực hiện cách mạng giáo lý và cách mạng giáo chế và để đóng góp được vào công tác thanh lọc và xây dựng một xã  hội công bình và lành mạnh? Không có cách mạng giáo lý, giáo chế và giáo sản thì đạo Phật sẽ trở nên già nua, hư hỏng, thiếu sự sống, không tiếp tục được nữa sứ mạng của mình, và sẽ bị đào thải. Một tổ chức chính trị cũng vậy, nếu không có ngọn lửa cách mạng nuôi dưỡng thì sẽ trở nên già nua, hư hỏng, đi ngược lại với bản hoài của mình lúc ban đầu, và những người tìm cách gia nhập tổ chức cũng chỉ vì lợi lộc mà không phải vì lý tưởng.

Trong chuyến về nước năm 2007 thầy đã có dịp một mình ghé vào một ngôi chùa ở Hà Nội để quan sát. Trong chính điện, ở tổ đường, ngoài sân chùa, hễ nơi nào có tượng Phật, tượng Bồ Tát, La Hán, Tổ Sư, Hộ Pháp, Thánh Mẫu v.v. thì đều có tiền cúng dường trên tay các bức tượng. Thầy có cảm tưởng là tất cả các vị Bụt, Bồ Tát, La Hán, Tổ Sư, v.v. đều trở thành những người ăn hối lộ, và các vị đều là những vị thần linh chỉ phù hộ cho những ai biết đút lót cho mình mà thôi.  Hình ảnh này cho ta thấy thế giới thần linh chỉ phản ảnh thế giới nhân sự:  ai không chấp nhận tham nhũng thì sẽ không thành công, và sẽ không làm gì được. Thầy đặt câu hỏi: có phải vì Bát Nhã không chịu theo cái quy luật ấy cho nên Bát Nhã đã không thể tồn tại? Có người đã nói: nước trong quá thì cá sẽ không sống được. Có phải đây là sự thực hay không?

Không, thầy không muốn tin đó là sự thực. Chúng ta đang có những vị chân tu trên đất nước, không bị danh vọng và tiền tài mua chuộc.  Và các con của thầy đang nối gót theo các vị ấy, dù quanh ta có nhiều người xuất gia đã đánh mất tâm ban đầu và chỉ đang đi tìm những tiện nghi vật chất và tình cảm để sống cho hết một cuộc sống thiếu lý tưởng và thiếu tình huynh đệ của họ.

Trong giới trí thức, nhân bản và chính trị cũng thế, chung quanh ta còn có những người liêm khiết, chính trực, thà chịu nghèo chứ không để tán tận lương tâm. Ông thân sinh của sư anh Pháp Hội là một cán bộ rất liêm khiết và chính trực; bác ấy đã chịu sống nghèo trong suốt cả một đời để nuôi các đức liêm khiết và chính trực của mình cho nên ngày nay ta mới có một sư anh Pháp Hội. Và có bao nhiêu người khác nữa, nhờ có niềm tin nơi truyền thống đạo nghĩa của đất nước mà vẫn giữ được nếp sống liêm chính của mình.

Những hạt giống Phật pháp, những hạt giống của Pháp môn gieo trồng trong những năm qua đã bắt đầu nẩy mầm. Tiếp xúc với Pháp môn, tiếp xúc với Tăng thân, những hạt giống tốt của lý tưởng và của hạnh phúc có sẵn nơi người trẻ đã bắt đầu mọc lên tươi tốt. Người trẻ xuất gia cũng như người trẻ tại gia thấy được một con đường tâm linh đẹp có thể mở ra một chân trời mới của tình huynh đệ và của lý tưởng độ đời. Những Cheri Maples của Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện. Có những sĩ quan công an và cảnh sát trẻ đã tới với chúng ta để thực tập và bắt đầu được chuyển hóa. Các con đã có dịp làm quen với các vị ấy.  Một vị đã tâm sự: khi tâm ta bất an thì ta không có khả năng đem lại sự an bình trong xã hội, và vì những bất an trong tâm ấy mà ta có thể làm cho tình trạng xấu thêm. Đó cũng là cái chân lý mà chính Cheri Maples đã tìm ra. Vụ việc đau thương của Bát Nhã là chứng tích của sự bất an trong lòng người. Vì lo sợ, vì oán trách, vì nhận thức sai lầm mà những người có trách vụ an ninh đã tạo ra những bất an trong xã hội và làm xấu đi hình ảnh của đất nước trên vũ đài quốc tế. Một trong những vị Cheri Maples của Việt Nam ấy cũng đã ngỏ ý muốn xin được xuất gia.

Cách đây chỉ mới mấy hôm, một vị tập sự nữ ở xóm Mây Đầu Núi tên là T.M.T. đã viết một lá thư làm cho chúng ta rúng động và đã cho ta thấy được rằng ngọn lửa thiêng của lý tưởng và của tình huynh đệ có thể được dễ dàng khơi cháy lại nơi tâm hồn những người trẻ.  Vị tập sự nữ ký tên T.M.T. trong lá thư ấy (Đằng Sau Ánh Hào Quang) đã chứng tỏ có khả năng buông bỏ mọi ràng buộc, giàu sang và quyền thế đang có để được xuất gia, sống đời đạm bạc mà hạnh phúc với lý tưởng độ đời và giúp người.  Cả đại gia đình của T.M.T. đều chống đối việc này và ai cũng cho T.M.T. là điên. Các con nghĩ sao?  Nếu T.M.T. có điên thì cái điên ấy cũng không khác gì cái điên của thái tử Sĩ Đạt Đa khi bỏ ngai vàng mà đi xuất gia. Sĩ Đạt Đa là ai? Sĩ Đạt Đa là một người trẻ có khả năng buông bỏ tất cả để tìm cầu một lý tưởng đẹp.  Sĩ Đạt Đa có ngọn lửa cách mạng trong lòng nên mới có đủ năng lượng dứt bỏ tất cả mọi đặc ân và mọi tiện nghi. Sĩ Đạt Đa là ai? Sĩ Đạt Đa chính là T.M.T. của ngày hôm nay đó. Chúng ta là những người trẻ đi tìm một lý tưởng đẹp. Chúng ta là sự tiếp nối của Sĩ Đạt Đa. Sĩ Đạt Đa đang có mặt trên quê hương cho nên ta có quyền hy vọng. Những thanh niên đi xuất gia có tâm ban đầu rất mạnh, cũng như những thanh niên đi làm cách mạng có tâm ban đầu rất mạnh.  Phải giữ cho được tâm ban đầu thì ta mới thành công. Có tâm ban đầu thì ta không bị ràng buộc bởi lợi danh. Còn tâm ban đầu thì còn tự do và giải thoát. Phương pháp của đức Thế Tôn là tưới tẩm những hạt giống ân nghĩa, từ bi, trí tuệ và dũng cảm nơi ta. Những đau thương của Bát Nhã đã đánh động được trái tim của bao nhiêu người trong nước và ngoài nước và giúp cho ngọn lửa lý tưởng và chất liệu can trường nơi họ sống dậy. Nhà thơ Hoàng Hưng đã viết trong bài Bốn Trăm Quả Chuông Bát Nhã rằng Lá Thư Thỉnh Nguyện mà ông khởi xướng để kêu gọi sự che chở cho Tăng thân Bát Nhã đã có được chữ ký của những tên tuổi lớn trong giới khoa học và văn nghệ, những người “chưa bao giờ từng tham dự vào bất cứ một cuộc bày tỏ tập thể nào trước chánh quyền.” Như vậy có nghĩa là hạt giống của từ bi và dũng cảm nơi các vị ấy đã được tưới tẩm, do đó các vị ấy đã không ngần ngại ký tên vào Lá Thư Thỉnh Nguyện. Có một vị đã tâm sự: “Trước đây tôi rất sợ dính vào những chuyện như thế này, nhưng lần này tôi thấy mình không lên tiếng thì hèn quá, sẽ tự mình không chịu nổi chính mình.” Và cố nhiên là ký xong thì vị ấy có ngay được cái hạnh phúc của một người biết rằng mình đang có chất liệu liêm trực trong trái tim. Công phu thực tập của các con Bát Nhã của thầy đã tưới tẩm được hạt giống tốt trong lòng người, Phật tử cũng như không Phật tử, trong nước cũng như ngoài nước, người đồng bào cũng như người nước ngoài. Đó là những hạt giống của niềm tin, hạt giống của thương yêu và của sự  quả cảm. Cách hành xử bất bạo động và không hận thù của các con đã khơi dậy niềm tin nơi một hướng đi nhân bản thuần hậu của nhân loại trong tương lai, đã đánh động lòng yêu thương nơi mọi người và làm sống dậy nơi mọi người đức vô úy sẵn có của họ. Các vị tôn túc đã lên tiếng.  Học tăng đã lên tiếng. Sinh viên đã lên tiếng. Giới nhân sĩ và trí thức đã lên tiếng. Giới tiểu thương đã lên tiếng. Giới cán bộ và đảng viên đã lên tiếng. Bằng hữu của các tôn giáo bạn đã lên tiếng. Thế giới đã lên tiếng. Bát Nhã như một đóa sen ngát hương đã làm sống dậy biết bao nhiêu tình cảm đẹp đẽ của con người. Pháp môn “tưới tẩm hạt giống tốt” của chúng ta có thể đem lại hoa trái thương yêu và hạnh phúc rất mau chóng.

Này các con, nếu nhìn cho kỹ thì các con sẽ thấy các vị có trách nhiệm giải thể Tăng thân Bát Nhã đã làm ngược lại với pháp môn.  Họ chỉ tưới tẩm những hạt giống xấu. Họ đe dọa và nói dối để tưới tẩm hạt giống sợ hãi nơi chúng ta. Họ nói Tăng thân Bát Nhã làm chính trị. Họ nói sự có mặt của Tăng thân Bát Nhã là một đe dọa cho nền an ninh quốc gia. Họ sơn phết để gán cho Bát Nhã danh từ phản động. Một vị thiếu tướng của Tổng Cục Xây Dựng Lực Lượng Công An Nhân Dân đã được gửi vào để “đối phó” với Bát Nhã như là một tập đoàn phản động. Trong khi đó thì các con là những người tu tập trong trắng, không tha thiết gì đến chính sự, rất mong muốn được tu tập an lành dưới sự che chở của Giáo Hội và của luật pháp đất nước.  Họ thuê những người nghèo khổ, thất học, không biết gì về Phật pháp, không phải là Phật tử đến để thay họ đánh phá và trục xuất các con ra khỏi tu viện; họ lừa dối những người này, nói rằng các con là những người đi chiếm chùa, các con là những người phản động, đi cõng rắn về cắn gà nhà, rằng các con là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia, nói tóm lại là họ tưới tẩm những hạt giống hiểu lầm, nghi kỵ, hận thù nơi người đồng bào khác. Khi những người này mất hết bình an trong tâm thì họ mới có khả năng tới chửi rủa, đập phá và xâm phạm đến tài sản và nhân phẩm của những người đồng bào của họ. Làm gì có thứ Phật tử đốt kinh, đốt tượng, liệng phân thối vào các vị tôn đức, xé ca sa của các vị xuất gia, lôi xềnh xệch các vị ấy như những bao rác và xâm phạm vào chỗ kín của những vị này?  Thầy thấy cách hành động này rất nguy hiểm và những viên chức nào sử dụng những người như thế sau này cũng sẽ trở thành nạn nhân của chính những người này.

Nhìn lại cho kỹ ta thấy rằng không những Tăng thân Bát Nhã là nạn nhân của một chính sách sai lầm mà chính quyền và nhân dân địa phương cũng là nạn nhân của chính sách ấy.  Các chú công an cũng như những viên chức khác của chính quyền đã nhận được lệnh triệt tiêu Bát Nhã và đã phải làm tất cả những gì có thể làm để hoàn thành nhiệm vụ này, dù những điều mình làm có trái với luân thường đạo lý. Người ta nói vì Đảng, vì chế độ, vì an ninh quốc gia, ta phải buộc lòng làm những việc ấy. Ta cố trấn áp ta để tin rằng đó là việc làm vì nước vì dân.  Nhưng trong chiều sâu tâm thức ta, ta biết rằng đó là những việc làm thất đức, trái với luân thường đạo lý. Lương tâm ta cắn rứt. Những người trong gia đình ta nhìn ta bằng con mắt nghi ngờ, oán trách. Đồng bào ta nhìn ta với con mắt khinh khi, chê trách và ghét bỏ. Cái khổ của một viên chức chính quyền lương không đủ sống, đó là một cái khổ tương đối nhỏ. Cái khổ bị lương tâm cắn rứt, bị gia đình và đồng bào nhìn bằng con mắt oán trách mới là cái khổ thật sự. Mất đi sự bình an, mất đi sự tự trọng, cái ấy mới là cái khổ to lớn. Đó là một tổn thất lớn. Ra trận, thì phải có tổn thất. Đó là số người chết, số người bị thương và số người mất tích. Trận đánh nào cũng phải có tổn thất. Trong những trận đánh như Bát Nhã, tuy không có ai chết nhưng tổn thất rất trầm trọng.Đó là đứng về phương diện nhân phẩm, lương tri, lý tưởng, tình đồng bào và thể diện của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta đã không có công mà còn có tội với đất nước khi bị dồn vào thế phải đánh những trận thất đức như thế. Cho nên tất cả chúng ta, tu sinh, viên chức chính quyền hay công an đều đã trở thành nạn nhân.

Một chính sách ích nước lợi dân luôn luôn được dựa trên nền tảng của một cái thấy chính xác, trong đạo Bụt gọi là chánh kiến (right view). Nếu tâm ta bị tham dục, sợ hãi và ghi ngờ che lấp thì ta không có được chánh kiến, và cái thấy của ta bị méo mó, sai với sự thực. Cái thấy này gọi là tà kiến (wrong view). Thấy Bát Nhã là một đe dọa cho một nền an ninh quốc gia là một cái thấy sai lạc rất lớn. Một chuyện buồn cười như thế mà xảy ra được, điều này thật là khó hiểu. Vì cái tà kiến đó cho nên mới có loại tư duy sai trái: cần phải triệt tiêu Bát Nhã, bằng mọi cách. Đó là tà tư duy (wrong thinking). Tư duy sai trái thì ngôn ngữ và hành động cũng sẽ sai trái. Nói rằng Bát Nhã là một tranh chấp nội bộ, nói rằng chính quyền và công an không can thiệp vào Bát Nhã, nói rằng Bát Nhã làm chính trị, v.v. tất cả những lời nói ấy đều không phải là chánh ngữ mà là tà ngữ. Tiếp theo là loại hành động được gọi là hành động sai trái, tức là tà nghiệp (wrong action).  Đập phá, trục xuất, bắt bớ, xâm phạm vào nhân phẩm của người dân, đem lại khổ đau cho cộng đồng mà mình muốn phục vụ và đem lại khổ đau cho chính bản thân mình. Cái gốc của khổ đau xét cho cùng là ở cái thấy sai lạc. Vì cái thấy sai lạc ấy nên mới có những chính sách sai lầm có hại cho dân và cho nước.

Để vực dậy niềm tin và sức sống của cộng đồng Phật giáo, các vị chân tu phải tìm cách ngồi lại với nhau, nhất là các vị không còn giữ trách vụ trong tổ chức Phật giáo. Vì sợ hãi nghi ngờ cho nên người ta mới có chủ ý kiểm soát tổ chức Phật giáo. Mà cách thức kiểm soát lâu nay thường được sử dụng là đưa người của người ta vào để có thể giật dây. Một chức sắc Phật giáo mà có tỳ vết thì mới giật dây được. Nếu vị ấy liêm trực thì mình không thể giật dây. Đưa vào những người như thế trong tổ chức Phật giáo là làm hư tổ chức. Có những văn kiện của tổ chức đưa ra mà ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ đích thực của truyền thống Phật giáo. Ai cũng biết là các văn bản ấy đã được soạn thảo sẵn để viên chức Phật giáo ký tên. Như thế thì tổ chức Phật giáo làm sao thực sự đóng được vai trò lãnh đạo? Nếu một tổ chức tôn giáo mà bị kiểm soát đến mức tê liệt không dám lên tiếng để bảo vệ cho con em của chính mình thì tổ chức ấy không còn có đủ uy tín để lãnh đạo. Cho nên thầy nghĩ là các vị chân tu phải ngồi lại với nhau, phải lên tiếng để hướng dẫn cho tuổi trẻ Phật tử và chuyền năng lượng cần có cho tổ chức Phật giáo để tổ chức này có cơ duyên thức dậy và đi tới. Điều này cũng đúng với một tổ chức cách mạng. Các vị cách mạng lão thành liêm khiết phải ngồi lại với nhau và phải cùng lên tiếng. Lên tiếng để chỉ dẫn cho tuổi trẻ, để khơi dậy niềm tin nơi họ. Để giúp làm khơi dậy ngọn lửa thiêng của cách mạng đang thoi thóp trong tổ chức. Phải làm sao cho những người tới với tổ chức cách mạng là những người có lý tưởng, có bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, có khả năng buông bỏ quyền hành và danh vọng. Nếu không tổ chức sẽ chỉ quy tụ được những phần tử cơ hội chủ nghĩa, gia nhập vào tổ chức chỉ với mục đích là tìm cầu địa vị và quyền hành. Một tổ chức như thế không còn là một tổ chức cách mạng nữa, nhất là khi những bậc đàn anh trong tổ chức là những kẻ kẹt vào địa vị và quyền hành, sống một cuộc đời quá sung túc và xa hoa, có các bọc tiền khổng lồ chôn dấu tại các ngân hàng nước ngoài. Không có ngọn lửa cách mạng trong lòng, làm sao chúng ta gọi nhau là đồng chí mà không ngượng miệng?

Họ muốn tiêu diệt Bát Nhã nên mới đặt điều cho rằng các vị xuất gia ở Bát Nhã là những người làm chính trị, chống đối chế độ, chống đối giáo hội, và Bát Nhã phải được đối trị như một tổ chức phản động. Nước lã mà người ta muốn vã nên hồ. Trong lá thư của tập sự nữ T.M.T. có câu: muốn giết một con chó thì phải nói đó là một con chó điên. Đó là cái luật ngàn đời, chỉ có kẻ ngu mới không hiểu điều đó.  Tại sao con lại đi theo cái dòng Bát Nhã đó? Đó là con đường đi vào cửa tử. Người ta đã muốn triệt tiêu thì nó sẽ bị triệt tiêu thôi, dù sớm muộn nó cũng bị triệt tiêu.

Nhưng các con của thầy chắc cũng đã thấy rằng trường hợp Bát Nhã đã trở thành một trường hợp đặc biệt. Nhờ cách hành xử của các con, nhờ những dòng nước mắt trong veo không hận thù không bạo động của các con mà thiên hạ biết rằng đây không phải là một con chó điên, một con chó dại, và người ta có thể sẽ không bao giờ giết được con chó Bát Nhã. Hàng xóm của chúng ta, trong nước và ngoài nước, đã thấy được rằng đây là một con chó khôn, ta cần bảo tồn tính mạng cho nó, bởi lẽ một con chó khôn thì có khả năng giữ được cửa được nhà.

Các con nhớ thở thật nhẹ cho thầy và đi thiền hành thảnh thơi cho thầy. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng thực tập xử lý ngày hôm nay cho thật hết lòng. Chúng ta cần tập sống cho thật, tập nhìn tất cả với con mắt từ bi. Ngày hôm nay là chất liệu để làm nên ngày mai. Vì vậy ta phải sống cho đẹp ngày hôm nay. Thầy có niềm tin lớn nơi các con. Năng lượng lành của Tam Bảo đang che chở cho chúng ta. Các con hãy chuyên cần thực tập bài thi kệ Quay Về Nương Tựa. Không nên đi tìm một nơi nương tựa khác ngoài hải đảo tự thân.  Đó là lời đức Thế Tôn căn dặn.

Về lại Mai Thôn, thầy sẽ có dịp viết tiếp cho các con.

Thầy của các con,
Nhất Hạnh

Hạt bồ đề bất diệt

Phương Khê Nội Viện
Những ngày cuối năm 2009

Thân gửi các con Bát Nhã của Thầy,

Thầy biết rằng trong giờ phút này các con phải đi tản mác nhiều nơi, không còn được ở chung tu tập như một Tăng thân nữa, nhưng Thầy tin rằng lá thư này của Thầy vẫn tới được với tất cả các con.

Ngày Chủ Nhật 20-12-2009 vừa rồi, đại chúng bốn chùa Làng Mai đã tập họp tại Xóm Thượng để làm ngày chánh niệm. Đã sáu tháng nay, chùa Pháp Vân Xóm Thượng vì không có thiền đường nên đã phải tổ chức các khóa tu và các ngày sinh hoạt chánh niệm ở ngoài trời. Hôm Chủ Nhật vừa qua, thiền đường Nước Tĩnh của Xóm Thượng đã được hoàn tất, cho nên đây là lần đầu tiên đại chúng được sử dụng thiền đường trở lại. Thiền đường mới rộng và đẹp lắm, rộng và đẹp hơn thiền đường cũ nhiều.

Các thầy, các sư chú và các cư sĩ ở Xóm Thượng đã cùng nhau tự thiết kế và xây dựng nên thiền đường này, đã làm việc như một Tăng thân, và trong suốt sáu tháng trời đã có cơ hội nuôi dưỡng và làm lớn lên tình huynh đệ. Nhìn vào thiền đường ai cũng thấy được Tăng thân và tình huynh đệ ấy. Mỗi viên gạch, mỗi tấm ngói, mỗi khung cửa đều mang dấu tích của những tiếng cười, những ánh mắt, những bàn tay và những giọt mồ hôi của mỗi người trong đại chúng. Các thầy các sư chú của chùa Sơn Hạ cũng như các sư cô của các chùa Từ Nghiêm Xóm Mới và Cam Lộ Xóm Hạ cũng thỉnh thoảng lên góp công chấp tác một ngày. Thiền đường rất đẹp, nhưng nếu nhìn thiền đường mà chưa thấy được tình huynh đệ của Tăng thân thì vẫn chưa thấy được cái đẹp đích thực của thiền đường.

Chủ đề của khóa tu mùa An Cư Kiết Đông năm nay là Nghệ Thuật Hạnh Phúc, và đại chúng đã học xong được kinh Cát Tường, Kinh Mâu Ni và bài kệ truyền thừa của Pháp Phái Liễu Quán. Đại chúng thực tập câu linh chú thứ năm rất chuyên cần và nhận diện được rất nhiều những giây phút hạnh phúc được sống và được thực tập bên nhau. Những ngày xuất sĩ tổ chức hàng tuần tại Nội Viện Phương Khê đem tới rất nhiều nuôi dưỡng và hạnh phúc cho đại chúng.

Câu linh chú thứ năm nếu ta nhớ thực tập sẽ có hiệu lực tức thời, ai cũng công nhận như thế. Chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, thấy được rằng mình (tuy vậy mà) đang có rất nhiều may mắn (hơn nhiều người khác), là mình có thể mỉm cười và đọc lên câu: “Giây phút này là một giây phút hạnh phúc”, để cho những người đang có mặt cũng trở về được với giây phút hiện tại để được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc như mình.

Thầy rất mong là dù ở đâu, các con của thầy cũng theo dõi được các bài pháp thoại của khóa an cư kiết đông và cùng thực tập theo những chỉ dẫn được đưa ra trong suốt khóa tu. Các con của thầy cần được nuôi dưỡng bằng pháp lạc và sự thực tập mới có thể đi qua được giai đoạn khó khăn này của Tăng thân Bát Nhã. Thầy có niềm tin lớn nơi các con. Các con đã lớn lên rất mau chóng nhờ những biến cố và khó khăn xảy ra cho chúng ta trong hơn một năm qua, và thầy rất hài lòng với cách thức hành xử từ hòa bất bạo động của các con, từ Bát Nhã tới Phước Huệ. Lịch sử đã ghi nhận rằng với cách hành xử từ hòa ấy các con đã gieo trồng và tưới tẩm được hạt giống niềm tin, hiểu biết và tình thương trong trái tim của rất nhiều người, trong số ấy có những người đã thuê hoặc đã được thuê tới quấy nhiễu và đàn áp chúng ta. Đó là sự thành công lớn nhất mà chúng ta đã đạt được, lớn lao hơn bất cứ công trình xây dựng chùa tháp nguy nga nào. Ngày 18 tháng 12 vừa qua, thầy Trung Hải, sư cô Giác Nghiêm và một số các thầy và các sư cô khác đã đại diện Tăng thân Bát Nhã đến điện Elysées trao một lá thư gửi cho tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, xin cho 400 vị của Tăng thân Bát Nhã được tạm thời nương náu ở Pháp Quốc để tiếp tục thực tập như một Tăng thân, cho đến khi nhà nước Việt Nam mở lòng cho phép Tăng thân Bát Nhã cũng được làm như thế ở ngay trên quê hương của mình. Thực ra, theo pháp luật hiện thời, chúng ta có quyền sống và tu tập bất cứ ở nơi nào trên quê hương mình, nhưng không biết vì sao chúng ta lại không được huởng cái quyền ấy khi mà chúng ta không vi phạm bất cứ một pháp luật nào, khi mà chúng ta chỉ muốn tu tập và hướng dẫn tu tập trong khuôn khổ của pháp luật và của truyền thống Phật giáo. Dư luận trong nước và trên thế giới, trong giới Phật tử cũng như trong giới không Phật tử, đang yểm trợ cho chúng ta một cách rõ rệt, vì vậy Thầy tin chắc là các con của Thầy sẽ không phải gánh chịu những khó khăn này dài lâu.

Có nhiều thân hữu đã hiểu được cái thiết yếu phải thực tập với một Tăng thân, cho nên đã không có hạnh phúc khi được tin là chúng ta phải phát tán đi mỗi người một ngả, mạnh ai người ấy thực tập. Truyền thống Phật giáo nói chung và truyền thống Làng Mai nói riêng không chấp nhận được sự bức ép đó. Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại. Đó là câu nói tự ngàn xưa: thực tập mà không có Tăng thân thì sự thực tập sẽ tàn lụi, cũng như chúa sơn lâm khi lìa bỏ rừng núi xuống tới đồng bằng thì sẽ bị con người giết chết và lột da. Truyền thống của chúng ta là phải đi như một dòng sông, không thể nào đi như một giọt nước. Giọt nước đi một mình thì trên đường về biển cả sẽ bị bốc hơi nửa chừng và không bao giờ tới biển. Trong chúng ta ai lại không thuộc bài hát “Xin nguyện làm dòng sông, không làm hạt nước nhỏ” của sư chị Hoa Nghiêm? Bởi vậy cho nên Tăng thân bị giải tán là tai nạn lớn nhất cho người tu. Người tu phải luôn luôn quy y Tăng bảo. Tăng là đoàn thể những người tu học, xây dựng Tăng đoàn có phúc đức bao nhiêu thì phá hoại Tăng đoàn cũng bị quả báo bấy nhiêu. Thầy rất sợ cho những người có ác ý muốn phá hòa hợp tăng. Đây là tội lớn nhất trong các tội. Nếu cho phép Tăng đoàn được cư trú tại Pháp, tổng thống Pháp sẽ có phước đức nhiều lắm, có phải không các con? Dù cho là cư trú tạm thời.

Mỗi người trong chúng ta đều có ba thân: Phật thân, Pháp thân và Tăng thân. Phật thân trong ta còn non yếu, phải được nuôi dưỡng bằng sự thực tập hằng ngày. Đó là hạt giống của trí tuệ và từ bi trong ta, đó là Phật tính. Pháp thân là công phu thực tập của ta, có công năng nuôi dưỡng và làm lớn Phật thân. Còn Tăng thân là đoàn thể mà ta đang nương tựa, sống chung để tu học. Đoàn thể của ta là thân thể của ta, đoàn thể tan rã thì Tăng thân không còn. Tăng thân chính là môi trường bảo hộ, nuôi dưỡng và soi sáng cho ta. Ta phải nương vào Tăng thân, phải xem Tăng thân là thân của chính ta, những gì đang xảy ra cho Tăng thân là đang xảy ra cho chính ta. Vì vậy cho nên người tu nguyện suốt đời nương tựa Tăng thân, không bao giờ ly khai Tăng thân, cũng như chúa sơn lâm không bao giờ rời bỏ núi rừng thâm u của mình. Mất Tăng thân là một tai họa lớn, vì vậy trong những năm tháng vừa qua, các con của thầy đã hết lòng hành xử bất bạo động để bảo hộ cho Tăng thân, để Tăng thân không bị tan rã. Những người đang có quyền bính trong tay cần phải hiểu biết điều này, và vì người ta chưa hiểu thì mình phải tìm cách giúp cho người ta hiểu. Đối kháng bất bạo động là biện pháp mà đức Thế Tôn đã sử dụng khi Tăng đoàn núi Thứu bị kỳ thị và đàn áp bởi vua A Xà Thế. Vua A Xà Thế đã cố tình chia rẽ Tăng đoàn, phá hòa hợp tăng, và những năm sau đó bị bệnh tâm thần, cuối cùng phải đến với đức Thế Tôn để cầu xin chữa trị. Đọc sách Đường Xưa Mây Trắng các con đã được biết chuyện này.

Mahatma Gandhi cũng đã từng sử dụng phương pháp đối kháng bất bạo động để tranh đấu cho chủ quyền độc lập của Ấn Độ. Ngài nói: “Đối kháng bất bạo động là một sức mạnh tâm linh,  một sức mạnh không có gì so sánh nổi. Sức mạnh của nó vượt lên trên cả sức mạnh của quân đội và vũ khí. Đó không phải là khí giới của kẻ yếu đâu.” (Passive resistance, that is, soul force, is matchless. It is superior to the force of arms. Not the weapon of the weak.)
Câu nói bất hủ đó của thánh Gandhi được nói ra hôm 29-04-1933 và ngài phát biểu tiếp rằng muốn thành công trong sự nghiệp phụng sự quê hương, người thực tập hành xử bất bạo động phải quyết tâm giữ giới, vì chính giới luật giúp cho ta làm chủ được thân tâm mình, và càng thực tập giới luật chừng nào thì ta càng thấy rõ được diện mục ta chừng đó. “To observe morality is to attain mastery over our mind and our passion. So doing, we know ourselves.”

Và thánh Gandhi đã chia sẻ kinh nghiệm thực tập và tranh đấu của ngài một cách cụ thể. Ngài nói: “Sau một thời gian có nhiều kinh nghiệm tranh đấu, tôi thấy rất rõ ràng rằng những ai muốn tranh đấu cho quê hương bằng phương pháp bất bạo động đều phải nên giữ trai giới cho vững chãi, sống phạm hạnh, buông bỏ dục tình một cách tuyệt đối, sống đơn giản, đi theo sự thật và nuôi dưỡng đức vô úy, không sợ hãi.” (After a great deal of experience, it seems to me that those who want to become passive resisters for the service of the country have to observe perfect chastity, adopt poverty, follow truth and cultivate fearlessness.)

Suốt trong thời gian tranh đấu, thánh Gandhi đã sống theo tinh thần này, đã ăn chay nằm đất, sống phạm hạnh, không gần gũi nữ nhân, nếp sống không khác gì với nếp sống của một nhà tu. Đội ngũ trong phong trào tranh đấu ấy đã có niềm tin rất lớn nơi con đường họ đi và cũng đã thực tập sống theo nếp sống khổ hạnh và chay tịnh ấy. Phong trào tranh đấu được gọi là Satyagraha, nghĩa là nắm lấy sự thực, bám vào sự thực. Giữ tâm hồn cho trong sáng, không sử dụng bất cứ một biện pháp nào trái với đạo lý, luôn luôn tôn trọng sự thực. Đối phương có thể lừa gạt, dối trá, tráo trở, đê tiện trong những phương cách của họ, nhưng bên phía những người tranh đấu bất bạo động, đạo đức và sự thật phải là chất liệu, là nền tảng cho tất cả mọi hành xử và hành động. Bất bạo động không phải chỉ là hình thức bên ngoài mà là nội dung chất liệu của lý tưởng bên trong. Phải nuôi dưỡng từ bi, không hận thù, và có khả năng nhận chịu những bạo động mà không đánh trả, đúng với bốn cách thức xử sự mà Bụt căn dặn các thầy thực tập, và mỗi nửa tháng các vị khất sĩ phải tụng đọc một lần:

Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đùa diễu và khiêu khích thì không đùa diễu và khiêu khích trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta nhiếc mắng, nhục mạ thì không nhiếc mắng, nhục mạ  trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đánh đập thì không đánh đập trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta giận thì không giận trở lại.

Bốn cách xử sự này, các con của Thầy đã làm được trong những ngày bị côn đồ tấn công, và vì vậy cho nên các con đã có cơ hội giúp cho không biết bao nhiêu người cảm động và chuyển hóa. Các thầy Pháp Hội, Pháp Sỹ và Pháp Tụ đã bị lôi kéo, bóp cổ, liệng lên xe như những thùng rác, nghẹt thở, mặt bầm tím, cổ và vai chảy máu. Thầy Pháp Vinh bị đạp lăn lông lốc xuống lầu một, may mà thầy chưa bị gảy chân. Thầy Đồng Tịnh và em Bình Minh (bây giờ là sư chú trong cây Sen Hồng) bị đánh đến ngất xỉu mà không hề chống trả. Những côn đồ đến đánh phá bị mảnh kính làm đứt tay chảy máu đã  được các sư cô băng bó và chăm sóc. Tất cả những hình ảnh ấy mà nhiều cái đã được ghi lại trong phim ảnh, đã làm chấn động tâm can của bao nhiêu người.

Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức. Ngày xưa Siddhartha cũng đã từ khước con đường chính trị để đi vào con đường tâm linh đạo đức. Và Siddhartha cũng đã gặp khó khăn. Chúng ta tu tập để vực dậy một nền văn hóa lành mạnh, một nếp sống có phẩm chất đạo đức và từ bi, và cách tranh đấu hay nhất của chúng ta là tu học và tổ chức tu học. Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn. Chúng ta tu tập và tổ chức cho người khác tu tập để đối phó, ngăn ngừa và gột sạch những tệ nạn ấy, và đó là cách thức yêu nước yêu dân của chúng ta. Chúng ta là công dân của một nước độc lập, có hiến pháp, có luật pháp, chúng ta phải có quyền làm việc ấy. Không ai có thể tước đoạt quyền công dân ấy của chúng ta.

Trong chuyến về quê đầu tiên của thầy năm 2005, thấy những cổng chào đề các dòng chữ “thôn văn hóa”, “ấp văn hóa”, “khu phố văn hóa” v.v. Thầy đã mừng thầm, nghĩ rằng đây là một chính sách thông minh và đúng lúc của nhà nước. Hỏi thăm, Thầy được biết là chính sách thành lập những thôn những ấp văn hóa ấy là để đối phó với các tệ nạn xã hội đang bắt đầu lan tràn như ma túy, đĩ điếm, cờ bạc, bạo hành v.v. Nhưng sau đó chừng hơn một tháng thầy đã được báo cáo rằng nhà nước đã không thành công gì mấy với các ấp văn hóa, các thôn văn hóa kia. Chỉ có danh từ mà không có sự thật. Những biện pháp kiểm soát và trừng phạt không đủ để bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là khi những người đứng ra kiểm soát và trừng phạt cũng đang vướng vào các tệ nạn xã hội như tham nhũng, lạm quyền và dối trá. Lúc đó, Thầy thấy rất rõ ràng là chỉ có sự giáo huấn và hành trì của đạo đức thật sự mới có thể đối phó được với tình trạng. Các con đã biết là gia đình nào có hành trì năm giới là gia đình đó có hòa thuận, có hạnh phúc. Mà không ai có thể ép buộc mình hành trì năm giới nếu mình không có đức tin nơi giáo pháp và giới pháp. Cho nên trong khóa tu dành cho giới xuất gia tại tổ đình Từ Hiếu (từ ngày 07-03-2005 đến ngày 12-03-2005) thầy đã đưa ra mô thức một thôn xóm trong đó ngôi chùa đóng vai trò lãnh đạo tinh thần đạo đức; các thầy hoặc các sư cô trong ngôi chùa đó hành trì giới luật và uy nghi vững chãi, tổ chức những khóa tu cho người lớn và cho thanh thiếu niên, gây niềm tin nơi một con đường đạo đức tâm linh và khuyến khích sự tiếp nhận và hành trì năm giới, mỗi nửa tháng đến chùa tụng giới một lần và dự pháp đàm để kiểm điểm về công phu hành trì của mình. Đây không phải là một cái gì mới mẻ mà chỉ là công trình hiện đại hóa một truyền thống thực tập ngày xưa, và những người hướng dẫn thực tập phải có tư cách và khả năng hướng dẫn cho tuổi trẻ cũng như cho mọi giới kể cả giới trí thức, giới thương gia và chính trị. Mà muốn được như thế thì phải bắt đầu đào tạo một thế hệ người xuất gia mới. Đó là nội dung của khóa tu tại tổ đình Từ Hiếu có gần cả ngàn vị xuất gia trẻ tham dự và những bài pháp thoại này như các con đã biết đã được in lại thành sách dưới nhan đề Thông Điệp Tình Huynh Đệ. Trong óc Thầy, tu viện Bát Nhã lúc ấy đã được hình thành. Tu viện Bát Nhã là mẫu mực của một trong những trung tâm để đào tạo những người xuất gia mới như thế.

Giới luật và uy nghi không phải là những gì có tác dụng gò bó và làm mất bớt quyền tự do của con người. Giới luật và uy nghi, trái lại, có công năng bảo vệ tự do. Một người hành trì giới không uống rượu và không sử dụng ma túy có tự do gấp ngàn lần so với một người không trì giới ấy, vì người này khi bị vướng vào say sưa nghiện ngập thì không còn tự do nữa và sẽ sẵn sàng phạm vào các giới khác như nói dối, ăn cắp, giết người v.v. để có tiền mua ma túy.

Không giữ giới thì một gia đình ba bốn người cũng sinh ra lục đục, làm khổ cho nhau, ai cũng biết điều ấy. Có hành trì giới luật và uy nghi thì dù là một cộng đồng 400 người ở chung với nhau, chúng ta cũng vẫn sống được trong hòa thuận, tin yêu và hạnh phúc. Tăng thân Bát Nhã đã chứng thực được một cách hùng hồn như thế. Họ vu khống chúng ta, họ nói chúng ta không giữ giới, ăn nằm với nhau, để họ có cớ triệt hạ chúng ta. Thậm chí họ đem tài liệu khiêu dâm tới để vu cáo chúng ta. Đó là một trong những lối hành xử hèn hạ nhất. Ai cũng biết rằng không hành trì giới luật và uy nghi thì không thể nào tin nhau, sống với nhau, đoàn kết với nhau và thương yêu nhau như người ruột thịt như thế được.

Ngày xưa khi Bụt còn tại thế, một nhóm người ngoại đạo cũng đã từng vu oan cho giáo đoàn khất sĩ của Bụt như vậy. Trong khi các thầy đi vào thành Xá Vệ khất thực họ đã đem xác một người kỹ nữ chôn dấu vào đất tu viện Kỳ Viên và đi báo cảnh sát. Rồi họ tuyên truyền rằng các thầy ở tu viện không giữ giới. Vua Ba Tư Nặc và dân chúng trong thành Xá Vệ rất hoang mang. Nhiều thầy không dám đi khất thực. Bụt dạy các thầy: “Các vị đừng lo, sự thực sẽ được bung ra trong vòng mười hôm. Các vị hãy cứ đi vào thành khất thực như không có chuyện gì xảy ra.”

Hồi đó, thương gia Cấp Cô Độc đang có mặt. Ông đã nhờ thám tử đi dò hỏi và tìm ra được sự thật và cuối cùng cảnh sát đã bắt được những người chủ mưu. Họ khai rằng họ làm như thế bởi vì họ thấy giáo đoàn của Bụt nổi tiếng quá, dân chúng đi theo đông đảo quá và họ sợ sẽ mất chỗ đứng trong quần chúng. Vua Ba Tư Nặc, sau khi có được bằng chứng, đã trừng trị những người vu cáo một cách thích đáng.

Vụ Bát Nhã rắc rối hơn vụ Kỳ Viên, bởi vì trong vụ Bát Nhã và Phước Huệ, bọn côn đồ được thuê mướn và những nhà chức trách thuê mướn họ đã làm việc chung với nhau. Họ là hai mà họ cũng là một, trong khi vua Ba Tư Nặc là một người rất tôn quý đức Thế Tôn. Chúng ta cũng đã có những Cấp Cô Độc vô danh đã từng giúp ta làm bung ra sự thực, nhưng chúng ta hiện không có một vua Ba Tư Nặc để trừng phạt bọn lạm quyền và gian dối. Nhưng chúng ta cũng còn may mắn, vì quần chúng trong nước và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc với sự thực, và dư luận đã đứng về phía chúng ta để lên án những người vô đạo. Ba Tư Nặc ngày nay là dư luận quốc nội và quốc tế. Họ không thể nào che giấu hành động thấp hèn của họ được. Họ thuê côn đồ tới giả danh Phật tử để giăng biểu ngữ trước bàn Phật, để phá phách, đánh đập, khiêu khích, mong rằng các con sẽ phản ứng trở lại bằng bạo lực để họ có cớ bắt giam và lên án. Nhưng nhờ cách hành xử bất bạo động của các con, các nhà chức trách này đã thất bại hoàn toàn. Phật tử gì mà hành hung và chửi mắng các thầy, Phật tử gì mà mang giày dép vào chánh điện, Phật tử gì mà dám treo biểu ngữ ngay trước tượng Phật, Phật tử gì mà gọi các thầy là đồng chí, tại sao không về quê đi để sống cho gần cha, gần mẹ, gần vợ  Các thầy đã xuất gia làm gì có vợ  Tội nghiệp cho những người bị thuê làm côn đồ. Họ chỉ được thuê với giá 200.000 đồng một ngày và họ đã được Công An và Mặt Trận chỉ huy bằng những dấu hiệu và tiếng huýt gió.

Thật sự Thầy chưa bao giờ tưởng tượng được là những viên chức của một chính quyền lại có thể sử dụng những cách hành xử bá đạo như vậy. Tiền đâu để họ thuê côn đồ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân? Đạo đức cách mạng ở đâu? Tại sao mà đạo đức cách mạng lại bị phá sản tới mức tồi tệ đến thế?

Viết tới đây thầy thấy rất rõ nguyên nhân vì sao chính sách thôn ấp và khu phố văn hóa không thành công. Một chính sách mà do những viên chức thừa hành không có đạo đức phụ trách thì làm sao thành công được? Nếu các viên chức này tham nhũng, lạm quyền, khi mà gia đình của họ là nạn nhân của tệ nạn xã hội thì làm sao họ có thể thành công trong sự hướng dẫn và xây dựng những thôn ấp và khu phố văn hóa? Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm đã thất bại với chính sách “ấp chiến lược” thì nhà nước hiện tại cũng đã không thành công với chính sách “thôn ấp, khu phố văn hóa.”

Thầy tự hỏi không biết vị nào đã quyết định sử dụng từ văn hóa thay vì từ đạo đức? Một ý thức hệ lên án tôn giáo, cho tôn giáo là thuốc phiện, thì sẽ cảm thấy không thoải mái khi sử dụng từ đạo đức. Nhưng tại sao trong những buổi đầu cách mạng, chúng ta đã nói tới đạo đức cách mạng? Có lẽ vì đạo đức cách mạng đã bị phá sản cho nên danh từ đạo đức đã không còn chuyên chở được gì nhiều nữa. Từ văn hóa có thể đi đôi với văn minh, cũng như từ culture có thể đi với từ civilization. Nó không chuyên chở được ý niệm luân thường, đạo đức. Nhưng tại sao lại không dùng từ phong hóa? Trong quá khứ tổ tiên chúng ta đã dựng nên một nếp sống đạo đức lành mạnh, với sự góp công của ba nền đạo học là Khổng học, Lão học và Phật học. Dựa vào truyền thống là đi ngược với chủ thuyết mới hay sao? Cái đẹp nhất của đạo Bụt là tinh thần bao dung, không giáo điều, không cố chấp, không có nhu yếu loại trừ những truyền thống khác. Đó là nghĩa chữ xả trong bốn đức từ, bi, hỷ và xả. Xả (upeksa) là sự không kỳ thị, là tinh thần bao dung. Đạo Bụt trong quá khứ đã góp phần vào sự tạo dựng tinh thần tam giáo tịnh lập, tam giáo đồng nguyên, để ba truyền thống Phật, Nho và Lão có thể đứng bên nhau mà xây dựng đất nước. Trong chuyến về năm 2005, tại buổi thuyết giảng tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ở Sài Gòn, có một vị thính giả đã đặt câu hỏi: Nếu quy y Tam Bảo rồi thì ta có quyền yêu Đảng và yêu Nước không? Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng nói lên được tất cả những lo ngại của những người muốn trở về với con đường tâm linh mà tổ tiên ngày xưa đã dày công khai mở, nhưng còn chưa dám. Thầy đã trả lời bằng một câu hỏi khác: Nếu quy y mà mất tự do, không còn được yêu những gì mình muốn yêu thì quy y làm gì? Tiếng vỗ tay vang dậy hội trường. Giờ phút ấy đánh tan được bao nhiêu là băng giá. Quy y rồi thì ta sẽ yêu nước và yêu Đảng đúng hơn và hay hơn. Đất nước ta dân tộc ta đã từng được đạo Bụt giáo hóa, đã được hưởng cái hạnh phúc do tinh thần bao dung đưa lại. Tại sao ta không được trở về nguồn? Tại sao người ta lại sợ tinh thần bao dung? Tại sao người ta không thấy được rằng nếu tư duy được theo chiều hướng bất nhị, phá chấp và bao dung thì nhân loại sẽ tiết kiệm được biết bao nhiêu là máu xương và nước mắt?

Những lời thầy viết cho các con, thế nào các chú công an cũng sẽ tìm đọc. Điều này theo thầy cũng rất tốt vì thầy tin mọi người đều có Phật tính, nghĩa là có hạt giống của trí tuệ và từ bi. Tưới tẩm những hạt giống ấy thì rất có phước. Nhiều chú Công an đã được các con chuyển hóa. Còn nếu những dòng thầy đang viết đây lọt vào mắt của những vị trong ban chấp hành Trung Ương Đảng, trong ban Tuyên Giáo, trong các hội đồng cấp cao của nhà nước thì sao? Thầy nghĩ các vị ấy sẽ chau mày, sẽ nói rằng đây là những sai sót của cấp thừa hành, rằng con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng sự thực là quý vị ấy đã để cho cấp thừa hành làm như thế rồi báo cáo lên không đúng sự thực và lôi cuốn luôn quý vị ấy đi theo. Như vậy thì quý vị ấy cũng không đổ trách nhiệm cho người khác được. Giới nhân sĩ trí thức trong nước đã đề nghị quý vị ấy mở một cuộc điều tra để làm sáng tỏ sự thật. Những sai lầm phạm phải trong những năm qua, những tham nhũng, lạm quyền, lừa gạt và dối trá ấy phải được đưa ra ánh sáng và phải có sự trừng phạt công minh thì họa may dân chúng trong nước mới có được niềm tin nơi guồng máy chính quyền, và chính quyền mới có thể tiếp tục “cai trị” được.

Trong chuyến về nước đầu vào năm 2005, sau ba mươi chín năm ở hải ngoại, thầy đã hết lòng thực tập lắng nghe mọi giới và đã có một cái thấy tương đối chính xác về tình trạng. Thầy đã nói: Trong chuyến về thăm này, tôi chỉ có một thông điệp, đó là không có gì cao quý hơn tình huynh đệ. Có thể nói rằng giờ phút hào sảng nhất trong chuyến đi đã xảy ra tại chùa tổ Từ Hiếu, ngày mà tất cả các thầy và các sư cô của hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn quy tụ lại để tụng giới chung với nhau sau hơn mười năm bị chia rẽ. Thầy nhớ rất rõ cái hôm sau buổi pháp thoại tại chùa Từ Đàm thầy báo tin là cả hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn sẽ quy tụ về Chùa Tổ để tụng giới chung, tất cả mọi người đều đã khóc vì sung sướng. Và những điểm thầy đề nghị sau đó với nhà nước liên hệ tới sự tách rời chính trị ra khỏi tôn giáo v.v. những điểm đề nghị này thật ra đã không được xuất phát từ thầy mà đã xuất phát từ các thầy khác trong Giáo Hội. Thầy đã lắng nghe các vị tôn túc, và đã ghi nhận nguyện vọng và nhận thức của các vị. Các vị không nói lên được, thì Thầy nói giùm cho các vị, thế thôi. Nếu Thầy có bị khó khăn vì đã dám nói lên, cái ấy cũng là vì tình huynh đệ. Cũng như thầy đã lên tiếng về vấn đề Tây Tạng. Mình là một dân tộc từng bị khổ đau nhiều lần vì sự xâm lấn của phương Bắc, bây giờ một dân tộc khác đang bị rơi vào tình trạng ấy, nỡ nào mình không lên tiếng? Thầy lên tiếng thay cho cả một dân tộc, để nói lên một sự thực, biết rằng lên tiếng thì sẽ gặp khó khăn mà vẫn phải lên tiếng. Đó là lương tâm, đó là tình huynh đệ. Có rất nhiều vị tôn túc trong giáo hội rất muốn che chở cho các con Bát Nhã của Thầy. Các vị ấy đã cố gắng lên tiếng nhiều lần, thậm chí đã đưa ra đề nghị bảo lãnh để cho các con có pháp lý tu học, nhưng vì giáo hội không có giáo quyền thật sự cho nên nhũng đề nghị ấy đã bị Công An và Ban Tôn Giáo nhà Nước bác bỏ. Đất nước chúng ta chưa thực sự có tự do tôn giáo, và nhà nước đang quản lý chặt chẽ guồng máy giáo hội, và giáo hội bất lực không che chở được ngay chính con em của mình. Đó là một sự thực ai cũng đã trông thấy. Làm sao che dấu được?

Công an, Chính quyền địa phương và ban Tôn giáo, bằng hành động và bằng các văn thư của họ đã và đang làm ngược lại với luật pháp, hiến chương và  với cả pháp lệnh tôn giáo, do đó chúng ta phải có bổn phận giúp cho quốc dân và các cơ quan lập pháp và hành pháp trung ương thấy được những sai trái đang gây đổ vỡ nặng nề trên đất nước và trong lòng dân.

Nhưng thầy không bi quan. Thầy tin chắc rằng tình trạng sẽ thay đổi. Lý do là các con đang có mặt đó. Tuổi trẻ Việt Nam đã bắt đầu thấy sự thật và biết là mình đang mong ước gì cho quê hương cho đất nước. Người thanh niên Việt Nam dù đang theo học trong nước hay đang du học ở nước ngoài đều đã thấy được rằng chúng ta cần có thêm dân chủ, có thêm dân quyền và nhân quyền thì người dân chúng ta mới có cơ hội đóng góp cho đất nước và đưa đất nước đi lên. Trong thời đại này đất nước không thể nào còn bế môn tỏa cảng được. Phải mở cửa và cộng tác với các quốc gia khác. Và phải tuân theo luật lệ quốc tế, trong đó có sự tôn trọng nhân quyền. Các con Bát Nhã của Thầy đã chọn con đường tranh đấu bất bạo động và đã đem hết niềm tin của tuổi trẻ để làm việc ấy. Trái tim không hận thù của các con, trái tim của tình huynh đệ ấy đã làm cảm động lòng người. Giới Phật tử trong và ngoài nước đang yểm trợ cho các con đã đành, mà tất cả các giới khác cũng thế. Các con không lẻ loi trên con đường của mình đâu. Con đường tuy khó khăn nhưng con đường rất đẹp. Thầy rất hạnh phúc khi thấy rằng thầy đã được các con tiếp nối. Dù trong số chúng ta còn có những người còn non yếu, nhưng trái tim của chúng ta luôn luôn trong sáng và hiền hậu. Chúng ta đi như một dòng sông, vừa đi lên vừa học hỏi và chúng ta cũng sẽ được tiếp nối bằng những thế hệ đi sau. Chúng ta có một con đường. Một con đường thật sáng mà tổ tiên đã khám phá.

Thầy đã đọc chăm chú tất cả các lá thư mà các con đã gửi cho Thầy. Đôn Nghiêm nói: “Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nảy hạt bồ đề.” Áo Nghiêm nói: “Trên con đường mình đi, con đã tìm được những người anh em cùng chí hướng. Dù có gì xảy ra cho con đi, nữa con vẫn không hổ thẹn với tổ tiên và với bạn bè năm châu.”

Hôm quý vị tôn túc Lâm Đồng về Bố tát tụng giới ở Phước Huệ, vì thương cảm cho tình cảnh các con, tất cả quý vị đã khóc, và tất cả các con đã có dịp cùng khóc với quý vị. Giờ phút đó rất đẹp. Đó là một cơn mưa cam lộ. Lịch sử đã ghi chép giờ phút ấy.

Đôn Nghiêm là một trong những đóa Sen Trắng, chưa đầy 18 tuổi. Bài thơ của sư em gửi Thầy có giá trị của một bài kệ kiến giải mà chính em cũng không biết. Bát Nhã đối với em đã là những năm tháng hạnh phúc vì ở đấy em đã được sống trong lý tưởng và tình huynh đệ. Bát Nhã cũng đã là những dòng nước mắt khổ đau, chảy dài trong những ngày bị đánh phá và áp bức. Bát Nhã đã trở thành huyền thoại, đã thành chuyện ngày xưa, nhưng Bát Nhã không mất mà chỉ trở thành mưa. Những trận mưa Bát Nhã đã rơi xuống mặt đất và đã làm nẩy lên hạt giống Bồ đề, hạt giống bồ đề trong trái tim của Đôn Nghiêm, trong trái tim của các con và trong trái tim của bao nhiêu người trẻ khác. Đó là những hạt giống Kim cương bất hoại, không có ngọn lửa nào có thể đốt cháy. Bát Nhã sẽ tái sinh trong những hình thức mới vì hạt giống Bồ đề của nó đang có mặt khắp nơi. Phải thấy Bát Nhã trong những hình thái vô tướng và đa tướng của nó. Đôn Nghiêm đã thấy được, nên Đôn Nghiêm không còn khổ đau, không còn lo sợ. Bát Nhã của Đôn Nghiêm sẽ còn mãi mãi. Với cái thấy ấy, những con người như Đôn Nghiêm sẽ không bao giờ chùn bước, sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Vì vậy thầy không hề bi quan. Thầy tin ở tuổi trẻ Việt Nam. Thầy không cần phải dặn dò các con phải làm cái này cái nọ. Ngay trong tình trạng của mình và của đất nước  các con tự biết là phải làm gì và  chắc chắn các con sẽ thực hiện được chí nguyện của mình. Đó là tại vì tâm bồ đề của các con đang có mặt. Vì vậy cho nên thầy có niềm tin nơi các con.

Ngày 06-12-2009 vừa qua, từ Mai Thôn thầy đã có dịp thuyết trình cho Hội Nghị Thượng Đỉnh Tôn Giáo ở Melbourne Úc Châu bằng phương tiện viễn thông. Thầy đã chia sẻ với các nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đang có mặt tại hội nghị về cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Thầy đã nói về năm giới tân tu của chúng ta như con đường mà nhân loại có thể sử dụng để ra khỏi tình trạng khó khăn, cứu vớt được hành tinh và đem lại hòa bình an lạc trên thế giới. Năm giới tân tu trong văn bản mới là hoa trái của công phu tu tập của Tăng thân trong hơn tám tháng trời. Đó là con đường do Bụt khai mở. Đó là đóng góp của đạo Bụt cho nhân loại, rất cần thiết cho giai đoạn toàn cầu hóa này. Chúng ta đã có con đường, chúng ta đã có niềm tin, chúng ta đã có nhau như một Tăng thân thì chúng ta không cần phải lo lắng nữa. Nói như sư chú Pháp Đại: “Chúng con biết ngoài việc tu tập thì chúng con không cần phải lo lắng gì thêm. Chúng con nguyện sẽ tu tập tốt hơn để không phụ lòng thầy tổ”. Nghe các con nói những câu như thế, thầy biết là thầy đang có niềm tin nơi các con.

Thầy Bát Nhã của các con, (như một số các con đã gọi Thầy!)

Làm mới tâm Bồ Đề

Phương Khê Nội Viện
Thư gửi các con Bát Nhã và các con khác của Thầy ở xa và ở gần.

Con Ong Chúa

Khóa tu bảy ngày dành riêng cho người Xuất sĩ tại Làng Mai đã chấm dứt nhưng dư âm cũng như năng lượng hạnh phúc của nó vẫn còn vang vọng và kéo dài. Tăng thân ở Thiền đường Hơi Thở Nhẹ ở Paris cũng như ở Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu ở Waldbroel đã rời khoá tu và về lại trú xứ của mình. Tại Làng Mai, đại chúng đang được thực tập mười ngày làm biếng. Có vị súc ruột, có vị nhịn ăn, có vị nhập thất, có vị viết thư hay đọc sách. Tại Nội Viện, Thầy đang có dịp hoàn tất bản dịch Kinh Nghĩa Túc. Ở đây cũng đang có mười vị nhập thất. Thầy mong rằng ở đâu các con của Thầy cũng đã theo dõi được khóa tu, nghe được các bài pháp thoại, các buổi vấn đáp, các buổi pháp đàm, và các tin tức cũng như hình ảnh của khóa tu. Như các con đã biết, chủ đề của khoá tu là “Làm mới lại Tâm Bồ Đề“.

Làm mới lại Tâm Bồ Đề? Chắc các con ai cũng cảm thấy là Tâm Bồ Đề của mình còn mới tinh. Những biến cố xảy ra trong năm qua cũng đã giúp chúng ta nhìn lại và thấy được cái sơ tâm ấy vẫn còn nguyên vẹn, đã không bị tổn thất mà còn trở nên vững mạnh hơn. Sơ tâm là cái quý giá nhất. Còn sơ tâm là còn tất cả. Chúng ta còn sơ tâm mà cũng còn nhau. Chúng ta vẫn còn nhau như một tăng thân dù bị ly tán. Ta không có cảm giác bị ly tán bởi vì sơ tâm còn đó trong mỗi chúng ta. Sơ tâm là con ong chúa. Tất cả đàn ong nhờ có con ong chúa nên bao giờ cũng có cơ hội trở về với nhau, bằng cách này hay bằng cách khác, dưới hình thức này hay hình thức khác. Thầy không lo lắng và Thầy muốn các con cũng đừng lo lắng. Hãy mỉm cười và thấy mình đang có dịp để lớn lên.

Dòng Chảy

Trong khóa tu đại chúng đã nghe và thực tập pháp môn ” Thấy mình là một dòng chảy.” Khi lễ lạy, ta có thể ý thức được sự có mặt của Cha và Mẹ trong ta, Bụt, Tổ và Thầy trong ta. Và qua các vị ấy, ta tiếp xúc được với hai dòng tổ tiên tâm linh và huyết thống trong ta. Ta thoát ra khỏi cái vỏ bản ngã nhỏ hẹp tạo nên bởi tập khí vô minh. Ta thấy ta là sự tiếp nối của tổ tiên, ta là một dòng chảy chứ không phải là một ao hồ nằm nguyên tại chỗ. Ta cũng thấy được sự có mặt của các em của ta trong ta, cũng như sự có mặt của con em các vị ấy trong ta. Ta đang tự trao truyền ta cho các em và các người trẻ mà ta đang chăm sóc và giáo dưỡng, dù là xuất sĩ hay cư sĩ. Ta thấy họ trong ta và ta trong họ. Ta đang có cơ hội trao truyền những gì tốt đẹp nhất, lành mạnh nhất của ta cho các vị ấy, và đó là một niềm vui, một sự mãn nguyện. Mỗi cái lạy, mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười đều có giá trị tiếp nhận và trao truyền, giúp ta thấy ta đang là một dòng chảy. Trong những giây phút như thế, vô ngã không còn là một ý niệm mà là một thực tại sống động: ta, tổ tiên ta và con cháu ta đang hợp nhất trong một dòng chảy. Không còn sự ngăn cách, sự hối tiếc, không còn sự cô đơn. Và ta cảm thấy thông suốt, rỗng rang, thư thái và khỏe mạnh.

Cây Anh Đào

Sáng nay khi đi thiền hành bên bờ suối Phương Khê, Thầy thấy mình cũng có thể thực tập như một cây anh đào, một cây táo, hay một cây bưởi. Ở Phương Khê không có bưởi nhưng có táo và anh đào. Chỉ vài tuần lễ nữa thôi là những cây này sẽ nở hoa. Hồi đại chúng ăn Tết thì trời còn rét lắm, sương tuyết vẫn còn nhiều. Nhưng bây giờ thủy tiên ở xóm Thượng đã bắt đầu nở và những nụ hoa ngọc lan ở Phương Khê đã bắt đầu lớn dậy. Hoa anh đào màu trắng và hoa táo màu hồng. Ta thực tập như một cây anh đào hay một cây táo. Khi ngồi thiền, đi thiền, tập thở, chấp tác, pháp đàm, ta nuôi dưỡng ta như cây anh đào đang tiếp nhận ánh sáng, sức ấm mặt trời, mưa, nắng, những chất bổ dưỡng trong lòng đất và trong không khí để cây anh đào chuẩn bị làm lá, làm hoa, làm trái. Để ta có hoa trái của chánh niệm, của hiểu, của thương mà trao truyền lại cho các thế hệ tương lai. Quá trình là một quá trình tiếp nhận, hiến tặng và trao truyền. Cây anh đào làm như thế thì ta cũng làm như thế. Cây anh đào có niềm vui khi làm như thế thì ta cũng có nhiều niềm vui khi làm như thế. Nhìn cây táo rực rỡ với hàng vạn khóm hoa màu hồng chuẩn bị cho sự ra đời của những trái táo tròn trĩnh và trĩu nặng, ta nghe tiếng hát của cây táo. Nhìn một người tu đang tiếp nhận và trao truyền hoa trái của sự thực tập, ta thấy đời người tu cũng là một bài hát.

Đứng yên ngoài hàng dậu,
em mỉm nụ nhiệm mầu.
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát,
lời ca em thiên thâu.
Ta sụp lạy cúi đầu.

Đó là bài thơ của một thi sĩ trẻ tên là Quách Thoại mà Thầy đã được gặp lần đầu ở chùa Giác Nguyên, Khánh Hội, năm 1949. Bài thơ ấy có tên là Hoa Thược Dược.

Thầy đang hình dung các con là những đóa hoa đang đứng mỉm cười bên hàng dậu của quê hương và đang hát bài ca của Chánh Pháp. Cái quan trọng là bông hoa không ngưng lại lời hát ca.

Bây Giờ Rõ Mặt

Tháng sáu năm 2008, Thầy đã kết thúc chuyến đi viếng thăm và hoằng pháp của Thầy tại quê hương bằng ba tuần lễ sống và thực tập với các con Bát Nhã của Thầy. Trong suốt ba tuần lễ, bắt đầu từ cuối tháng năm dương lịch, Thầy và các con Bát Nhã của Thầy đã được sống chung và thực tập với nhau tại tu viện Bát Nhã. Về nội dung thì đây đích thực là một khóa tu xuất sĩ rất miên mật: sáng nào cũng có ngồi Thiền, hôm nào cũng có pháp thoại, thiền hành, và ăn cơm im lặng trong thiền đường Cánh Đại Bàng. Chiều nào cũng có pháp đàm hay thiền trà. Có khoảng ba mươi vị xuất gia từ Châu Mỹ và Châu Âu có mặt với Thầy, cùng với tăng thân Bát Nhã, chúng ta sinh hoạt như một gia đình tâm linh khoảng 450 người. Mình không gọi nó là một khóa tu nhưng đó là khóa tu miên mật nhất, sâu sắc nhất, và tràn đầy năng lượng tình huynh đệ, tình thầy trò. Có những dấu hiệu cho Thầy biết đây là lần cuối Thầy sống và tu với các con của Thầy ở Bát Nhã, cho nên Thầy đã sống hết lòng với Bát Nhã và với tăng thân đang ở Bát Nhã. Thầy đã nghĩ rằng có thể chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi thì mình phải rời khỏi Bát Nhã. Nhưng sự thực thì mãi đến mười bốn tháng sau người ta mới trục xuất được mình. Những hôm đi thiền hành tại khuôn viên Bát Nhã, Thầy để ý đến từng tảng đá, từng cây mít, từng bụi sim, và biết rất rõ rằng đây là lần cuối Thầy tiếp xúc với chúng. Thầy mỉm cười với bất cứ cái gì Thầy thấy và Thầy tiếp xúc. Thầy nói: Bây giờ rõ mặt đôi ta. Đây không phải là một giấc chiêm bao. Đây là một sự thật. Thầy cảm thấy tiếc. Không phải tiếc cho Thầy mà tiếc cho Thầy Đức Nghi và tiếc cho cây cỏ núi rừng ở đây sẽ không còn cơ duyên làm trụ xứ cho một tăng thân như tăng thân Bát Nhã. Thầy nhớ lại hôm Thầy Đức Nghi từ chối không làm giấy bảo trợ cho Thầy Pháp Khâm để Thầy Pháp Khâm có thể xin gia hạn thị thực. Nghe Thầy Pháp Khâm thuật lại thì hôm ấy Thầy Đức Nghi nằm quay mặt vào vách và không nói gì. Đó là một trong những dấu hiệu giúp Thầy biết rằng Thầy trò chúng ta sẽ không được tiếp tục ở Bát Nhã. Và Thầy biết trước Bát Nhã sẽ trở thành huyền thoại.

Bát Nhã Trong Tâm

Trong thời gian mà khoảng 200 vị thuộc tăng thân Bát Nhã đang tị nạn tại chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc, các em Sa di cũng đã làm được một số báo Thềm Trăng Sa di, có ghi ngoài bìa: ấn bản mùa loạn lạc. Có một bài trong tờ báo ấy nói về chuyện hai sư em vì nhớ Bát Nhã đến đứt ruột nên đã trốn tăng thân lén về thăm Bát Nhã. Các em này vì là dân địa phương nên đã tìm về được Bát Nhã một cách không khó khăn gì. Nhưng khi về tới, các em lại cảm thấy rất bơ vơ, rất buồn khổ. Cũng cảnh vật ấy, nhưng nó lạnh lùng, trống vắng và điêu tàn làm sao! Cũng như Kim Trọng sau khi hộ tang Chú, trở về thăm nhà Viên Ngoại họ Vương. Kiều đã bán mình, đi lưu lạc. Cha mẹ và hai em đã phải dời đi nơi khác, may thuê, viết mướn kiếm ăn lần hồi.

Vội qua vườn Thúy dò la.
Nhìn ra phong cảnh nay đà khác xưa.
Đây vườn cỏ mọc, lau thưa.
Song trăng lạnh lẽo, vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xòe én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày
Cuối tường gai góc mọc đầy.
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lạnh ngắt như tờ.
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

Các sư em cũng đã gặp Thầy Đồng Hạnh hôm ấy. Thầy đang bận rộn đi chăm sóc và thu hoạch trà và cà phê. Các em thấy Thầy Đồng Hạnh không còn là thầy Đồng Hạnh năm xưa của các em. Cũng như các cư xá Bếp Lửa Hồng, Mây Đầu Núi, Rừng Phương Bối, v,v… cũng không còn là các cư xá ấy của năm xưa. Bụt ngồi một mình trong thiền đường Cánh Đại Bàng, trong ấy không còn gì cả, kể cả tọa cụ, mõ, chuông, hương đèn. Bàn thờ Phật cũng không có. Bát Nhã không còn là Bát Nhã. Linh hồn của Bát Nhã,  tăng thân Bát Nhã, đã lìa khỏi cái xác Bát Nhã. Bát Nhã bây giờ chỉ là một cái xác không hồn. Cho nên hai sư em đã hối hận. Mình đã đi tìm về Bát Nhã nhưng mình đã không gặp được Bát Nhã, dù Bát Nhã đang sờ sờ trước mặt. Đừng về mà hay hơn. Thì ra Bát Nhã nằm trong tâm của mình chứ không phải ở ngoài.

Tiếc Thương

Có một sư em Bát Nhã đến tham vấn Thầy về vấn đề hiện pháp lạc trú, nói rằng vì cái tiếc thương Bát Nhã còn nặng quá trong em, nên em không thật sự thừa hưởng được cái vui đang có trong giây phút hiện tại. Thầy đã nhìn em với thật nhiều thiện cảm và Thầy nói: Con là một người còn nhiều may mắn, bởi vì con có một cái để tiếc thương. Có những người bất hạnh hơn con nhiều: họ không có gì để tiếc thương cả. Họ chỉ có khổ đau, hệ lụy và hận thù.

Trong thời gian tị nạn ở Phước Huệ, một số không ít các con Bát Nhã của Thầy đã nổ lực thực tập để sống cho được tròn đầy những ngày ở đấy. Thời khoá các con rất miên mật, dù các con biết tình trạng rất bấp bênh, và các con cũng có thể sẽ bị đánh đuổi khỏi Phước Huệ một ngày nào đó như đã bị đánh đuổi khỏi Bát Nhã trước đó. Thay vì ngồi thiền một ngày hai thời, các con đã ngồi tới bốn thời. Thầy Thái Thuận trú trì Phước Huệ đã thấy được giá trị của sự thực tập ấy nên Thầy đã đem hết lòng thương yêu và bảo hộ cho các con. Vì các con tới tị nạn tại chùa Thầy cho nên Thầy đã có cơ hội biết các con là ai. Chứ trước đó Thầy cũng chỉ có một ý niệm không rõ ràng về các con, và cố nhiên là không chính xác bằng ý niệm Thầy có bây giờ. Có hiểu mới có thương nghĩa là như thế. Cơ hội để hiểu và để thương là một điều  may mắn lớn. Mà muốn hiểu thì phải buông bỏ thành kiến và buông bỏ mọi ý định chiếm hữu của mình. Mình là con người, mình có quyền tiếc thương, nhưng mình có thể đi xa hơn. Mình tự đặt câu hỏi: tôi tiếc thương cái ấy vì cái ấy không còn nữa, nhưng trong khi cái ấy đang còn, tôi đã sống hết lòng với cái ấy hay chưa? Cái yếu kém của phần lớn chúng ta là không trân quý và sống hết lòng với những gì ta đang có: một con người, một khung cảnh, một cơ hội. Và đến khi vô thường xảy đến thì ta tiếc thương. Tiếc thương như thế là đã quá muộn: người ấy đã đi rồi, hay đã qua đời. Cảnh vật ấy không còn nữa. Sở dĩ Thầy Bát Nhã của các con không tiếc thương Bát Nhã bởi vì trong ba tuần lễ sống với các con Bát Nhã của Thầy ở đấy, Thầy đã sống hết mình. Thầy đã nhìn từng bông hoa, từng bụi trúc. Thầy đã hỏi: bây giờ rõ mặt đôi ta. Cho nên Thầy không còn tiếc thương. Tiếc là tiếc cho ai đó, thế thôi. Nếu các con đã sống hết lòng với Bát Nhã như Thầy thì các con sẽ không còn tiếc thương Bát Nhã đến nỗi không có khả năng sống an lạc được trong giây phút hiện tại.

Vậy thì trong khi thực tập, ta phải hỏi ta câu ấy: ta đã hết lòng sống với Bát Nhã trong giờ phút Bát Nhã đang biểu hiện hay không? Và ta sẽ đạt được khá nhiều tuệ giác khi ta tự hỏi ta câu hỏi ấy.

Lối Này Năm Xưa

Câu hỏi kế tiếp: khung cảnh trong đó bây giờ ta đang sống có phải là một thứ Bát Nhã hay không? Con đang ngồi ở đâu? Miền Nam, miền Bắc, miền Trung, Lộc Uyển, Bích Nham, Pháp, Đức, Hoa kỳ, Thái Lan, Hồng Kông, hay Ấn Độ? Có thể con đang ngồi trong một Bát Nhã với huynh đệ, với người thương. Nếu trong giây phút này mà con không sống thật lòng, không sống hết mình, không trân quý được những gì đang có đó cho con thì con biết là sau này con sẽ tiếc nuối cái phút giây này, cái khung cảnh này và những người đang có mặt với con trong lúc này. Và lúc ấy con sẽ tiếc thương cái giây phút này, vì giây phút này lúc ấy đã trở thành huyền thoại.

Đi về này những lối này năm xưa.” Những lối đi này năm xưa, mình đã đi với huynh đệ, với Thầy, mình đã tận hưởng. Vì vậy mình không hối tiếc. Ngày mai dù mình có trở về được với lối đi này, lối đi này cũng không còn là lối đi này nữa, bởi vì huynh đệ không còn đó và Thầy cũng không còn đó. Chính mình cũng không còn đó, dù là mình đang bước đi trên lối đi ấy. Cho nên mình không nhận ra lối đi ấy. Nó đã đi vào huyền thoại, lối đi bây giờ chỉ còn là một cái xác không hồn.

Nếu đọc những dòng này mà con giật mình tỉnh thức dậy được thì con sẽ thấy Bát Nhã vẫn còn đó, vẫn chưa trở thành một huyền thoại, vẫn còn sống động trong con. Con đang mang Bát Nhã trong trái tim và nơi con đang ngồi, đang đứng, đang nhìn trong giây phút hiện tại này nó cũng đang là Bát Nhã. Dù nơi con đang ngồi là miền Trung, miền Bắc, Mỹ, Pháp, Đức, Thái Lan,v.v… Bát Nhã của chúng ta thật đẹp, con ơi, và không có ai có thể cướp đoạt được. Không một quyền lực nào có thể làm được chuyện ấy.

Nếu con thức dậy được thì lập tức trú xứ của con bây giờ sẽ trở nên Bát Nhã dù bên con chỉ có ba người huynh đệ. Bụt dạy Tăng ít nhất phải có bốn người. Con đã học phép dựng Tăng, thế nào con cũng sẽ thành lập được một tăng thân có tu, có học, có niềm vui, có lý tưởng, có tình huynh đệ. Ngày Thầy rời quê hương năm 1966, Thầy chỉ đi một mình. Đi một mình rất nguy hiểm. Nếu mình bị tách ra khỏi tăng thân thì mình sẽ khô héo lại như một con ong không tìm được đường về tổ ong. Mình sẽ chết như một tế bào bị lấy ra khỏi cơ thể. Nhưng Thầy đã không khô, không chết. Tại vì lúc ấy Thấy đã mang tăng thân trong lòng. Thầy đi để vận động dư luận thế giới chấm dứt chiến tranh ở quê hương. Và Thầy bị lưu đày, không được phép trở về. Tất cả bạn bè, công việc và tăng thân bên đó tự nhiên Thầy phải bị xa cách hết. Cho nên khi được biết tin là mình đang lâm vào một hoàn cảnh như thế, Thầy lập tức tìm cách dựng tăng. Thầy đã nhìn xung quanh để nhận diện những yếu tố nào mà mình có thể sử dụng để thành lập một tăng thân. Cuối cùng Thầy đã lập ra được một tăng thân, và tăng thân ấy hiện đang có mặt trên 45 nước.

Các con là sự tiếp nối của Thầy, thầy tin các con sẽ dựng được tăng thân khắp nơi bằng cách này hay cách khác, bằng danh xưng này hay danh xưng khác, miễn đó là một tăng thân đích thực, gọi là chân tăng, có chánh niệm, có tình huynh đệ, có sức sống, có lý tưởng độ đời. Thầy có niềm tin nơi tuổi trẻ, và đây là một trong những yếu tố làm nên hạnh phúc của Thầy. Hễ là chân tăng thì Pháp sẽ có mặt, Bụt sẽ có mặt, và Thầy cũng sẽ có mặt.

Thiên Đường Của Tình Huynh Đệ

Trong khoá tu dành riêng cho người xuất sĩ vừa mới hoàn tất tại xóm Thượng, phần lớn các sinh hoạt cộng đồng đều được diễn ra trong thiền đường Nước Tĩnh. Thiền đường này trong hình thức cũng như trong nội dung chứa đựng bao nhiêu là tình huynh đệ. Bữa cơm cuối cùng trước khi chia tay, một Thầy xóm Thượng đã phát biểu: xin Sư Ông thay vì gọi thiền đường này là “Thiền đường Nước Tĩnh” thì gọi nó là “Thiên đường Nước Tĩnh”. Đúng rồi, đây là một thiên đường của tình huynh đệ. Nếu mình quả thật muốn thì thiên đường sẽ có mặt đó cho mình ngay trong giây phút hiện tại. Paradise is now or never. Tịnh độ là đây, đây là Tịnh độ.

Bát Nhã cũng là thiên đường, tại vì ở đấy Thầy trò ta đã sống hạnh phúc. Thiền đường Cánh Đại Bàng cũng có thể được gọi là ” Thiên đường Cánh Đại Bàng” vì nơi ấy đã có những giây phút hạnh phúc tràn đầy tình huynh đệ. Nhiều vị trong các con đã viết cho Thầy rằng chính trong môi trường Bát Nhã mà các vị ấy lần đầu đã được sống với con người thật của mình. Mình không cần phải che dấu những tư tưởng và những cảm nghĩ của mình nữa. Mình có thể nói thẳng với các huynh đệ. Các huynh đệ mình có khả năng lắng nghe, thông cảm, mình không sợ bị lên án là đánh mất lập trường, là có tư tưởng sai trái với đường lối đặt ra. Mình được chấp nhận. Ngoài kia, trong khung cảnh của xã hội, của học đường, của sở làm và ngay của gia đình, mình cũng không được sống với cái con người thật của mình. Cho nên ở đây mình cảm thấy thoải mái. Cái yếu tố hạnh phúc thứ hai mà mình tìm ra được ở đây là một môi trường sống lành mạnh. Ở đây không có rượu, không có ma túy, không có cờ bạc, không có hút sách, không có lang chạ tình dục, không có tham nhũng, không có lạm quyền, thù hận, ganh tỵ, và những độc hại của các trò chơi giải trí. Ấy vậy mà mình không cảm thấy thiếu, trái lại mình cảm thấy rất an toàn và được nuôi dưỡng. Môi trường Bát Nhã là môi trường lành mạnh nhất mà mình đã thấy, mình không còn sợ hãi lo âu  khi được sống trong một môi trường như thế.

Cái yếu tố hạnh phúc thứ ba mà mình tìm ra được ở đây là tình huynh đệ. Đúng rồi! Tình huynh đệ. Rất nhiều người trong chúng ta  đã đói khát về tình huynh đệ khi chúng ta chưa tới được Bát Nhã. Cái hấp dẫn nhất ở Bát Nhã là tình huynh đệ.Tìm ra được cái ấy rồi, ta làm sao có thể bỏ nó cho được? Ai sống mà không cần tình thương, không cần thương và không có nhu yếu thương? Tình huynh đệ lành mạnh và bền bĩ hơn tất cả mọi thứ tình.

Nhưng đã hết đâu. Tới với Bát Nhã là ta còn khám phá được con đường lý tưởng mà người trẻ đi tìm. Tại đây ta tìm ra được những pháp môn thực tập có công năng chuyển hóa và trị liệu. Và cũng ngay tại đây ta có dịp giúp cho những người khác đến để thực tập chuyển hóa và trị liệu, trong đó có rất nhiều người trẻ. Chính tại Bát Nhã mà ta đã thấy được nhiều cặp cha con, vợ chồng, anh em nhờ tu tập mà chuyển hóa được, và do đó mà đã hòa giải được với nhau, tái lập được truyền thông, phục hồi lại hạnh phúc. Có những khoá tu đông cả ngàn người. Và ta thấy nét hạnh phúc trên mặt họ khi họ thực tập thành công. Như vậy là ta đã có một con đường đi thật đẹp. Đó là lý tưởng đời ta. Ta thấy ta có cơ hội phụng sự , và cuộc đời ta bắt đầu có ý nghĩa và mục đích.

Bát Nhã cung cấp cho ta tất cả những điều kiện ấy của hạnh phúc. Bát Nhã vì thế là thiên đường của ta. Ta đã thấy, đã nghe, đã cảm nhận, đã sống với thiên đường Bát Nhã. Bát Nhã thực sự đang nằm trong ta chứ không phải nằm ngoài ta. Nếu Bát Nhã nằm trong ta thì đi đâu ta cũng có Bát Nhã, đi đâu ta cũng thiết lập được Bát Nhã. Thầy đã làm được như thế và Thầy tin chắc là các con của Thầy cũng sẽ làm được như thế. Phương Bối cũng như Bát Nhã đều nằm trong tâm ta bởi vì ta đã thấy, đã nghe, đã cảm nhận và đã sống với nó.

Máu Chảy Ruột Mềm

Trong những khi bị xua đuổi, phản bội và đe dọa, nếu ta biết thở và trở về với Bát Nhã trong ta thì ta sẽ được bình an. Nhiều Thầy và nhiều Sư Cô đã làm được như thế ở Phước Huệ và ở những nơi khác như Từ Đức, Đình Quán, Diệu Nghiêm. Thầy nhớ lại những năm như năm 1969, 1977  và những lúc Thầy bị xua đuổi, đe dọa và trục xuất, giống hệt như các con Bát Nhã của Thầy đã từng bị đe dọa, xua đuổi, và trục xuất ở Bát Nhã và Phước Huệ. Tháng 05 năm 1971 chẳng hạn, trong khi còn ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn để vận động hòa bình, Thầy được một phái viên tờ The Baltimore Sun gọi tới cho biết là chính phủ Việt nam (Cộng Hòa) vừa gửi điện văn thông báo cho ba chính quyền Hoa Kỳ, Pháp, và Anh là họ đã vô hiệu hóa hộ chiếu (passport) của Thầy và xin các nước ấy đừng công nhận nó là có hiệu lực nữa. Mục đích là để Thầy chấm dứt công việc chu du thế giới, kêu gọi đình chiến, đi tới thương thuyết hòa bình. Vị ký giả này đề nghị Thầy nên đi trốn (go underground), và ở ẩn một nơi không ai biết để khỏi bị dẫn độ (deportation) về nước và ở tù, vì đã dám đi kêu gọi hòa bình. Hồi ấy Thầy có một người bạn cũng đang hoạt động cho hòa bình như Thầy và cũng đã từng bị tù tội và cũng đã từng đi trốn để khỏi bị truy nã để đi ở tù thêm. Đó là Linh mục Daniel Berrigan, một vị linh mục dòng Tên, đồng thời cũng là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Cùng các bạn, vị ấy đã có những hành động bất phục tùng như kêu gọi đốt thẻ trưng binh, lấy sơn đỏ giả máu đi vào những nơi chế tạo hay cất giữ các đầu đạn nguyên tử  để trút lên các thứ vũ khí giết người ấy,v.v.. Họ hành động theo Thánh kinh dạy là lấy gươm giáo đúc thành lưỡi cày. Linh mục Berrigan đã từng qua Pháp chơi, ở lại và tu tập ba tháng với Thầy tại văn phòng Phái Đoàn Hòa Bình của Phật Giáo Việt Nam ở Paris (Sceaux) và ở Phương Vân Am (Fontvannes), và sau đó có trở lại nhiều lần. Tại Paris, Thầy đã nhường phòng Thầy cho Ngài và đi ngủ ở một phòng bên, và Ngài đã có dịp đọc kinh Pháp Hoa trên kệ sách của Thầy bằng Anh ngữ.

Thầy đã không nghe theo lời của vị ký giả tờ The Baltimore Sun. Thầy không muốn ở lại Hoa Kỳ và xin tị nạn ở đấy vì Hoa Kỳ đang tham chiến tại Việt Nam. Thầy quyết định về Pháp để xin tị nạn chính trị, và để cho trường hợp dẫn độ không xảy ra tại Paris, Thầy đã điện thoại cho các bạn ở Paris để họ tổ chức tiếp đón và họp báo ở phi trường. Nếu cần thì sẽ tuyên bố xin tị nạn ngay ở phi trường. Hồi đó Sư Cô Chân Không đang đi diễn thuyết vận động ở Trung Mỹ, Costa Rita. Sư Cô cũng được gọi về Paris cùng lúc để chuẩn bị. May cho Thầy là nước Pháp đã không dẫn độ mà sau đó còn cho Thầy tị nạn.

Năm 1976, trong khi điều khiển chương trình Máu Chảy Ruột Mềm để cứu trợ thuyền nhân, Thầy đã bị cảnh sát Singapore khám phá ra và buộc Thầy phải rời khỏi Singapore trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Họ đã đến vây quanh trụ sở của Thầy lúc hai giờ đêm, vào nhà và tịch thu thông hành của Thầy và bảo chỉ trả lại tại phi trường trước khi Thầy rời khỏi lãnh thổ của họ. Trong khi đó hai chiếc thuyền Leapdal và  Roland đang chở đầy thuyền nhân, và kế hoạch chở thuyền nhân đi tị nạn ở Úc bị tiết lộ do sự tò mò của giới báo chí. Chiếc Saigon 200 có nhiệm vụ tiếp tế nước uống, thực phẩm, và y dược cho đồng bào thuyền nhân cũng bị bắt. Thêm nữa, một cơn bão đang xảy ra ở ngoài khơi và hai chiếc thuyền đầy thuyền nhân của Thầy (trên 589 người) không được phép ghé vào hải phận để tránh gió. Đêm đó Thầy có cảm tưởng là mình đang lênh đênh trên sóng gió với tất cả các thuyền nhân. Thầy đã ngồi thiền và đi thiền hành suốt đêm để tìm ra giải pháp. Thầy có đức tin nơi Tam Bảo, nơi tăng thân, và cuối cùng Thầy đã tìm ra được giải pháp. Thầy đã chờ tới sáng để đến nhờ ông đại sứ Pháp, ông Jacques Gasseau can thiệp với chính quyền Singapore cho thầy được ở lại thêm mười hôm nữa để kết thúc chương trình. Chính đêm ấy Thầy đã quán chiếu về công án “dục an đắc an.” Nếu thực sự muốn an thì có an. An ngay trong cơn nguy. Có tăng thân, có Tam Bảo, có con đường, có tình huynh đệ cho nên Thầy đã vượt được khó khăn.

Sư anh Nhất Trí của các con và nhiều anh chị em trong dòng tu Tiếp Hiện cũng như trong tổ chức TNPSXH ngày xưa cũng đã từng trải qua những giai đoạn như thế, cũng như các con đã trải qua kinh nghiệm Bát Nhã, Phước Huệ và hiện giờ. Thầy tin là ở trong tình huống nào các con cũng có khả năng thực tập “dục an đắc an.” Mình đã làm được ở Bát Nhã và Phước Huệ , thì mình cũng làm được ở đây bây giờ, tăng thân chúng ta vẫn còn nguyên vẹn và chúng ta vẫn mỗi người mang tăng thân trong lòng.

Buồn Tủi Cô Đơn

Mới đây thôi, chừng mười hôm, trong một giấc mơ Thầy đã nằm thấy bạn Thầy, Linh mục Daniel Berrigan. Ngài bây giờ đã trên 90. Ngồi bên vị xuất sĩ can trường này, Thầy thấy đây là một vị tôn đức đáng kính, dù vị ấy không có cái tướng bên ngoài của một vị hòa thượng. Và Thầy đã đề nghị đại chúng có mặt đảnh lễ vị tôn đức ấy. Đại chúng còn chưa kịp chuẩn bị thì tự nhiên Thầy thấy Thầy đang ngồi một mình với Cha Berrigan ở một không gian thật trống vắng và thấy vị Linh mục này mở vòng tay ra ôm lấy Thầy. Thầy cũng dang tay ôm bạn vào lòng. Thầy ôm hết lòng và ôm thật sự theo phương pháp thiền ôm của Mai Thôn. Ban đầu chỉ có hạnh phúc và bình an của tình huynh đệ, nhưng sau đó không lâu, một năng lượng thổn thức chợt nẩy sinh trong Thầy. Năng lương của sự buồn tủi, đau xót và cô đơn. Thầy lấy làm lạ, nhưng vẫn có khả năng tiếp tục nhận diện và chấp nhận những tâm hành đó. Trước kia, mình đã tưởng rằng những tâm hành đó đã được chuyển hóa, và nếu còn thì cũng còn rất ít. Nhưng nó không ít, tại vì nó đã tạo ra được sự rung chuyển trong con người Thầy. Và vòng tay của Thầy đang chuyển sang cho người Thầy đang ôm cái năng lượng buồn tủi, đau xót và cô đơn ấy. Thầy cảm thấy rất rõ là vị kia cũng đã tiếp nhận và đã đáp ứng. Thời gian ôm kéo dài khá lâu và Thầy đã cho phép Thầy bộc lộ những đau buồn ấy một cách tự nhiên và chân tình. Khi thức dậy, Thầy biết giấc mơ ấy đã có lợi lạc cho sức khỏe của Thầy vì mình đã có dịp nhận diện và chia sẻ những đau buồn của mình cho một người bạn thân có khả năng hiểu được và thông cảm được những đau buồn ấy, vì chính người kia cũng đã từng đi qua những khó khăn, những tủi nhục, những cô đơn tương tự. Thầy nghĩ là trong đời những người mà mình có thể chia sẻ như thế là rất ít, dù trong truyền thống của chính mình. Khi ôm trong tay một người bạn huynh đệ hay một người đệ tử, mình chỉ muốn trao truyền năng lượng bình an và thương yêu, và người kia có thể nghĩ rằng mình chỉ có loại năng lượng đẹp đẽ và an lành ấy. Nhưng mình vẫn là con người, và dù năng lượng của buồn đau đã được chế ngự và chuyển hóa, nó vẫn còn có đó trong tính người của mình. Nó chịu ngủ yên là mình đã có đủ bình an rồi. Nhưng sự có mặt của nó cũng rất quan trọng. Nhờ nó mà mình nhận diện và thông cảm được những nỗi khổ và niềm đau của người khác, và cũng nhận diện được những may mắn và mầu nhiệm đang có mặt trong giây phút hiện tại trong mình và chung quanh mình.

Đóa Sen Trong Trái Tim

Trong hơn bốn thập niên, Thầy đã có cơ hội làm quen với một số các vị mà mình đã chấp nhận như là những người bạn tri kỷ. Có người ít ai biết đến mà cũng có người nổi danh. Trong số những người Thầy gặp có Bertrand Russell, Martin Luther King, Heinz Kloppenburg, Hannes de Graaf, Alfred Hassler, Arthur Miller, Heidi Vaccaro, v.v… những người đã rất sát cánh với Thầy trong công cuộc tranh đấu cho hòa bình, cho nhân quyền, cho tương lai trái đất. Thầy chưa có dịp ôm Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng nếu có dịp, và nếu Ngài không bị quần thần của Ngài đông đảo vây quanh thì có thể là trong khi ôm Ngài Thầy cũng có cơ hội chia sẻ năng lượng buồn tủi ấy, vì Thầy biết Ngài cũng đã đi qua những buồn đau tủi nhục tương tự. Ngày xưa, Đức Thế Tôn cũng đã có những niềm đau sâu sắc của Ngài và Ngài đã ôm ấp và chuyển hóa với cái năng lượng đại trí và đại bi của Ngài. Cuộc đời hoằng hóa của Bụt cũng có rất nhiều khó khăn, và Bụt cũng đã từng bị vu khống, xua đuổi và đàn áp. Sau ngày vua Ba Tư Nặc băng hà, vua Tỳ Lưu Ly bạo ngược đã đem quân lực qua tàn phá quê hương của Bụt và tàn sát dòng họ Thích Ca một cách hung bạo, chỉ vì vua đã có quá nhiều thù hận và mê lầm. Bụt đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm để ngăn chận, nhưng kết quả cũng chỉ có giới hạn. Tổ Lâm Tế đã nói đến tính tương tức giữa Bụt và chúng sanh, và ta đã nghe câu: Phật sanh bất nhị. Hễ là con người thì mình có cơ duyên thành Phật, và thành Phật rồi mình vẫn còn được làm người. Vì vậy con đường của Bụt là một con đường nhân bản đích thực. Bụt có những người bạn hiểu Ngài sâu sắc và cũng có những người đệ tử hiểu Ngài sâu sắc. Bụt không cô đơn. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng thế. Vua Trần Thái Tông cũng thế. Các con Bát Nhã của Thầy đã từng nếm trải những vu khống, những kỳ thị, những bạo động, những xua đuổi, nhưng các con đã hành xử với trái tim của người con Bụt chân chính, không hận thù, không kỳ thị, không tuyệt vọng. Đồng bào các giới trong nước và bằng hữu chúng ta ở ngoài nước may mắn thay đã chứng kiến được điều đó, đã đem lòng yêu thương các con và phát khởi ý nguyện bảo hộ cho các con. Chúng ta không cô đơn, chúng ta đã được biết tới, đã được hiểu và đã được thương. Các giới trí thức, nhân bản, trẻ tuổi, công nhân, tiểu thương, cũng như Chư  Tôn Đức đã lên tiếng bảo hộ cho các con. Các con đã hiến tặng được, đã gây được một niềm tin nơi một đạo Phật tương lai cho đất nước, cho thế giới. Bát Nhã đã trở nên một đóa sen bất diệt trong lòng người. Đóa sen ấy mỗi chúng ta đang mang trong trái tim. Không một thế lực nào có thể tiêu diệt được đóa sen ấy. Nó sẽ làm phát hiện Bát Nhã ở khắp nơi, trong tương lai cũng như trong hiện tại. Nó là tình huynh đệ, nó là lý tưởng, nó là hạnh phúc, nó là tình đồng bào, tình nhân loại. Bụt không cô đơn, tăng thân trên núi Linh Thứu không cô đơn, dù vua A Xà thế chưa tỉnh giấc. Các con biết đấy, cuối cùng vua A Xà Thế cũng đã tỉnh thức và tìm về với Bụt. Đức Đạt Lai Lạt Ma không cô đơn dù đất nước Ngài chưa khôi phục lại được chủ quyền. Con đường của Ngài cũng là con đường của từ bi, của bất bạo động, của tình huynh đệ. Ngài cũng có đóa sen Bát Nhã trong trái tim Ngài. Ngài cũng đã từng lên tiếng bảo hộ cho tăng thân Bát Nhã. Chắc chắn là có những lúc tâm hành đau buồn tủi hận cũng phát hiện nơi Ngài, nhưng Ngài đã biết nhận diện, ôm ấp nó để cuối cùng nó nuôi dưỡng được cho ý chí của Ngài. Các con của Thầy cũng cần thực tập như thế.

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,
thiên hạ thùy nhân bất thức quân?
(Đừng buồn đường trước không tri kỷ,
thiên hạ ai người chẳng biết ta?)

Nếu cần vài ba phút để tiếc thương, để buồn tủi, thì con cứ tự cho phép mình vài ba phút ấy. Chúng ta là con người, chúng ta có quyền buồn tủi tiếc thương. Chúng ta nhận diện, ôm ấp và mỉm cười với cái chất người đó trong ta. Nhưng sau đó ta phải tiếp tục đi tới, bởi vì ta cũng có tính Bụt trong ta. Nếu những đóa sen tươi thắm kia cần có bùn đất mới biểu hiện được, thì những tiếc thương đau buồn kia cũng có thể nuôi dưỡng được Tâm Bồ Đề, được tâm ban đầu. Thầy biết Tâm Ban Đầu của các con còn vững mạnh lắm cho nên Thầy rất yên tâm.

Mộng Hay Thực?

Có đóa sen Bát Nhã trong lòng, con có thể mỉm cười và trở về với giây phút hiện tại. Con sẽ thấy Bát Nhã đang có mặt ngay nơi chỗ con ngồi. Con sẽ trân quý những gì con tiếp xúc được trong giây phút này. Đó là phép lạ của sự tỉnh thức. Với chánh niệm, cuộc đời có thể đẹp hơn cả những giấc mơ. Thầy nhớ cách đây chừng một tháng, Thầy có một giấc mơ rất bình thường nhưng rất đẹp. Thầy mơ thấy Thầy thức dậy ở một ngôi chùa hay một trung tâm thực tập nào đó mà cảm thấy không khí rất vui. Thầy hỏi một vị đang có mặt gần đấy: cái gì mà vui vậy hả con? Vị ấy trả lời: Bạch Thầy có mấy huynh đệ vừa về tới. Chúng con đang nấu một nồi cơm để ăn chung cho vui. Thầy ngồi dậy, bước ra sân chùa, đi thiền hành, nhận diện từng chậu lan, khóm trúc mà lòng vui như mở hội. Có gì đâu? Chỉ có vài huynh đệ mới về tới. Chỉ có một nồi cơm sắp chín để huynh đệ có dịp ngồi ăn với nhau. Chỉ có những chậu lan, khóm trúc ngoài sân chùa. Nhưng tại sao mà vui như thế? Tại vì chúng ta đang còn có nhau, tại vì chúng ta có tình huynh đệ. Một giấc mơ nhỏ, đơn sơ nhưng làm Thầy hạnh phúc trong bao nhiêu ngày. Nhưng đây đâu phải là một giấc mơ? Đây là sự thực mà. Thầy trò ta đang có nhau, huynh đệ ta đang có nhau. Dù có xảy ra chuyện gì đi nữa thì cái tình huynh đệ ấy vẫn không mất. Đó là thiên đường của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn cho kỹ người huynh đệ đang có mặt. Chúng ta chỉ cần nhìn kỹ chồi lan, khóm trúc, và đọc câu thần chú của thi hào Nguyễn Du: Bây giờ rõ mặt đôi ta. Ta thấy được mặt nhau một cách rõ ràng ngày hôm nay thì ngày hôm nay sẽ không bao giờ trở nên một giấc mơ nữa cả.

Thầy của các con,
Nhất Hạnh

Tiếp tục chí nguyện xưa

Kính gởi Sư Bà Diệu Trí, trú trì chùa Diệu Nghiêm, thuộc tổ đình Từ Hiếu

Xin sư bà nằm yên và để cho tiếng niệm Phật thấm vào cơ thể. Tôi cũng đang niệm Phật cho Sư bà và gởi năng lượng bình an về thêm cho Sư bà. Hiện thời đại chúng tại tổ đình đang tu tập tinh chuyên, và ai cũng đang gởi năng lượng bình an tới cho Sư bà. Xin Sư bà mỉm cười để cho thân tâm nhẹ nhàng. Con cháu và đệ tử của Sư bà đang có mặt chung quanh Sư bà, ai cũng cảm thấy may mắn có được một vị thầy như Sư bà, một vị Ni sư suốt đời tu học tinh chuyên, thông minh, vững chãi, quá tuổi một trăm rồi mà còn làm bóng mát che cho con cháu.

Chị em mình đã được sống những ngày tháng hạnh phúc ở tại tổ đình. Em nhớ hồi còn trẻ thường qua thăm chị bên Diệu Nghiêm hồi đó còn là một mái chùa lá lụp xụp. Chị còn là một sư cô trẻ, em còn là một chú sa di mới thọ giới. Hồi đó chị ở một mình; không có vị đệ tử nào. Chị đã thương yêu chăm sóc mấy điệu bên Từ Hiếu như em ruột của chị.

Chúng ta có may mắn được tu dưới sự che chở của các bậc cao tăng của tổ đình. Em đã gánh nước, giã gạo, trồng sắn, giữ bò, ủ phân, trang trí bàn Phật và bàn tổ bằng những tràng hoa mỗi khi có ngày Kỵ tổ. Chị đã giúp chúng em, chỉ dẫn cho chúng em, làm việc chung với chúng em. Chị đã dạy em chắp tay thế nào cho đẹp, đừng nên uống aspirine để cho bụng khỏi bị cào, gọt mít như thế nào để cho mủ mít đừng dính vào tay áo. Những giờ phút hạnh phúc vẫn như đang còn đó, và sẽ không bao giờ mất đi. Chị ở nhà, em đi lang thang trên thế giới. Nhớ chị, có một lần em đã gởi về cho chị một thẻ kẹo chocolate.

Em vẫn còn đi lang thang, chị vẫn còn ở nhà, dù chị đã trên một trăm tuổi. Cô giáo ngày xưa vẫn còn đó. Chú điệu ngày xưa cũng còn đó. Nhưng bây giờ chúng ta đã được tiếp nối. Con cháu chúng ta sẽ làm cho xong những gì hai chị em ta còn chưa làm xong.

Chi hãy nằm yên, để cho tiếng niệm Phật thấm vào cơ thể. Em đã từng nghe chị trì tụng bài quy nguyện: Cùng tăng thân xin nguyện trở lại, nơi cõi đời làm việc độ sinh. giờ phút này sông núi chứng minh, cúi xin đức Từ Bi nhiếp thọ… Lời nguyền còn đó, chị sẽ trở lại, để làm một sư cô trẻ, một sư chú trẻ. Chúng ta phải tiếp tục chí nguyện ngày xưa.

Em đang gởi năng lượng thương yêu và bình an về cho chị.

Nhất Hạnh