Trở về tiếp xúc với đất Mẹ

Trở về tiếp xúc với cội nguồn

Thiền hành là một phép thực tập rất dễ chịu, nhất là vào lúc ban mai, khi không khí rất là trong lành. Trong khi đi thiền chúng ta phải hợp nhất thân với tâm và phối hợp hơi thở với bước chân.Thở vào ta có thể bước hai, ba hay bốn bước; thở ra ta có thể bước nhiều bước hơn. Ví dụ thở vào ta bước hai bước thì thở ra ta bước ba bước, nếu thở vào ta bước ba bước thì thở ra ta nên bước năm bước, nếu thở vào ta bước bốn bước thì thở ra ta có thể bước sáu bước, thở vào ta bước năm bước thì thở ra ta bước tám bước. Đó là kinh nghiệm của tôi.

Nếu có một cái đồng hồ tíc-tắc trên bàn ngủ, ban đêm khi nằm xuống chúng ta ngưng suy nghĩ, thở vào ta đếm ba giây, thở ra ta đếm năm giây, v.v… cho đến khi ngủ.  Tiếng tíc-tắc của đồng hồ giúp ta rất nhiều. Trong thiền đường, nếu có một cái đồng hồ thì ta có thể thở theo tiếng tíc-tắc của đồng hồ. Chúng ta chấm dứt sự suy nghĩ và chỉ thở thôi. Thở như vậy rất là dễ chịu.

Chúng ta có thể đặt ra những câu thiền ngữ dùng để đi thiền hành.
Ví dụ như thở vào đi hai bước ta nói: Đã về,đã tới.
Thở ra đi ba bước ta nói: Con đã về, con đã tới.
Mình thật sự về, thật sự tới, mình không rong ruổi nữa và mình thích thú với giây phút hiện tại “đã về đã tới“.

Pháp môn Làng Mai rất đơn giản, bài thuyết pháp sâu và ngắn nhất của Làng Mai là: Đã về đã tới, đem thân tâm trở về hiện tại, tiếp xúc với những mầu nhiệm của giây phút hiện tại, những mầu nhiệm đang có trong mình và chung quanh mình để được nuôi dưỡng và trị liệu. Mình thấy thoải mái, an ổn, mãn ý với giây phút hiện tại. Mình không còn muốn chạy đi tìm gì khác nữa. Người nào trong khi ngồi hay khi đi mà thấy thích thú, mãn ý với giây phút hiện tại là người đó thành công. Mình không còn đi tìm gì nữa.

Thở vào, đi ba bước ta; thở ra, ta đi năm bước: Con đã về / con đã về thật sự
hoặc mỗi bước chân / con đi vào Tịnh độ
hoặc là mỗi bước chân / con trở lại suối nguồn.

Khi ngồi chúng ta cũng có thể nói: Mỗi hơi thở/ con đi vào Tịnh độ
hay là mỗi hơi thở / con trở lại suối nguồn.
Chúng ta đặt ra những câu thiền ngữ mình thích, khi mình dùng câu này, lúc mình dùng câu kia.

Thở vào đi bốn bước, thở ra đi sáu bước ta nói: Đã về đã tới, con đã về con đã tới.

 

 

Có những con đường thiền hành rất đẹp, một con đường đất, hai bờ cỏ xanh và màu đất hồng tươi. Ngày xưa tôi làm một bài thơ tựa là: Cẩn trọng

Qua ngõ vắng
Lá rụng đầy
Tôi theo con đường nhỏ
Đất hồng như môi son bé thơ
Bỗng nhiên tôi cẩn trọng
Từng bước chân đi

Thấy được vẻ đẹp, thấy được sự mầu nhiệm đó, tự nhiên mình tỉnh dậy, mình thấy mình đang sống trong một thế giới hết sức mầu nhiệm, mà nếu tâm bị vướng bận bởi những lo lắng, sầu khổ thì mình sẽ không thể thấy được. Khi tỉnh dậy mình thấy rất quí mỗi giây mà cuộc đời đã cho mình sống. Tôi trân quí từng bước chân đi và trong mỗi bước chân tôi đều có hạnh phúc .

Vì trái đất có lực hấp dẫn (gravity) nên bước chân nào mình cũng phải đi chấm đất, nếu không mình sẽ bay lơ lững trên không. Lực hấp dẫn làm cho bước chân của mình dính vào mặt đất. Với mỗi bước mình dính và tiếp xúc với đất Mẹ tức là mình tiếp xúc được với cội nguồn của mình.

 

Cái nhìn bất nhị

Ý thức của chúng ta có tính cách phân biệt, chia sự vật ra thành từng cặp đối lập. Ví dụ như chúng ta cho tay trái không phải là tay phải và tay trái có thể tồn tại ngoài tay phải, đó là sự phân biệt. Nhưng ta không biết rằng tay trái nương vào tay phải để thành lập. Chúng ta phân biệt tâm và vật, danh thân và sắc thân. Danh thân là tâm, tức là thọ, tưởng, hành, thức của mình của mình. Sắc thân là hình hài của mình. Chúng ta phân biệt một bên là hình hài (sắc) và một bên là tâm lý (danh), danh từ khoa học gọi là psychosoma. Psycho là tâm và soma là vật. Sự thật là tâm không thể có được nếu không có vật, tâm và vật là hai mặt của một thực tại. Không có vật thì không có tâm và không có tâm thì không có vật. Chúng ta phải tập nhìn bằng con mắt bất nhị.

Trong khi đó, khoa học chia thành hai ngành, một nghành chuyên về tâm gọi là tâm lý học và một nghành nghiên cứu về thân gọi là sinh lý học. Thực ra nếu lấy tâm đi thì không có thân và nếu lấy thân ra thì tâm cũng không còn. Thân và tâm dựa vào nhau mà thành lập như tay trái và tay phải, lấy một cái đi thì cái kia cũng không còn. Vì vậy chúng ta phải thấy tâm ở trong vật và vật ở trong tâm, đó gọi là vô phân biệt trí. Có vô phân biệt trí, chúng ta biết tâm và vật nương nhau mà có như trái và phải, như trên và dưới. Có khi vô phân biệt trí còn được gọi là bất nhịtrí (advaya-jñāna) tức tuệ giác không chia chẻ làm hai: trong và ngoài, vật chất và tinh thần.

Hiện nay nhiều nhà khoa học vẫn còn vướng vào ý niệm: tâm thức là cái ở trong và thế giới được nghiên cứu là vật ở ngoài, tức: tâm thức là chủ thể và thế giới khách quan là đối tượng. Khi nào còn sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng, giữa tâm và vật thì vẫn còn sự kỳ thị, phân biệt. Muốn đi được xa, nhà tu cũng như nhà khoa học phải biết sử dụng bất nhị trí hay vô phân biệt trí. Trong lĩnh vực khoa học người ta đã bắt đầu thấy được điều đó. Nếu không buông bỏ sự phân biệt thì khó mà đi vào được sư tìm hiểu về thực tại.

 

 

Dẫm lên đất Mẹ

Khi đi thiền hành chúng ta không chỉ đi bằng thân mà phải đi bằng tâm của mình, gọi là thân tâm nhất như. Miệng (khẩu) của mình cũng phải đi theo, cho nên trong khi thiền hành mình không được nói chuyện. Thân, khẩu, ý hợp nhất gọi là tương ưng. Trong khi dẫm lên mặt đất, chúng ta không thấy đất là vật chất. Cho đất là vật chất tức theo chủ trương duy vật luận. Nếu thấy đất là ý niệm, là tâm như vị cố đạo Berkely thì đó là duy tâm luận. Duy vật luận là một cực đoan và duy tâm luận là một cực đoan khác, căn cứ trên ý niệm vật và tâm là hai cái khác nhau. Nhiều nhà khoa học cho rằng tâm là do vật chất tạo ra, thức là một sản phẩm của não bộ. Khuynh hướng này rất gần với chủ nghĩa duy vật. Nhiều người khác lại cho rằng chính tâm tạo ra vật chất.

Nhưng khi quán chiếu thân, mình thấy rằng hình hài của mình không phải chỉ là vật chất. Trong hình hài có tâm, có cái biết và có sự thông minh của nó. Một tế bào cơ thể là một thực tại linh động có cái tâm trong đó, mà nếu lấy cái tâm đi thì nó trở thành một tế bào chết. Trong cơ thể của chúng ta có hàng tỷ tế bào và mỗi tế bào có sự thông minh, có cái biết rất sâu sắc. Vì vậy nói hình hài chỉ là vật, chỉ là sinh lý là không đúng.

Nhìn vào thế giới, ví dụ như nhìn vào một cọng cỏ hay một cái cây, mình thấy đó không phải là vật chất vô tri, mà nó có cái biết trong đó. Mình không thể nói hạt bắp là vật chất, tại vì trồng hạt bắp xuống đất thì hạt bắp biết nẩy mầm, lên cây, làm lá, làm hoa và làm trái bắp. Như vậy, hạt bắp có cái biết và nói hạt bắp là vật chất là sai. Nhìn trái đất, mình thấy trái đất là một thực tại mầu nhiệm như tế bào trong cơ thể mình. Trái đất có cái biết trong nó. Hành tinh Đất có khả năng hiến tặng và nuôi dưỡng sự sống. Cho rằng hành tinh Đất là một khối vật chất là sai. Với trí bất nhị mình thấy rằng hành tinh Đất không phải là một khối vật chất, tại vì nó có sự thông minh, sự sáng tạo trong đó. Hành tinh này đã sản xuất ra những cái hết sức mầu nhiệm. Loài người là một trong bao nhiêu loài mà hành tinh này đã sản xuất ra. Bụt Thích ca hay Chúa Jésus cũng là con của hành tinh này. Mình và mẹ mình cũng là những đứa con của hành tinh này. Nếu thấy được mình là con của mẹ mình thì cũng thấy được mình và mẹ mình cũng là con của trái đất. Trái đất là một thực tại mầu nhiệm, tuy không phải là con người nhưng trái đất cũng là Mẹ, là đất Mẹ.

Rất nhiều nền văn minh đã nhìn trái đất như một bà mẹ. Nhà sinh vật học Mỹ, Thomas Lewis, viết một cuốn sách về hành tinh trái đất, cuốn sách có tên “The Lives of a Cell“ (sự sống của một tế bào). Trong đó ông nói rằng theo ông thì trái đất giống như một tế bào trong cơ thể con người. Trong trái đất có sự sống, có sự thông minh, tại vì khi nghiên cứu về tế bào trong cơ thể ông thấy mỗi tế bào mầu nhiệm vô cùng. Nhìn trái đất, ông thấy trái đất cũng là một sinh vật biết đau, biết buồn, biết suy tư, có thông minh, có trí tuệ, có tài năng.  Khi đi thiền hành chúng ta phải sử dụng trí bất nhị để thấy, mình đừng cho là mình đang dẫm lên trên vật chất. Mình phải thấy mình đang tiếp xúc với đất mẹ, tại vì đất mẹ là một thực tại rất mầu nhiệm.

 

Trái đất là một vị Bồ tát

Không hẳn là con người mới được gọi là mẹ, mình có thể nhìn trái đất như một vị bồ tát, bồ tát Thanh Lương Đại Địa. Mình có thể chắp tay lại và niệm danh hiệu: Nam mô bồ tát Thanh Lương Đại Địa, tại vì vị bồ tát này là mẹ của muôn loài, có khả năng chuyên chở, nuôi dưỡng và trị liệu. Mỗi khi đau ốm hay đánh mất mình, mình phải trở về lại với bà mẹ này để được nuôi dưỡng và trị liệu

Vì vậy thiền hành là một phương pháp thực tập rất hay để chúng ta có thể trở về tìm sự nuôi dưỡng và trị liệu từ đất mẹ. Tuy không phải dưới hình thức của một con người, nhưng đất mẹ đích thực là một vị bồ tát, tại vì đất mẹ có những đức rất lớn như sự vững chãi, sự kiên nhẫn. Trong kinh Địa tạng có câu: Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng (đất có nghĩa là kiên cố, dày dặn và cất chứa được rất nhiều).

Đất có khả năng nuôi dưỡng, che chở, trị liệu và có khả năng cho ra đời biết bao nhiêu là mầu nhiệm. Nhiều vị Phật và bồ tát đã được đất sinh ra. Chính chúa Ki Tô cũng do đất sinh ra. Mình không biết chúa Ki Tô có phải do Thượng đế sinh ra thật hay không, nhưng mình biết chắc là chúa Ki Tô do trái đất sinh ra. Có những lúc mình lao đao, cô đơn, lạc hướng hay ốm đau thì mình phải trở về tiếp xúc đất Mẹ để được nuôi dưỡng.

Trong khóa tu mùa Đông này, chúng ta nên đưa vị bồ tát đất Mẹ vào trong danh sách đảnh lễ:
Nhất tâm kính lễ bồ tát Thanh Lương Đại Địa,
Mẹ của muôn loài, luôn luôn chở che, nuôi dưỡng và trị liệu cho chúng con.

 

 

Mặt trời cũng là một vị Bồ tát

Mặt trời cũng là một vị bồ tát lớn, là một vị Bụt. Không có mặt trời thì không có ánh sáng, sức nóng và không có sự sống. Mặt trời có tên là “Đại Nhật Như Lai“ (Vairochana Tathagata). Không có mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Chúng ta có thể xướng:
Nhất tâm kính lễ đức Tỳ Lô Giá na Như lai, Bụt Vô lượng thọ, Vô lượng quang
hiến tặng sự sống cho hành tinh đại địa.

Tiếp xúc với những vị bồ tát để được nuôi dưỡng và trị liệu

Đây là những vị Bụt, những vị bồ tát có thật mà mình phải lạy xuống. Những vị đó có ở trong mình chứ không chỉ có ở ngoài mình mà thôi. Đi thiền hành chúng ta phải tiếp xúc được với các vị bồ tát đó. Đất mẹ là một vị bồ tát, mặt trời là một vị bồ tát đã cho chúng ta sự sống và các vị đó không phải ở ngoài ta mà còn ở trong ta. Có được tuệ giác đó thì mình không còn thấy trái đất, mặt trời là vật chất và mình có thể tiếp xúc được thật sự với nó. Khi tiếp xúc được thật sự thì mình sẽ nhận được sự nuôi dưỡng và trị liệu.

Mỗi bước chân là nuôi dưỡng,
mỗi bước chân là trị liệu.

Con người hiện nay bị bệnh rất nhiều, chúng ta phải học cách chữa trị, và đi thiền hành là một trong những phương pháp chữa trị rất hay. Đang ở tại Làng Mai mình phải biết lợi dụng pháp môn thiền hành, tại vì đi thiền hành ở những thành phố lớn như Los Angeles hay thành phố Hồ Chí Minh không sướng chút nào. Ở đây chúng ta có không khí rất trong lành, có cây cối xanh tươi, có những con đường thiền hành rất mầu nhiệm. Vì vậy chúng ta đừng bỏ cơ hội, trong khi đi chúng ta dùng cả thân, khẩu, ý để tiếp xúc với đại đị, với bồ tát Thanh Lượng Địa. Trong đất có sức nóng, có không khí và có nước. Vòng khí quyển bao chung quanh trái đất cũng thuộc về bồ tát Thanh Lương Địa. Đất mẹ đã cho chúng ta nước để uống, không khí để thở; vì vậy đất cũng là nước, là không khí. Lớp ozon phía trên che chở cho chúng ta để những tia phóng xạ độc hại không thể đi vào trong trái đất. Đất mẹ chở che, nuôi dưỡng và trị liệu.

Trong khi đi thiền chúng ta có thể đạt tới những cái thấy rất sâu. Nhìn vào đất mẹ, ta thấy đất mẹ chứa cả tam thiên, đại thiên thế giới, có cả vũ trụ trong đất mẹ. Các nhà khoa học cũng có thể đóng góp cho cái thấy đó, tại vì họ có một vài ý niệm về sự thành lập của trái đất. Họ biết rằng trái đất được làm bằng những yếu tố không phải đất. Các hành tinh khác cũng đã gửi tới cho chúng ta những đóng góp, cũng như một bông hoa được làm bằng những yếu tố không phải hoa. Hành tinh Đất cũng là một bông hoa rất đẹp được làm bằng những yếu tố không phải Địa cầu. Nhìn vào hành tinh Đất mẹ ta thấy được cả vũ trụ. Nhìn vào bông hoa ta thấy cả vũ trụ như đám mây, mặt trời, v.v… Khi bước chân trên trái đất ta thấy đất Mẹ đang có mặt trong mình. Mình và đất mẹ không phải là hai thực tại tách rời nhau.

Trở về đất Mẹ trong từng giây từng phút

Có được tuệ giác đó chúng ta có thể đạt tới “không sợ hãi”, mình thấy mình với đất Mẹ là một. Nếu đất Mẹ đưa mình ra thì đất Mẹ sẽ tiếp nhận mình về, không có gì mất đi, không có sinh không có diệt. Mình không bị kẹt vào ý niệm “một cái ngã“, rồi đặt vấn đề: Sau khi xác thân này tan hoại mình sẽ đi về đâu? Còn hay không còn? Không phải chỉ khi nào xác thân mình tan hoại và những tác dụng tâm lý của mình không còn biểu hiện nữa thì mình mới về đất Mẹ. Sự thật là mình đang về đất Mẹ trong từng giây từng phút. Mỗi khi thở, mỗi khi bước đi là chúng ta đang trở về. Luôn luôn có những “input” và “out put” đang xảy ra, vì vậy chúng ta đừng nghĩ rằng sau khi xác thân tan hoại rồi ta mới trở về. Chúng ta đang trở về và trở ra trong từng giây phút của đời sống hằng ngày.

Tâm mình có thể làm thay đổi cục diện

Tuy đất Mẹ có sự vững chãi, có tài ba, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu nhưng có khi đất Mẹ cũng đau khổ. Cũng như bà mẹ của mình, tuy có rất nhiều tình thương nhưng có khi mẹ cũng đau khổ. Hành tinh Đất cũng có khi đau khổ giống như một bà mẹ, vì vậy có khi có núi lửa phun ra, có khi có bão tố, địa chấn hay hải chấn. Ta rất đau khổ mỗi lần xảy ra như vậy và ta cho đó là vì trời phạt. Nhưng thật ra chúng ta cũng có một phần trách nhiệm về những gì xảy ra cho trái đất.

Ví dụ như trong vùng đất này gần cả năm không có mưa, chúng ta than phiền tại sao đất Mẹ không cho mưa; còn ở Thái Lan thì mưa đến ngập lụt khiến cho 500-600 người chết. Chúng ta trách trời trách đất tại sao bất công như vậy. Đó là tại vì nghiệp, tại hành động của chúng ta đã làm mất đi thế thăng bằng. Hôm trước có một vị đề nghị chúng ta nên gửi năng lượng để cầu mưa cho vùng này. Chúng ta cầu mưa không phải bằng cách hướng về một vị thần ở đâu đó. Tôi nghĩ cầu mưa ở đây cũng rất khoa học: Chúng ta ngồi ở đây như một tăng thân, tập trung tâm ý và gửi năng lượng tập thể cho đất Mẹ. Trong năng lượng tập thể có chất liệu của từ bi, của tuệ giác, ý thức được rằng con người đã làm mất đi cái thăng bằng và có tâm niệm muốn hối cải, muốn sống lành mạnh.

Khi chúng ta ngồi với nhau và gửi năng lượng tới đất Mẹ thì đất Mẹ có thể sắp đặt trở lại để mưa có thể rơi xuống vùng này của trái đất. Chuyện đó có thể xảy ra được. Lực lượng tâm ý của chúng ta cũng là một năng lượng có thể làm thay đổi cục diện. Cầu mưa không phải là mê tín mà có thể rất khoa học, tại vì tâm của mình có thể thay đổi được tình trạng. Tâm mà có từ bi, có tuệ giác, có năng lượng an lành thì tâm có khả năng chữa trị, thay đổi. Nếu tâm có hận thù, bạo động, tuyệt vọng thì sẽ tạo ra những khổ đau trên thế giới.

 

 

Đây là cầu nguyện:

Lạy Mẹ, Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, có những lúc chúng con đau khổ thật nhiều vì thiên tai xảy ra. Chúng con ý thức rằng trong lúc chúng con khổ thì mẹ cũng đang khổ. Có khi chúng con hướng về mẹ và hỏi: Chúng con có thể trông cậy và nương tựa vào mẹ hay không? Nhưng lúc ấy Mẹ không trả lời ngay cho chúng con. Sau đó mẹ nhìn chúng con bằng con mắt xót thương và nói: Cố nhiên là các con có thể nương tựa vào Mẹ, tại vì Mẹ sẽ luôn luôn có mặt đó cho chúng con, nhưng các con cũng nên tự hỏi câu hỏi này: Liệu Mẹ có thể tin tưởng và trông cậy vào các con hay không?

Lạy Mẹ chúng con đã thức nhiều đêm không ngủ vì cái công án đó. Và bây giờ đây với những khuông mặt đầm đìa nước mắt, chúng ta đến quỳ dưới chân Mẹ và dâng lên Mẹ câu trả lời chân thành này: Mẹ từ bi và thánh thiện của chúng con ơi, Mẹ có thể trông cậy và tin tưởng ở chúng con.

Khi đi thiền hành chúng ta cũng thấy được phần trách nhiệm của mình. Mình phải thức dậy, phải biết vai trò của mình và bảo hộ Mẹ chứ mình không thể hoàn toàn chỉ trông cậy ở Mẹ. Mình là một phần của Mẹ, mình là Mẹ. Khi có bất nhị trí, mình sẽ thoát khỏi phiền não như sợ hãi, hận thù, thèm khát và tuyệt vọng. Mình sẽ không gây đổ vỡ hay tàn hại cho chính mình, cho chủng loại khác và cho đất Mẹ.

Quán chiếu về sống chết

 

Đối diện với cái chết

Chúng ta có bài tập:

Thở vào tôi biết tôi đang còn sống
Thở ra tôi mỉm cười với sự sống trong tôi và chung quanh tôi

Bài thực tập này giúp chúng ta có mặt thật sự và tiếp xúc được với sự sống. Theo nguyên tắc, khi thở vào, đem thân trở về với thân, tiếp xúc được với sự thật là ta đang còn sống và sự sống đang có mặt trong ta và chung quanh ta thì sự thực tập chế tác được niềm vui, niềm vui được biết là ta đang còn sống. Ta có tuệ giác là mình phải sống như thế nào cho xứng đáng, để không làm uổng phí sự sống mà mình đã được ban tặng. Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống, ta có niềm vui do ý thức tạo ra.

Nhưng niềm vui nhờ ý thức được rằng mình đang còn sống có hàm chứa sự lo lắng mà mình không muốn đối diện. Mình lo lắng một ngày nào đó mình sẽ phải chết tại vì có sống thì phải có chết. Niềm vui đó có thể không trọn vẹn, mình trận quí sự sống, mình trân quí giây phút hiện tại nhưng phía sau vẫn còn một sự lo lắng nào đó: Ngày mai mình sẽ nằm xuống và thân xác của mình sẽ cứng đơ. Mình không còn thở, không còn cảm xúc, không còn cảm giác nữa, mình không còn suy tư và không còn có mặt trong cuộc đời.

Tuy niềm vui chế tác bởi ý niệm “mình đang còn sống” có mặt thật sự, nhưng phía sau còn lãng vãng một nỗi sợ, một nỗi buồn. Niềm vui đó không được trọn vẹn tại vì mình biết rất rõ đã có sự sống thì thế nào cũng có cái chết, không chết ngay bây giờ nhưng sẽ chết một ngày nào đó. Vì vậy trong đạo Bụt chúng ta có những phép thực tập quán chiếu về cái chết. Đức Thế Tôn nói quán chiếu về cái chết đem lại rất nhiều lợi lạc. Chúng ta sợ cái chết, chúng ta không cảm thấy thoải mái khi nghĩ tới cái chết và ta có khuynh hướng đẩy ý niệm chết ra. Ta không dám đối diện với cái chết, nhưng trong tiềm thức ta biết thế nào ta cũng phải đối diện với nó. Chúng ta có nhiều bài tập quán chiếu về cái chết mà bài tập thông thường nhất là:

Tôi thế nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh khỏi cái chết.

Trong chiều sâu tâm thức của chúng ta có hạt giống sợ chết. Nhưng thay vì trốn chạy hay khỏa lấp nó thì ta đưa nó lên và nhìn thẳng vào nó. Ta đối diện với nỗi sợ của mình, nỗi sợ khi chết phải đi vào hư vô, phải từ lĩnh vực của hữu thể đi vào lĩnh vực của vô thể. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự sợ hãi đó nên bài tập dạy chúng ta: thay vì chạy trốn nó thì ta nâng nó lên cao và nhìn thẳng vào mặt nó. Trụ Vũ có viết một bài thơ:

Tôi đi giữa sa mạc hiu quạnh
Một con gấu bỗng đến vồ tôi
Nhưng tôi nhìn thẳng vào mặt nó
Để mặc cho nó xé nát cho rồi

Nhưng bài thơ của Trụ Vũ có vẻ bi thảm. Đáng lý ra mình phải xé nát con gấu thay vì để con gấu xé nát mình. Cái chết chỉ là một ý niệm, con gấu đó là một con gấu giấy mà không phải là con gấu thật.

Bài thực tập này Bụt đưa ra cho các thầy gồm có năm phần:

1.Thế nào tôi cũng phải già, tôi không thể nào tránh thoát cái già.

    Ta đem cái sợ già lên nhìn và mỉm cười với nó. Người tu phải có can đảm đối trị cái sợ của mình, nếu không nó sẽ âm thầm tàn phá mình, tại vì tiềm thức mình hoạt động ngày đêm và nó chi phối cách suy tư, cách nói năng, cách hành động của mình mỗi ngày.

    Phương pháp của đạo Bụt là không trốn chạy mà phải đem cái sợ lên mà nhìn cho kỹ, trước hết là nhìn cái già của mình: mình thế nào cũng phải già, mình còng lưng xuống chống gậy và đi những bước run rẩy.

    2.Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào thoát khỏi bệnh.

      Trước khi chết thế nào mình cũng phải bệnh, không bệnh này thì bệnh khác. Mình rất sợ giờ phút mình nằm trên giường bệnh, bác sĩ chăm sóc cho mình bớt đau nhức. Khi mình trực tiếp nhìn vào mặt của cái bệnh thì nó sẽ không ở bên dưới thầm thầm chi phối mình nữa.

      3.Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thế bào tránh khỏi cái chết.

      4.Những gì tôi trân quí hôm nay như địa vị, bằng cấp, danh vọng, tài sản, những người thương thì đến giờ phút đó tôi đều phải buông bỏ, tôi không đem theo được gì hết.

        Mình phải thấy được sự thật đó. Có những người chết rất khó tại vì họ không buông bỏ được. Chúng ta học quán chiếu để buông bỏ ngay từ bây giờ.

        5.Cái mà tôi đem theo là tất cả hành động của tôi. Những gì, tôi nghĩ, những gì tôi nói, những gì tôi làm sẽ không mất đi, tôi sẽ đem chúng theo và hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng nó.

          Những tư duy của tôi, những lời nói, những hành động của tôi (hoặc lành hoặc dữ) đều mang chữ ký của tôi. Tôi không thể nào chối là tôi đã không nghĩ, không nói, không làm như vậy. Đó là những nghiệp mà tôi đã tạo ra trong đời này và nó sẽ đi theo tôi.

          Đức Thế Tôn đã dạy các thầy, các sư cô quán chiếu như vậy với mục đích là cho chúng ta cơ hội đưa cái sợ lên, nhìn thẳng vào mặt nó để làm cho nó yếu bớt đi, không cho nó âm thầm chi phối những tư tưởng, những ngôn ngữ hay những hành động của mình trong đời sống hằng ngày. Chúng ta nên có một bài tập nữa để bổ túc cho bài tập”Thở vào tôi biết đang còn sống, thở ra tôi ăn mừng sự sống”.

          Thở vào, tôi biết ngày nào đó tôi sẽ chết và tôi sẽ không đem theo được gì ngoài hành động (karma) của tôi mà thôi.

          Bài tập thứ hai này không dễ chịu bằng bài tập thứ nhất nhưng nếu mình biết thực tập thì bài tập thứ nhất sẽ đem lại cho mình hạnh phúc nhiều hơn. Đức Thế Tôn có nói: nếu chúng ta quán chiếu được về cái chết thì công đức sẽ vô lượng. Theo tiêu chuẩn ngoài đời, một người đang còn trẻ mà quán chiếu về cái chết thì không lành mạnh (morbide). Nhưng sự thật thì ngược lại, nếu quán chiếu và thấy được bản chất của cái chết thì ta sẽ trân quí sự sống và ta sẽ sống sâu sắc và hạnh phúc hơn nhiều.

          Đức Khổng Tử nói: Mình chưa biết xử lý sự sống thì làm sao mà xử lý được cái chết? (Vị năng sự sinh, yên năng sự tử?). Nhưng nếu mình quán chiếu và có được một cái thấy chính xác về cái chết thì lúc đó mình sống mới thật là sống, tại vì cái sống và cái chết nương vào nhau mà có.

          Quán chiếu về không sinh không diệt

          Đứng về phương diện tích môn thì có sống và chết, có sinh và diệt; nhưng đứng về phương diện bản môn thì không có sinh, không có diệt. Quán chiếu về chết và sống rồi, mình có thể đi tới bước thứ hai là quán chiếu về không sinh không diệt.

          Khoa học hiện đại đang vật lộn với quan niệm sống-chết, có-không và khoa học đã khám phá ra nhiều điều tương đương với tuệ giác của đạo Bụt. Lavoisier đã nói: Không có gì sinh cũng không có gì diệt (Rien ne se crée, rien ne se perd). Khoa học đã nêu ra luật bảo tồn năng lượng và luật bảo tồn vật chất (la loi de la conservation de l’énergie, la loi de la conservation de la matière). Các nhà khoa học nhìn vào vật chất, nhìn vào năng lượng và thấy rằng: bản chất của vật chất cũng như của năng lượng là không sinh không diệt. Chúng ta không thể nào làm ra vật chất mới, làm cho vật chất từ có mà trở thành không. Chúng ta cũng không thể nào tạo ra năng lượng mới hay làm cho năng lượng từ có mà trở thành không. Đó lá cái thấy của những nhà khoa học.

          Lavoisier nói: Không có gì sinh, không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến (Rien ne se crée, rien ne se perd, tout se transforme). Tất cả đều biến đổi, mà biến đổi khác với sinh diệt. Sinh là từ không mà trở thành có, diệt là từ có mà trở thành không, còn chuyển biến là thay đổi mà thôi. Vì vậy cái thấy của Lavoisier rất sâu sắc, ông đã khám phá ra sự thật là các pháp không sinh cũng không diệt, các pháp là vô thường chuyển biến. Nhưng không biết Lavoisier có áp dụng được cái thấy đó vào trong đời sống của ông hay không? Năm 51 hay 52 tuổi thì ông bị lên máy chém. Vợ của Lavoisier rất dễ thương, ông đã cưới cô lúc cô chưa được 14 tuổi. Cô rất xinh đẹp và yêu chồng, cô nguyện học tiếng Anh để dịch những tác phẩm khoa học của các nước cho chồng tham khảo và cô cũng trở thành một nhà khoa học. Nhưng sau cuộc cách mạng Pháp thì Lavoisier và ông bố vợ đều bị lên máy chém.

          Tôi đặt câu hỏi là khi lên máy chém Lavoisier có áp dụng được cái thấy bất sinh bất diệt hay không? Chính Lavoisier đã nói rằng không có gì sinh cũng không có gì diệt và nếu quả thật Lavoisier có cái thấy đó như một tuệ giác sống mà không phải là lý thuyết thì khi lên máy chém ông có thể mỉm cười được. Cái thấy của Lavoisier và cả Lavoisier vẫn còn tiếp tục cho tới bây giờ, Lavoisier đang có mặt trong thiền đường này ngày hôm nay, Lavoisier không chết được. Cũng như đám mây trên trời, đám mây không chết khi trở thành mưa, nó chỉ tiếp tục dưới hình thức của cơn mưa. Những khám phá của khoa học không những chỉ được áp dụng vào lĩnh vực kỹ thuật mà còn phải được áp dụng vào đời sống tâm linh và đời sống tình cảm của con người. Vì vậy nhà khoa học phải nắm tay với nhà Phật học tại vì hai bên khám phá ra những điều tương đương với nhau rất hay.

          Không có cũng không không

          Nếu đã không có sinh, không có diệt thì cũng không có có, không có không tại vì sinh là từ không mà trở thành có và diệt là từ có mà trở thành không. Đã đạt tới không sinh không diệt, nhưng khoa học không chấp nhận được là đã không sinh không diệt thì cũng không có không không. Nhiều nhà khoa học vẫn còn kẹt vài ý niệm có và không. Theo nguyên tắc thì nếu đã chấp nhận sự thật là không sinh cũng không diệt thì cũng phải chấp nhận luôn sự thật là không có cũng không không. Chúng ta không thể nói rằng vũ trụ bây giờ đang có và mai mốt nó sẽ trở thành không, hay là vũ trụ bây giờ đang có nhưng trước khi có nó đã là không. Nếu chấp nhận sự thật đó khoa học sẽ không đi tìm giây phút đầu tiên, giây phút mà vũ trụ từ không trở thành có gọi là Big Bang, và một khi đã có Bia Bang thì khoa học phải tưởng tượng ra ngày nào đó vũ trụ sẽ bị tiêu diệt gọi là Big Crunch.

          Là nhà Phật học mình phải nói với nhà khoa học: Nếu đã chấp nhận không sinh không diệt rồi thì phải tiến tới một bước nữa là chấp nhận không có cũng không không, phải thoát ra ý niệm being và non-being. Đối với nhà thần học cũng vậy, nếu đã làm việc với nhà Phật học và nhà khoa học thì nhà thần học cũng phải chấp nhận điều đó. Định nghĩa Thượng đế là nền tảng của hữu thể (the ground of being) là còn kẹt vào ý niệm có và không. Nếu Thượng đế là nền tảng của cái có thì ai là nền tảng của cái không? Thượng đế phải thoát ra ý niệm có và không, cho nên đặt vấn đề Thượng đế có hay không có là vô nghĩa. Chúng ta không thể gán cho Thượng đế ý niệm có và không hay sinh và diệt, tại vì ta không thể gán niệm có và không hay sinh và diệt cho một đám mây hay một năng lượng thì làm sao mà ta có thể gán nó cho Thượng đế? Ta đừng cho rằng Thượng đế đứng về phe hữu thể và Satan đứng về phe vô thể, tại vì nếu như vậy thì Thượng không phải là tất cả, Thượng đế có kẻ thù là Satan cũng như hữu thể là kẻ thù của vô thể. Hữu và vô là hai ý niệm cũng như hai ý niệm sinh và diệt.

          Sống và chết tương tức

          Chúng ta thử vạch một đường tượng trưng cho thời gian từ quá khứ đi tới hiện tại, và tương lai.

          Mình ngồi ở điểm hiện tại và nói:

          Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống

          Điều đó có nghĩa là tôi bắt đầu sống ở điểm sinh ra và sẽ tiếp tục sống cho đến điểm chết đi. Khi nói như vậy thì phía sau mình có một niềm đau, một sự lo lắng cho nên niềm vui không được trọn vẹn. Vì vậy ngồi ở giây phút hiện tại chúng ta làm thêm một bài tập:

          Thở vào tôi biết tới lúc nào đó tôi cũng phải chết

          Tôi từ vô thể mà đi vào hữu thể, rồi tới điểm chết tức là tôi sẽ từ hữu thể mà đi vào vô thể, đó là cái thấy của chúng ta. Cái thấy đó đưa tới sự lo lắng, nó nằm như một khối trong tiềm thức và chi phối đời sống của mình. Mình đẩy, mình chạy trốn, mình khỏa lấp cái sợ đó, nhưng nó vẫn còn đó, tại vì sự thật là hễ có sinh thì có tử, không có tử thì không có sinh. Mình cứ tưởng có  một cái sinh ra trước, rồi lâu lắm thì cái kia mới sinh ra. Điều này không đúng tại vì sinh và tử có mặt cùng một lần, chúng đi sát với nhau như một cặp bài trùng và có mặt ngay bây giờ chứ không đợi đến một trăm năm sau. Cũng như bên trái và bên trái, không phải là bên trái có trước và saư đó bên trái mới sinh ra, hễ có trái thì có phải ngay lúc đó. Phải làm nền tảng cho trái xuất hiện và trái làm nền tảng cho phải xuất hiện, phải và trái sinh ra cùng một thời, không có cái này thì không có cái kia. Phải và trái tương tức (inter-being), đó gọi là câu hữu (co-being), tiếng Phạn là sahabhu, bhu là có mặt (hữu), saha là cùng nhau. Cái có không thể có mặt một mình, cái có phải cùng có mặt với cái không. Cái sinh không thể có mặt một mình, cái sinh phải cùng có mặt với cái tử.

          Tất cả những gì chúng ta thấy và tiếp xúc hằng ngày cũng đều như vậy. Trong và ngoài cùng xuất hiện một lần, cha và con cùng xuất hiện một lần. Trước khi con anh sinh ra thì anh không được gọi là cha, anh chỉ được gọi là cha khi con của anh sinh ra mà thôi. Có con thì mới có cha, có cha thì mới có con, con và cha tương tức. Cha dựa trên con mà con và con cũng dựa trên cha mà có. Phật là người giác ngộ và chúng sanh là người mê lầm, nhưng có chúng sanh mới có Phật và có Phật mới có chúng sanh. Phật và chúng sanh đi đôi với nhau, chúng ta đừng nên chọn một cái và vứt cái kia đi. Hạnh phúc và khổ đau cũng như vậy, đó là hai mặt của một thực tại. Hạnh phúc dựa trên khổ đau mà có và khổ đau dựa trên hạnh phúc mà có, vì vậy chạy trốn khổ đau và đi tìm hạnh phúc là một chuyện rất buồn cười. Giải thoát có nghĩa ngược lại với triền phược, nhưng nếu không có triền phược thì làm gì có giải thoát và không có giải thoát thì làm gì có triền phược? Giải thoát và triền phược tương tức, câu hữu.

          Theo nguyên tắc, mình sinh ra lúc 0 hay 1 tuổi và chết đi lúc 100 tuổi, nhưng mình có thể chết đi bất cứ lúc nào. Giữa sinh và tử không có khoảng cách mà chúng dính vào nhau như mặt trái và mặt phải của một tờ giấy. Chúng ta thấy rất rõ nếu không có mặt trái thì không có mặt phải và ngược lại. Trái và phải, trên và dưới sinh ra cùng một lần. Đó gọi là tương tức.

          Chúng ta đừng nên nghĩ rằng sự sống có mặt bây giờ và cái chết sẽ đến trong tương lai. Khi đi từ Boston tới New York chúng ta nghĩ có Boston và có New York, ta phải lái xe mấy giờ đồng hồ mới từ Boston tới New York. Nhưng trong mỗi bước chân của mình, bước chân nào cũng có Boston và New York. Mình đang hướng về New York và quay lưng về Boston, nhưng Boston và New York có ngay ở đây mà không phải chỉ có ở hai đầu mà thôi.

          Cái chết và cái sống cũng vậy, nó không bị ngăn cách bởi một khoảng thời gian và không gian, nó có mặt ngay trong hiện tại, nó gần với nhau hơn là bề mặt và bề trái của tờ giấy. Không có cái chết thì không thể nào có sự sống, không có diệt thì không thể nào có sinh.

          Các nhà khoa học cũng tìm ra được điều đó. Họ thấy rõ ràng trong cơ thể của mình lúc nào cũng đều có cái chết đang xẩy ra. Trong lĩnh vực sinh học cũng như trong lĩnh vực lượng tử, cái gọi là vô thường (transformation) đạt tới trình độ cao nhất. Nhìn vào trong cơ thể của mình chúng ta thấy trong mỗi giây phút có hàng triệu tế bào chết đi và có hàng triệu tế bào sinh ra, và cái sống cùng cái chết dựa vào nhau mà có. Nếu những tế bào kia không chết đi thì những tế bào này không sinh ra, sinh dựa vào tử và tử dựa vào sinh. Nếu nhìn bằng kính hiển vi thì ta sẽ thấy bề dày của tờ giấy còn lớn hơn nhiều so với khoảng cách giữa sinh và diệt trong một giây phút, tại vì khoa học hiện nay đã chứng thực được rằng cái chết và cái sống cùng phát hiện trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày.

          Hàng triệu tế bào đang chết mà mình không đau buồn và hàng triệu tế bào đang sinh ra mà mình cũng không vui mừng. Thông thường nếu có một người chết thì mình làm đám ma, nhưng trong giây phút hiện tại có hàng triệu tế bào chết mà mình không có thì giờ để  làm đám ma cho từng tế bào, và có hàng triệu tế bào mới sinh ra mà mình không có thì giờ để ăn mừng ngày ra đời của chúng. Sự sống chết đang nương vào nhau và xẩy ra ngay bây giờ thì tại sao mình lại phải sợ chết? Mình sợ  tại vì mình có cái thấy lệch lạc, mình lấy lưỡi dao ý niệm để tách sự thật ra làm hai phần, một bên là sự sống và một bên là cái chết; bên này là hình hài nhảy múa, cười đùa, ăn uống và bên này là thân thể cứng đơ không có suy tư. Mình cho là mình đang ở bên sự sống, nhưng thật ra là cái sống đang ở bên cái chết và cái chết đang ở bên cái sống. Sống và chết tương tức với nhau.

          Niết bàn: Tuệ giác vượt thoát ý niệm sống và chết, có và không

          Quán chiếu bài tập đến câu thứ năm chúng ta thấy: Những gì mà tôi đem theo khi xác thân này tan hoại chỉ là những hành động của tôi. Tất cả những gì tôi chế tác bằng năm uẩn của tôi tức tư tưởng, lời nói và hành động đều mang chữ ký của tôi và khi tôi chết thì chúng nó sẽ đi theo tôi.

          Đứng về phương diện khoa học thì không có gì mất đi, không có cái chết. Đám mây trên không thể chết, nó không thể nào từ hữu thể mà trở thành vô thể. Khi trở thành mưa thì tất cả đám mây đều nằm trong mưa, nó không mất đi một nguyên tử nào. Khi thí nghiệm một phản ứng hoá học, chúng ta chế chất này vào trong chất kia thì phản ứng hóa học có thể cho chúng ta có cảm tưởng là có một chất gì đó mất đi và một chất gì đó hiện ra. Nhưng nhìn cho kỹ thì các nhà khoa học thấy rằng tất cả những nguyên tử đi vào phản ứng vẫn còn nguyên khi đi ra khỏi phản ứng hóa học, không có gì cũ bị mất đi và không có gì mới được tạo nên.

          Trong Thất Ngồi Yên của tôi có ống kính vạn hoa (kaleidoscope) rất đẹp. Nhìn vào, mình thấy một hệ thống hình ảnh và màu sắc tuyệt vời. Chỉ cần xoay một cái là mình có hình ảnh mới đẹp tương đương, có khi còn đẹp hơn hình ảnh cũ. Không có hình ảnh nào giống hình ảnh nào, nhưng hình ảnh nào cũng đều tuyệt vời. Những hình ảnh thay đổi, nhưng không có gì mất đi, không có gì sinh ra và mình không có thương tiếc tại vì hình ảnh này tiếp nối hình ảnh kia rất đẹp. Không có gì thêm vô, không có gì mất đi, tất cả đều chuyển biến. Đám mây trên trời đẹp thật, nhưng khi trở thành mưa thì nó cũng đẹp. Tất cả những gì có trong đám mây bây giờ đều có mặt trong cơn mưa. Đó gọi là bảo tồn (conservation). Nếu nghĩ chết là không còn gì nữa thì rất sai lầm. Nhìn cho kỹ thì không có cái sinh, không có cái tử. Chúng ta phải sử dụng tuệ giác đó, và ngay chính trong khoa học cũng phải áp dụng tuệ giác đó. Thấy được không sinh không tử mình sẽ giải quyết được vấn đề sợ hãi, tại vì sự sợ hãi là gánh nặng nhất của con người.

          Bông hoa hay con chim kia đang sống, nhưng chúng không có nỗi sợ hãi đó. Con người phải trả cái giá văn minh của mình bằng nỗi lo sợ phập phồng về cái chết và về cái vô thể.  Vì thế  sự quán chiếu giúp con người vượt thoát ý niệm có và không, sống và chết. Khi khi vượt khỏi ý niệm có và không, sống và chết rồi thì nỗi lo sợ của mình sẽ không còn và mình có được niềm vui thật sự. Mục đích cao nhất của người tu là đạt tới Niết bàn. Niết bàn là tuệ giác, là cái thấy vượt thoát ý niệm có và không, sống và chết. Nhưng Niết bàn không phải là cái gì xa lắc xa lơ, Niết bàn nằm trong những cái mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày như đám mây kia. Đám mây thuộc về thế giới hiện tượng; quán sát nó mình thấy nó có khi có có khi không, có khi sinh có khi diệt. Nhưng nhìn kỹ bản chất của đám mây, mình thấy tự tính của nó là không sinh không diệt, không có không không. Khoa học cũng có thể làm được điều đó. Đám mây không cần phải đi tìm cái không sinh không diệt, không có không không tại vì nó đang ở trong đó rồi. Có, không, sinh, diệt chỉ là ý niệm của mình. Không những đám mây mà tất cả vạn vật đều như vậy.

          Chúng ta hãy tưởng tượng có một đám mây mà 50% biến thành mưa và 50% vẫn còn bay lơ lững trên trời. Một nửa đám mây nhìn xuống và nhìn thấy một nửa của nó đã trở thành dòng nước. Nó nhận ra được dòng nước đó là sự tiếp nối của mình, nó thấy nó bay ở trên cũng vui mà nó trôi chảy ở dưới cũng vui. Nó chào phân nửa của nó ở dưới: Hello, you are half of me down there, I go join you very soon. Đám mây không có sợ hãi, nó biết bản chất của nó là không có không không, không sinh không diệt. Chỉ có sự biến chuyển mà không có sự sinh diệt. Đám mây không có sự lo lắng của con người.

          Niết bàn không phải là cái mình đi tìm. Mình đang ở trong Niết bàn tức trong thể tính không sinh không diệt, không có không không của mình. Cũng như đợt sóng kia đang sợ hãi vì sự lên xuống, có không; nhưng khi đợt sóng biết mình là nước rồi thì nó không còn sợ hãi nữa, đi lên nó cũng vui mà đi xuống nó cũng vui. Nó không cần phải đi tìm nước, nó đã là nước rồi. Niết bàn cũng vậy, Niết bàn không phải là trạng thái tâm lý hay nơi chốn mà mình phải đi tìm. Niết bàn là bản chất của mình, mình đang ở trong Niết bàn. Chúng ta nói “nhập Niết bàn”, như vậy có nghĩa là mình ở ngoài và mình đi vô Niết bàn. Điều này không đúng, nói như vậy giống như mình là một cái khác, Niết bàn là một cái khác và mình đi vô Niết bàn. Mình đang ở trong Niết bàn thì cần gì phải nhập Niết bàn. Niết bàn nằm ở đâu? Niết bàn nằm ngay ở chỗ sinh tử. Đi tìm nước ở đâu? Tìm ngay ở sóng. Trong sóng có nước, trong sinh tử có Niết bàn. Nhìn bề ngoài, đám mây có sinh, có tử; nhưng trong bề sâu đám mây không có sinh, không có tử.

           

           

          Địa xúc – tuệ giác vô ngã

          Tiếp xúc với tự tính vô ngã

          Vô ngã là một cái định (concentration) mà không phải là triết học hay ý niệm. Nếu chỉ sử dụng trí năng thì chúng ta sẽ không chứng đạt được vô ngã. Phải thực tập định thì ta mới chứng được vô ngã, tại vì có thể ta nói về vô ngã rất hay nhưng cái ngã của ta vẫn còn rất lớn. Cái ngã càng lớn thì ta càng đau khổ và càng làm cho những người khác đau khổ. Vấn đề không phải là nói về vô ngã mà ta phải thực tập như thế nào để vượt thoát được ý niệm về ngã.

          Trong khi thực tập địa xúc (thiền lạy), chúng ta quán tưởng tới đất Mẹ. Chúng ta nhắc lại lúc Bụt Thích Ca sắp thành đạo. Ngài có linh cảm rằng trong 24 giờ đồng hồ nữa thì Ngài sẽ đạt được đạo nên Ngài rất phấn khởi. Lúc đó ma vương Ba Tuần hiện ra nói với Ngài:

          • Ông có chắc là trong 24 giờ đồng hồ nữa ông sẽ chứng đạo không? Ông đừng nên lạc quan nhiều như vậy. Ai sẽ làm chứng là ông đã làm được chuyện đó? Làm sao mà ông đạt được đạo? Thế giới nằm dưới quyền của tôi, quyền của u mê, quên lãng. Làm sao ông có thể vượt thoát ra sự kiểm soát của tôi?

          Bụt làm ấn địa xúc, dùng tay trái sờ vào đất Mẹ và nói:

          • Có đất này làm chứng cho tôi là tôi đã từng thành công và tôi sẽ thành công trong 24 giờ đồng hồ nữa.

          Khi được Siddharta chạm tới thì đất Mẹ đã rung động bảy lần. Ma vương biết mình đã thua liền biến mất. Trong khi thực tập địa xúc chúng ta biết Đức Thế Tôn đã thành đạo nhiều lần trên trái đất này. Ngày xưa đức Konāgamana (Câu Na Hàm Nâu Ni) cũng là Bụt. Ngày mai khi đức Di Lặc ra đời thì cũng là Bụt. Đất Mẹ vẫn tiếp tục cho ra những vị Bụt. Thấy được điều đó ta sẽ quay về nương tựa nơi đất Mẹ. Ta sẽ không bao giờ chết, ta luôn luôn trở về đất Mẹ và ta sẽ được đất Mẹ đưa ra trở lại cho tới khi ta có thể thành công được như Đức Thế Tôn, thầy của chúng ta.

          Nguồn: An cư kết đông 2013-2014 tại Làng Mai, Pháp

          Sau khi quán tưởng, đại chúng thực tập địa xúc ba lần. Mỗi khi tôi thực tập địa xúc, hoặc một mình hoặc cùng với đại chúng, lúc chắp tay lạy, trong quá trình năm vóc gieo xuống, tôi luôn quán tưởng rằng đây không phải là một cá nhân đang lạy xuống mà là cả một dòng họ, một đất nước, một dòng tâm linh và huyết thống đang lạy xuống. Và trong suốt thời gian gieo xuống năm vóc như vậy thì mình được giải thoát, giải thoát ra khỏi ý niệm mình là một cái ta riêng biệt tách rời. Sự thật thì chúng ta không có một cái ta riêng biệt. Nhìn vào năm uẩn tôi thấy sự có mặt của cha mẹ, của ông bà tổ tiên tâm linh và huyết thống, tôi thấy đại chúng và tôi cùng lạy xuống như một tập thể, như một dòng họ, như một truyền thống. Tôi không lạy xuống như một cá nhân riêng lẻ.

          Chỉ cần có một chút niệm và định thì ta thấy được, tức là ta có tuệ. Trong khi gieo năm vóc xuống mà có niệm, định và tuệ thì ta trở thành một con người tự do, ta không còn bị tư tưởng về cái ngã khống chế nữa. Định lực “không có cái ngã“ có mặt trong suốt thời gian gieo xuống năm vóc. Khi trán tiếp xúc với đất thì ta cũng tiếp xúc luôn với tổ tiên tâm linh, với các vị Bụt và các vị Bồ tát. Mấy năm nay tôi thường quán chiếu:

          Chúng con (tăng thân xuất sĩ, cư sĩ và cả dòng họ, ông bà, tổ tiên) xin Tam bảo (Bụt, Pháp và Tăng) gia hộ cho chúng con có đủ sức mạnh, đủ kiên nhẫn để vực dậy một nền đạo lý toàn cầu ứng dụng để làm cho thế gian này bớt khổ.

          Đây không phải là lời nguyện của một người mà là lời nguyện của cả tăng thân, dòng họ. Ta được tuệ giác vô ngã tiếp tục soi sáng trong thời gian ta thở ba hơi thở vào và ra. Theo sự thực tập của Làng Mai thì trong khi năm vóc lạy xuống, ta thở vào và thở ra ba lần. Vị tri chung phải để cho đại chúng đủ thì giờ để thở vào và thở ra ba lần trong khi quán chiếu. Trong khi thở vào và thở ra ba lần, ta duy trì được định vô ngã. Ta thấy ta cũng là dòng họ, là tổ tiên tâm linh huyết thống, là cả một đất nước mà không phải là một cá nhân.

          Khi nghe tiếng chuông nhấp thì ta đứng dậy, không phải với tư cách một người mà ta đứng dậy với tư cách của tăng thân, của dòng họ quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi hy vọng đại chúng cũng thực tập địa xúc như vậy.

          Khi nhìn một người, người đó có thể là sư anh, sư chị, sư em của ta, một thiền sinh cư sĩ hay một em bé, ta cũng phải thực tập nhìn với tuệ giác vô ngã. Ta không nhìn người đó như một cá nhân đơn độc tách rời mà ta phải thấy được cả dòng họ của người đó. Sự thật người đó không phải là một cá nhân biệt lập. Trong người đó có tất cả tổ tiên huyết thống và tâm linh, không chỉ tổ tiên loài người mà còn có các loài khác, tại vì các loài khác đã có mặt trước khi loài người xuất hiện. Trước khi có loài động vật thì đã có các loài thực vật và khoáng vật. Vì vậy ta có tổ tiên loài người, nhưng ta cũng có tổ tiên động vật, thực vật và khoáng vật. Nhìn một người ta phải thấy cả quá trình tiến hóa của sự sống. Ta thấy được lịch sử của sự sống trong con người đó. Người đó từ khoáng, từ khí, từ sương, từ cây cỏ, từ động vật mà trở thành con người homo sapiens. Thấy được như vậy thì ta mới thấy được người đó, nếu chưa thấy như vậy thì ta chưa thấy được người đó. Thấy được người đó là thấy được tính vô ngã của người đó. Người đó có đức hạnh, tài năng nhưng cũng có những khiếm khuyết và những tật xấu. Đức hạnh, tài năng hay khiếm khuyết, tật xấu không phải là của người đó mà là của cả một dòng tiếp nối. Thấy được như vậy là ta thấy được người đó, nếu không thì ta chỉ có ảo tưởng về người đó mà thôi.

          Khi thương một người ta nghĩ là ta đã biết người đó là ai và ta đã nắm được người đó rồi. Ta đã lầm, ta chưa biết gì nhiều về người đó đâu, ta bị hình thức bên ngoài của người đó làm chóa mắt. Khi thương một người ta phải thực tập, ta phải thấy rằng người này là một mầu nhiệm mà ta chưa biết rõ được. Ta chỉ có một quan niệm, một cái thấy rất cạn cợt về người này mà thôi. Ta phải quán chiếu theo lời Bụt dạy thì mới thật sự thấy được người này. Ta phải thấy cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên huyết thống và tâm linh, thấy quá trình lịch sử diễn biến trong sự sống thì ta mới thấy được người đó. Nếu thấy được như vậy thì ta cũng thấy được ta ở trong người đó.

          Cũng như một vị tổng thống tiếp nhận một vị đại sứ mới, viên đại sứ khi mới tới phải gặp tổng thống hoặc vua hoặc thủ tướng để trình ủy nhiệm thư, vị tổng thống không nhìn viên đại sứ với tư cách của một cá nhân mà phải thấy viên đại sứ là đại diện cho cả một nước, một dân tộc, một quốc gia. Nói với người đó một câu là nói với cả đất nước, dân tộc của người đó. Trách cứ người đó một câu là trách cứ cả dân tộc, đất nước của người đó.

          Khi nhìn một người, dù người đó là người ta thương hay là người ta không thương thì ta cũng đừng nhìn người đó với tư cách một cá nhân đơn độc, lẻ loi. Ta phải thấy trong người đó, sau lưng người đó là cả một dòng họ, một đất nước với tất cả những cái hay, cái tốt và cái yếu kém của họ. Nhìn như vậy là thấy được cái vô ngã trong người đó. Người ta thương ta phải nhìn như vậy mà người ta giận ta cũng phải nhìn như vậy. Nếu nhìn được sâu thì ta sẽ thấy rõ ràng là ta đang ở trong người đó và người đó cũng đang ở trong ta. Ví dụ như bông hoa này, ta nghĩ là ta đã biết bông hoa này rồi. Nhưng nhìn kỹ thì ta thấy trong bông hoa có đám mây, mặt trời, đại địa, v.v. Ta đã nhìn kỹ mảnh đất nuôi bông hoa hay chưa? Nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy trong đất có xương của các loài động vật, những loài thực vật và cũng có thể có xương của ông bà tổ tiên và cả xương của mình. Có thể trong kiếp trước ta đã sống và xương thịt của ta đã tiêu hoại thành đất. Nhìn bông hoa, không những ta thấy tổ tiên ta mà ta còn thấy ngay cả ta trong đó. Ta có trong hoa và hoa có trong ta. Ta đã dùng thực vật làm thức ăn, ta đã ăn trái, ăn lá và ăn cả hoa. Thấy được như vậy thì ta mới thật sự thấy được bông hoa, thấy được người kia, có nghĩa là thấy trong tuệ giác vô ngã.

          Vậy từ nay, khi gặp người thương hay người ta đang giận thì ta hãy nhìn họ với con mắt của niệm, định và tuệ, ta sẽ thấy cái thương ghét của ta được thay đổi. Ta sẽ được giải thoát nhờ tuệ giác vô ngã.

          Hình hài là một cộng đồng

          Trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ta phải quán chiếu để thấy hình hài ta là hình hài của tổ tiên và con cháu. Phải thấy rằng ta chính là một cộng đồng của cả hàng trăm tỷ các tế bào trong cơ thể đang cùng chung sống. Không chỉ là tế bào của con người mà còn là tế bào của hàng tỷ sinh vật đơn tế bào khác đang sống chung trong cơ thể, nhất là trong hệ thống tiêu hóa của ta có nhiều loài vi sinh rất cần thiết cho sự sống của cơ thể.

          Mỗi khi nhìn vào một người đang ngồi trước mặt hoặc đang từ xa đi tới, ta cũng có thể quán chiếu để thấy được người đó không phải chỉ là một cá nhân, mà người đó đại diện cho cả một dòng họ, một đất nước và một dân tộc. Thấy được như thế thì ta mới thực sự thấy được những tài năng của người ấy, những tài năng mà tổ tiên người ấy đã trao truyền cho người ấy mà nhiều khi chính người ấy cũng không nhận diện được. Thấy được như thế ta mới có thể giúp cho người ấy vượt thoát khỏi mọi mặc cảm, trong đó có mặc cảm thua người, hơn người hoặc bằng người. Thực tập nhìn ta và nhìn người như thế, ta có cơ hội chứng đạt được chân lý vô thường và vô ngã. Vô thường và vô ngã không còn là những ý niệm để học hỏi nữa mà đã trở thành tuệ giác đích thực có thể giải phóng cho ta và cho người.

          ************************

          Về sự thực tập địa xúc (thiền lạy), đại chúng được nhắc nhở là mỗi khi lễ lạy, ta không nên chỉ lạy xuống với tư cách một cá nhân mà nên lạy xuống như một dòng chảy có đầy đủ tổ tiên và con cháu của cả hai dòng tâm linh và huyết thống. Như vậy trong khi lạy, mình tiếp xúc được tự tính vô ngã trong thân tâm mình. Khi đi cũng vậy, mình có thể quán chiếu là mình bước đi một lần và với tất cả tổ tiên và con cháu tâm linh và huyết thống. Ta có thể đi bằng chân của Bụt, của Tổ, của ông bà, cha mẹ và con cháu chúng ta. Ta có thể bước như thế nào để tất cả dòng họ đều được tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, để tất cả được nuôi nấng và trị liệu trong từng bước chân. Sáng nào, sau khi ngồi thiền, đại chúng cũng có thực tập địa xúc, sử dụng Sám Pháp Địa Xúc và lạy xuống trong tuệ giác vô ngã.

           

          Đi tìm ý nghĩa của đời sống

          Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng đi tìm cho mình một ý nghĩa của đời sống. Người chưa tìm ra được một ý nghĩa cho đời sống thì chưa có hạnh phúc, chưa có năng lượng. Nếu không khéo thì người đó có thể rơi vào tình trạng trống rỗng hiện sinh (existential vacuum). Tình trạng trống rỗng đó buộc con người phải đi tìm một cái gì đó để khỏa lấp. Thường thì người ta đi tìm nơi đối tượng của dục. Có người tìm quên nơi rượu, có người sử dụng ma túy, có người tìm trong âm nhạc, trong những cuộc vui thâu đêm, cũng có người tìm nơi sắc dục để khỏa lấp sự trống rỗng trong lòng.

          Vào khoảng năm 1965, trong một cuộc thăm dò người ta thấy rằng ở châu Âu số lượng sinh viên có được một chủ đích sống trong cuộc đời lên tới 60 – 65%, trong khi số lượng sinh viên ở Mỹ chỉ có hơn 20%. Sự kiện “trống rỗng hiện sinh” là một triệu chứng của thời đại. Đó không phải là triệu chứng bất an của một cá nhân mà là triệu chứng tập thể của một xã hội. Người ta có cảm giác trống rỗng, cảm thấy đời sống không có ý nghĩa và rồi phải tìm tới những phương tiện để khỏa lấp. Nhưng vì không được soi sáng nên họ đi về hướng sắc dục, ma túy và bạo động.

          Vì vậy chúng ta phải làm thế nào để giúp cho người trẻ có được một ngọn lửa trong lòng, tìm ra được một ý nghĩa của cuộc sống, biết mình sống để làm gì, sống vì cái gì, sống vì người nào, sống vì một chính nghĩa nào. Chúng ta không thể đưa ra một ý nghĩa của đời sống nào đó và mời họ: “Đây là một chính nghĩa, anh lấy đi để xài!”. Công việc mà chúng ta có thể làm là soi sáng cho người đó, giúp cho họ tìm ra được một ý nghĩa của cuộc đời.

                    Tưới tẩm hạt giống tốt

          Thỉnh thoảng có những người tới Làng Mai trong tình trạng như vậy. Họ nói: “Tôi không cảm thấy đời sống của mình có một ý nghĩa gì cả! Tôi thấy chết hay sống cũng giống nhau thôi!”. Sự chán nản bao trùm lên những người đó. Khi đối diện với những người như vậy thì chúng ta phải làm gì để giúp họ? Chúng ta không thể nói một bài pháp thoại hay cho ý kiến để người đó chấp nhận. Chúng ta phải tìm cách nhìn sâu để có thể hiểu được, nhận diện được những hạt giống tốt của người đó, và chỉ cho họ phương pháp tưới tẩm những hạt giống tốt đó nơi họ. Đức Như Lai có dạy rằng người nào cũng có hạt giống tốt của tâm bồ đề. Khi được tưới tẩm thì hạt giống tâm bồ đề của ta biểu hiện ra cách này, và của người kia thì biểu hiện ra cách khác.

          Vấn đề không phải là trao truyền những ý kiến mà là làm thế nào để giúp người kia tìm ra được lẽ sống của chính người đó. Ta sẽ không làm được chuyện đó nếu ta không biết gì về quá khứ cũng như hiểu được cách sống của người đó trong giây phút hiện tại. Những bài pháp thoại của chúng ta chỉ có tác dụng tưới tẩm, khơi lối cho người kia tìm ra được mục đích, ý nghĩa của đời họ. Ta cho pháp thoại không chỉ bằng lời nói mà còn có thể bằng cách sống của mình. Ta sống một cuộc sống có lý tưởng, có thương yêu, có mục đích. Ta hành xử và tỏa chiếu niềm vui, năng lượng. Rồi khi tiếp xúc được với con người và với cách sống của ta thì người đó có cơ hội nhìn trở lại để khám phá ra trong bản thân họ có một cái gì tương tợ mà lâu nay đã bị bít lấp và đè nén.

          Đôi khi người kia bị kẹt, bị những trở lực, và có những bức màn ngăn che không cho người đó thấy được khía cạnh tốt đẹp của chính mình. Ta có thể giúp người đó lột bớt bức màn ngăn che, tháo gỡ những chỗ kẹt để cuối cùng người đó có thể tiếp xúc với những cái đẹp, cái lành, cái thật nơi họ. Họ tìm ra được hướng đi của đời mình.

                    Ý tư liệu pháp (Logothérapie)

          Nhà phân tâm học Viktor Frankl là cha đẻ của phương pháp trị liệu “Logothérapie”. Nếu dùng danh từ Phật giáo chúng ta có thể dịch “Logothérapie” là: ý tư liệu pháp. Ý tư mượn từ chữ ý tư thực (có khi còn gọi là tư niệm thực), tức là ước muốn (volition, deep desire). Nếu có ước muốn là ta có năng lượng và ta có thể đi tới. Những người chán chường, không muốn sống là những người không tìm ra được ý nghĩa của đời sống.

          Frankl đã từng sống rất lâu trong trại tập trung của Đức Quốc Xã (Nazi) và đã trải qua những khổ đau, tuyệt vọng cho đến nỗi ông đã từng nghĩ rằng mình không có khả năng sống sót trở về. Ông là một nhà tâm lý trị liệu có tài. Ông đã sáng tác một tác phẩm nói về phương pháp trị liệu gọi là “ý tư liệu pháp”. Trong đó, ông muốn trao truyền những kinh nghiệm và tuệ giác của mình lại cho đời. Nhưng khi ông bị chuyển tới trại tập trung Auschwitz thì người ta khám phá ra bản thảo và đã tịch thu tác phẩm của ông. Đó là đứa con tinh thần, là lẽ sống của ông. Bây giờ đứa con tinh thần bị tiêu hủy thì cuộc sống của ông còn có ý nghĩa gì nữa?

          Trong điều kiện sống tồi tệ ở trại tập trung, người ta rất dễ dàng trở thành nạn nhân của sự tuyệt vọng. Nhưng ông đã tìm cách để sống sót. Sau khi lột áo ông để lấy bản thảo, người ta đưa cho ông cái áo rách tả tơi của một tù nhân vừa bị cho vào lò hơi độc. Trong cái áo tả tơi đó, ông tìm thấy một tờ giấy xé ra từ một cuốn kinh Do Thái. Trong tờ giấy có bài kinh Kadish, tức bài kinh được đọc lên trước khi chết để chứng tỏ mình có niềm tin rất vững ở Thượng Đế và mình coi thường cái chết, cái chết không đụng chạm gì được tới mình. Khi tìm thấy mảnh giấy trong áo người tử tù đã chết trong phòng hơi độc thì ông bừng tỉnh. Ông thấy rằng cái chết và những khổ nhục lớn lao nhất của cuộc đời không làm cho người tử tù mất đi đức tin. Người này đã sống những giờ phút cuối cùng với đức tin đó. Vì vậy ông quyết tâm tìm mọi cách để sinh ra đứa con tinh thần của mình lần thứ hai.

          Ông lượm những miếng giấy vụn, ghi lại những ý chính mình đã viết trong bản thảo, hy vọng được sống sót để một ngày nào đó có thể viết lại bản thảo. Chính nhờ bám vào ý tư, vào ước muốn đó mà ông chống cự được với những khổ nhục, nhất là với bệnh sốt thương hàn đang hoành hành trong trại tập trung. Theo Frankl, mình chỉ có thể tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống  khi có ba yếu tố:

          Yếu tố thứ nhất: mình muốn thực hiện một cái gì đó trong cuộc đời

          Chẳng hạn như ý muốn trao lại cho đời một đứa con tinh thần kết tinh từ những kinh nghiệm của mình, hoặc theo đuổi một chương trình, một sự nghiệp. Ví dụ mình tìm ra là mình có tài năng của một họa sĩ; những bức tranh của mình có thể đem lại niềm vui cho nhiều người, giúp họ quên bớt những khổ đau dằn vặt. Mình thấy những sáng tác của mình có thể tô điểm, làm đẹp cho cuộc đời. Vì vậy mình muốn theo đuổi sự nghiệp của một họa sĩ, không hẳn vì tiền bán tranh hay vì danh tiếng mà chỉ vì ý nguyện muốn làm đẹp cho cuộc đời. Nếu là người có khiếu âm nhạc, mình sáng tác không hẳn là vì quyền bính, vì danh vọng, vì lợi dưỡng hay sắc dục mà vì mình có ý nguyện. Sự nghiệp của mình là sống và thể hiện được cái mình cho là đẹp, là quí, là cần thiết cho cuộc đời.

          Trong trường hợp của Siddharta, Siddharta muốn tu tập để chuyển hóa những khổ đau và giúp những người đương thời chuyển hóa khổ đau. Đó là một tư niệm và tư niệm đó giúp Siddharta đi qua được những thời gian khổ hạnh cực kỳ. Khi chưa tìm ra được con đường, Siddharta đã thử nhiều cách thực tập, trong đó có sự thực tập khổ hạnh, và làm cho thân thể héo mòn, tiều tụy đến nỗi suýt chết. Nhưng Siddharta đi qua được tất cả những khổ hạnh đó và sống sót được vì có một ý tư rất mạnh. Ý tư đó là chuyển hóa phiền não và cứu độ con người. Sau khi thành đạo, ý tư đó vẫn còn hùng mạnh nên Siddharta đã để ra 45 năm để đào tạo, giảng dạy và thực tập. Siddharta không muốn nổi tiếng. Siddharta không muốn trở thành đối tượng của sự kính ngưỡng. Siddharta chỉ muốn chuyển hóa khổ đau và giúp người chuyển hóa khổ đau. Vì vậy ý nghĩa của cuộc sống có được là nhờ sự nghiệp, mà sự nghiệp đó không phải là sự thỏa mãn những tư dục cá nhân. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng điều đó.

          Có những người đang chạy theo năm dục: tài (tiền bạc), sắc (sắc dục), danh (danh vọng), thực (ăn) và thụy (ngủ). Trong họ cũng có một động lực, họ biết họ muốn gì và chạy theo cái gì. Có nhiều người đi tìm những đối tượng của dục chẳng qua chỉ để khỏa lấp cái trống vắng trong lòng. Có người đi tìm hạnh phúc nơi quyền lực. Họ nghĩ rằng khi có quyền lực thì có thể thỏa mãn được những dục khác. Có người thấy rằng có nhiều tiền thì sẽ có nhiều quyền lực. Mặc dù mình không phải là ông bộ trưởng, ông thủ tướng hay ông tổng thống, nhưng một khi mình có nhiều tiền thì ông bộ trưởng, ông thủ thướng hay ông tổng thống cũng phải đi theo mình. Vì vậy trong thế giới của chúng ta, những nhà lãnh đạo công nghiệp rất quan trọng, nhiều khi họ còn có nhiều quyền lực hơn những nhà lãnh đạo chính trị. Có tiền là có quyền lực.

          Ngoài ra có những đối tượng khác như thức ăn ngon. Thức ăn ngon ở đây là những thứ làm thỏa mãn khẩu vị nhưng có ảnh hưởng tàn hại thân và tâm. Chúng ta không có khả năng chống cự lại những thức ăn hấp dẫn. Chúng ta biết ăn thứ đó vô thì sẽ khổ đau, sẽ dẫn đến tình trạng rã rời của thân và tâm nhưng không ăn không được.

          Chạy theo đối tượng của năm dục chưa hẳn là đã tìm ra được ý nghĩa của sự sống. Có những người có quá nhiều quyền hành, quá nhiều tiền bạc nhưng họ đau khổ cực kỳ vì họ thấy trống rỗng. Những nhà lãnh đạo doanh thương lớn như ông Bill Ford đã tới tu viện Thanh Sơn ngồi thiền với Thầy. Ông thấy cuộc sống của một người giàu có và quyền lực không đem tới hạnh phúc. Ông cho biết trong giới giàu có và quyền lực, có người đau khổ rất nhiều. Họ rất cô đơn, sống cô đơn mà chết cũng cô đơn. Vì vậy dù đi tìm quyền bính, đi tìm danh vọng người ta vẫn đau khổ như thường. Và rốt cuộc có người đã phải tự tử. Bill Ford đang đi tìm một ý nghĩa của đời sống. Ông muốn chế tạo ra xe hơi không gây ô nhiễm môi trường. Ông nuôi chí nguyện: làm sao để xe hơi sau này có thể chạy bằng nhiên liệu khí hydro. Đó là ý tư mà ông đeo đuổi. Nhưng liệu ông có nuôi được ý tư đó lâu dài hay không?

          Có thể nói cuộc đời của tướng De Gaulle rất thành công. Ông đã giải phóng được nước Pháp, đem lại độc lập và tự do cho nhân dân Pháp. Ông nổi danh như cồn và có thời dân Pháp coi ông như quốc phụ (tức người cha của tổ quốc). Nhưng những ngày tháng cuối của tướng De Gaulle rất buồn thảm. Sau một cuộc biểu tình chống đối của người trẻ, ông tổ chức buổi trưng cầu dân ý (referendum) để hỏi người dân có còn muốn ông đứng ở địa vị tổng thống nữa không? Ông tin chắc rằng người dân sẽ trả lời “muốn” tại vì ông là quốc phụ, là người đã có công giải phóng nước Pháp. Nhưng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý thì trái lại, người dân không muốn. Ông bỏ chức vụ tổng thống, ngay lập tức trở về làng quê của ông trong vòng 24 giờ đồng hồ. Trong lòng ông có một nỗi thất vọng lớn. Ông nghĩ người dân Pháp vô ơn bạc nghĩa; mình là người anh hùng đã cứu nước Pháp mà bây giờ dân lại nói không thích mình. Những ngày tháng cuối cùng của tướng De Gaulle rất cô đơn. Ông chưa thoát khỏi ý niệm về ngã và chưa chuyển hóa được lòng tự hào của mình.

          Như vậy, danh vọng, dù lên tới mức cùng cực, cũng chưa có thể làm cho con người có hạnh phúc chân thật, huống hồ là lợi lộc, quyền bính và sắc dục. Chúng ta thấy rõ ràng khi chưa tìm được ý nghĩa của đời sống thì ta dễ bị xao động bởi sự đi tìm đối tượng của dục. Ta nghĩ đi tìm đối tượng của dục có thể khỏa lấp được cái trống rỗng trong lòng. Chứng bệnh tập thể của thời đại chúng ta là chứng bệnh trống rỗng hiện sinh (existential vacuum). Ta phải tu học như thế nào để vượt thoát triệu chứng đó và giúp cho đời bằng muôn ngàn phương tiện để mỗi người trong xã hội tìm ra được ý nghĩa của đời sống. Nếu là người xuất gia mà ta lâm vào tình trạng đó tức là Bồ đề tâm của ta bị soi mòn. Không có ý tư thực thì ta không giúp được cho chính mình, không giúp được cho tăng đoàn của mình chứ đừng nói là giúp được cho xã hội.

          Khi Bồ đề tâm không vững, chí nguyện tu học không bền thì tự nhiên mình đi tìm những chuyện tầm thường trong phạm vi năm dục để khỏa lấp sự trống rỗng. Nhưng nếu mình có khối lửa trong tâm thì sự lôi kéo của năm dục không đủ sức để làm xao động lòng mình.

          Yếu tố thứ hai: Tình yêu, kinh nghiệm của trái tim

          Tình yêu đó có thể là tình yêu Thượng đế hay tình yêu nam nữ. Khi có tình yêu thì mình bắt đầu đi trên con đường khám phá, khám phá bản chất của người mình yêu và bản chất của chính mình. Theo Frankl, tình yêu là cách duy nhất để nắm được một cách sâu sắc bản chất của một người. Không có tình yêu thì không thể hiểu được người đó. Nhưng theo thầy thì làm sao mình nắm được bản chất của một người khác khi mình không biết được mình là ai? Mình chưa biết mình là ai thì làm sao mình biết được người khác là ai? Tình yêu chân thật là một con đường khám phá, khám phá được bản thân tới chừng nào thì mình khám phá được đối tượng thương yêu tới chừng đó. Nếu không có sự khám phá bản thân thì không thể nào khám phá được người khác. Đức Thế Tôn có mười danh hiệu, trong đó có danh hiệu Thế Gian Giải, tức là bậc hiểu thấu thế gian. Có hiểu mới có thương. Tại sao đức Thế Tôn hiểu thấu được thế gian? Tại vì Ngài hiểu được chính mình. Hiểu được thì mới thương được người và giúp người thoát khỏi vòng khổ đau.

          Frankl nói một câu giống như giới thứ ba của Năm giới: Sự gần gũi nam nữ chỉ có thể được chấp nhận khi có tình yêu chân thật, nếu không thì đó là hành động có tính cách tàn hại. Trong giới thứ ba, chúng ta nói: “Con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức lâu dài.” Theo Frankl, sự gần gũi nam nữ trong trường hợp có tình thương đích thực có thể là một cái gì thánh thiện. Mình có thể chấp nhận câu nói của Frankl. Vì vậy trong Năm giới dành cho người tại gia chúng ta cũng có một câu tương tợ.

          Đối với người xuất gia thì khác. Tại sao một sự thật áp dụng được cho người này lại không áp dụng được cho người khác? Người xuất gia cũng biết rằng hành động giao hợp nam nữ nếu được xảy ra trong sự cung kính, trong tinh thần trách nhiệm, trong tình yêu chân thật và sự cam kết lâu dài thì không phải là chuyện xấu. Nhưng tại sao người xuất gia không làm chuyện đó? Câu trả lời là tại vì người xuất gia có một tư niệm rất đặc biệt, muốn dồn hết năng lượng của mình về một hướng, sử dụng tất cả năng lượng để thực hiện chí nguyện của mình. Đời sống độc thân là một trong những nền tảng rất quan trọng cho chí nguyện đó. Những nhà cách mạng bôn ba nơi hải ngoại để tìm con đường sống cho quê hương cũng sống giống như người xuất gia. Họ không vướng bận thê nhi. Người xuất gia không cho đó là chuyện xấu ác, nhưng không làm vì mình đang theo đuổi một chí nguyện lớn. Vướng vào ái dục cũng là một trở lực không cho phép mình đi tới được.

          Trong trường hợp thứ hai (tình yêu), hình như trong thâm tâm của tác giả có nói tới một kinh nghiệm tâm linh (religious experience), có thể nói là tình yêu Thượng đế. Tình yêu đó có thể cho mình nhiều năng lượng để đi tới và làm được chuyện này chuyện kia. Khi yêu một người thì mình có thể hy sinh thân mạng để người đó được hạnh phúc.

          Nhưng trong ánh sáng của sự thực tập, chúng ta thấy rất rõ là khi thương một người và muốn làm cho người đó hạnh phúc thì mình phải hiểu người đó. Khả năng hiểu tùy thuộc nơi sự thực tập của mình, vì nếu không hiểu được mình là ai thì mình chưa thể hiểu được người kia là ai. Cũng như thương, nếu không thương được mình thì làm sao mình có thể thương được người khác. Thương như vậy chẳng qua là một sự đam mê. Mình phải phân biệt giữa đam mê và tình thương. Đam mê thì đưa đến sự vướng mắc, rồi dìu nhau vào chỗ khổ đau. Còn tình thương thì đưa tới hạnh phúc và tự do cho cả hai phía.

          Chúng ta phải phân biệt, phải nhìn cho rõ: sự nghiệp này có thể chỉ là sự chạy theo đối tượng của năm dục và tình yêu này có thể chỉ là sự chạy theo đam mê. Khi đọc Frankl với con mắt của Bụt thì mình thấy như vậy. Tình yêu, theo đạo Bụt, là một sự khám phá, không phải chỉ là sự khám phá người kia mà thôi. Làm sao mình khám phá được bản chất của người kia khi mình không biết mình là ai? Mình không yêu được mình thì làm sao mình yêu được người kia? Mình không giải phóng được mình thì làm sao mình giải phóng được người khác? Khi mình chưa tìm ra được ý nghĩa của đời mình thì làm sao mình giúp được người kia tìm được ý nghĩa đời sống của người kia?

          Khi thương thì mình có khả năng giúp được người kia phát triển tiềm năng trong họ. Người đó ban đầu thấy rã rời, không có năng lượng. Nhưng nhờ tình thương, mình có thể soi đường chỉ lối, gỡ ra những bế tắc của người đó và làm cho họ phát hiện ra được những tiềm lực lớn lao trong người họ. Và người đó trở thành một bậc anh hùng, một chàng hiệp sĩ, một người có khả năng làm đẹp cho cuộc đời. Đức Thế Tôn đã từng thương như vậy. Ngài đã khám phá ra những tài ba tiếp nối được Ngài như thầy Xá Lợi Phất, thầy Mục Kiền Liên, thầy A Nan, v.v. Sở dĩ Đức Thế Tôn làm được vì Ngài đã khám phá được chính Ngài. Ngài đã khám phá ra ý tư của Ngài, lẽ sống của đời Ngài. Ngài đã hiểu được Ngài. Ngài đã tự giác nên mới giác tha. Ngài đã tự độ nên mới độ tha. Ngài đã tự ái nên mới ái tha. Điểm thứ hai là có tình yêu thì tự nhiên có một lẽ sống. Lẽ sống không thể có bằng sự đam mê mà phải bằng tình yêu chân thật.

          Yếu tố thứ ba là khổ đau

          Khổ đau đã có nhiều, ta không cần phải đi tìm thêm khổ đau. Nhưng nếu biết quán sát, nhìn sâu vào lòng của khổ đau thì ta tìm ra được ý nghĩa của đời sống. Điều này rất rõ trong giáo lý “Tứ diệu đế”. Bụt nói sự thật hiển nhiên là có khổ đau (ill-being) và nếu quán chiếu sâu sắc khổ đau thì mình tìm ra được ý nghĩa của đời sống, tức sự thật thứ tư – Đạo đế. Khổ đau phải có giá trị mở mắt cho mình, giúp mình tìm ra được lẽ sống của đời mình. Nếu không thì khổ đau sẽ tràn ngập, và làm cho mình chết đuối trong biển cả mênh mông của nó.

          Tất cả mọi người trong trại tập trung gần như tuyệt vọng, không thấy một chút hy vọng sống sót nào. Và Frankl cũng không chắc có thể viết lại được, sinh ra đứa con tinh thần lần thứ hai để hiến tặng cho đời. Tất cả mọi người chung quanh đều nghĩ nếu không có được ngày mai thì tất cả các khổ nhục mà mình đang chịu đựng sẽ không có ý nghĩa gì nữa. Nhưng Frankl không để mình bị cuốn chìm trong tư tưởng đó. Và nhờ tờ giấy có bài kinh Kadish vò nhàu trong túi áo mà Frankl thấy rõ ràng: người Do Thái kia đi vào phòng hơi độc với những bước chân rất vững, ngẩng đầu lên và đọc bài kinh, không khiếp sợ, không co rúm, không than khóc. Frankl chợt tỉnh: những tuệ giác mà mình muốn trao cho người, mình có thể sống những tuệ giác đó trong giây phút hiện tại. Có thể ngày mai hay ngày mốt mình sẽ chết, nhưng nếu mình còn một hay hai ngày để sống thì mình phải sống với cái tuệ giác mà mình muốn trao truyền đó. Mình trao truyền bằng sự sống của chính mình. Frankl nghĩ: nếu ta chết trong phòng hơi độc với những tuệ giác ta muốn trao truyền thì ta đã thành công rồi. Vì vậy khổ đau tuyệt vọng cũng là một điều kiện để ta tìm ra được nghĩa sống. Frankl nói một câu rất hào hùng: nếu mình không thể chuyển đổi được tình trạng thì mình phải chuyển đổi tự thân mình! Mình đừng nói rằng hoàn cảnh này không thể chuyển đổi được nên tôi chịu thua, tôi bỏ đi.

          Frankl kể, một hôm một ông bác sĩ tới gặp Frankl, than khóc buồn khổ vì vợ ông mới qua đời, một người vợ mà ông thương yêu hết mực. Ông coi bà như lẽ sống của đời mình. Người đó chết nên ông không tìm được niềm vui sống nữa. Đau khổ, tuyệt vọng của ông lớn quá, ông chịu không nổi. Ông có ý muốn tự tử đi cho khỏe. Trong ông có sự trống rỗng hiện sinh. Frankl đã nói với ông như thế này:

          – Này ông, bây giờ ông thử trả lời tôi. Nếu ông chết và bà sống thì ông có nghĩ là bà sẽ khổ đau sau khi ông chết không?

          Ông nói:

          – Như vậy sẽ nguy hiểm lắm, tại vì bà ấy sẽ khổ đau vô cùng.

          Frankl nói:

          – Đó, ông thấy không? Ông biết bà chết thì không phải gánh nỗi khổ đau tuyệt vọng mà ông đang gánh. Có phải như vậy là đỡ cho bà lắm không? Vì vậy ông phải thực tập gánh khổ đau này cho bà. Đó là tình thương, đó là tình yêu.

          Phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ” có nghĩa là thay thế cho chúng sanh mà chịu đựng khổ đau vô lượng. Đó là câu trong kinh Tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân (Kinh Bát đại nhân giác). Bây giờ ông đang chịu gánh nặng đau thương để bà khỏi đau thương, như vậy thì điều này có ý nghĩa không? Ông bác sĩ tìm thấy ý nghĩa và ông hết đau khổ giống như một phép lạ vậy. Mình không thể làm phép lạ cho bà sống dậy, nhưng mình có thể làm cho ông hết khổ hay là bớt khổ.

          Nếu không thay đổi được hay chưa thay đổi được tình trạng thì ta phải thay đổi bản thân mình. Thay đổi bản thân thì ta bớt đau khổ liền mà không cần phải đòi hỏi người này phải như thế này, người kia phải như thế kia. Thay đổi tâm mình thì tự nhiên hoàn cảnh trở nên trong sáng và ta chấp nhận được tất cả những cái mà ta chưa chấp nhận được trong quá khứ. Frankl cũng giỏi, ông nói được ngôn ngữ của những người trong cuộc.

          Có một ông Rabi – tức giáo sĩ Do Thái giáo – đến gặp Frankl. Vợ và bốn đứa con của ông chết trong trại tập trung. Ông không còn đứa con nào để tiếp nối, để đọc kinh Kadish khi ông chết. Vậy nên ông tục huyền, cưới một bà vợ khác. Nhưng bà này lại không có khả năng sinh con nên ông tuyệt vọng vô cùng. Ông nói:

          – Bốn đứa con trai của tôi đã bị bức tử. Tâm hồn chúng trong trắng, bây giờ chúng đang ở trên cõi trời với Thượng đế. Còn tôi là một người trần tục. Tôi có nhiều tội lỗi, nhiều yếu kém.

          Frankl nói:

          – Nhưng mà ông cũng còn hy vọng là sau khi chết, ông sẽ trở về đoàn tụ với con ông trên đó.

          Ông Rabi nói:

          – Chắc không? Con tôi rất trong trắng. Khi chúng chết thì Thượng Đế đưa chúng trực tiếp lên trên đó. Còn tôi, tôi không còn trong trắng nữa, tôi có những phàm tục. Chắc chắn là trong khi tôi chết không có đứa con nào đọc kinh Kadish và tôi cũng không được đưa lên để gặp các con.

          Frankl không có niềm tin như ông đó, nhưng Frankl học nói ngôn ngữ đức tin của ông ta:

          – Nhưng nếu giáo sĩ chấp nhận những khổ đau này để thanh lọc hóa thì khổ đau trở nên có ích lợi. Nhờ những đau khổ này mà ông có thể thanh lọc tự tâm. Và chính nhờ sự thanh lọc mà sau này Thượng Đế sẽ cho ông lên đoàn tụ với các con của ông.

          Frankl giúp cho ông Rabi thấy trong quá trình đi ngang qua khổ đau, mình có thể biến khổ đau trở thành hữu ích và tìm ra được nghĩa sống của đời mình. Đạo Bụt nói rất rõ khổ đau là chất liệu làm ra tuệ giác, an lạc; cũng như bùn là chất liệu làm thành hoa sen. Không có khổ đau thì không có hạnh phúc, hiểu biết và thương yêu. Nhưng ta không cần và không nên tạo thêm khổ đau. Đã có quá đủ khổ đau cho ta sử dụng rồi.

                    Sứ mạng thương yêu

          Nhìn và quan sát cây cỏ, ta thấy lá chuối chị nuôi lá chuối em và nuôi thân chuối. Ta học được rất nhiều trong sự quan sát đó. Lá chuối chị được sinh ra trước, tiếp thu ánh sáng mặt trời, những chất hơi như carbonic dioxide (CO2) và chuyển hóa thành những chất nuôi dưỡng thân chuối và những lá chuối con đang từ từ phát hiện. Lá chuối chị có một sứ mạng, có thể gọi đó là sứ mạng thương yêu. Ngay trong giới cây cỏ cũng có, đó là điều rất tự nhiên: nuôi dưỡng và bảo hộ cho thế hệ tương lai. Đó là một cái gì được ghi khắc vào trong sự sống. Nhưng có một điều trong lá chuối chị có một cái mà mình có thể tạm gọi là ý nghĩa sống, mục đích sống của lá chuối chị là nuôi cây chuối và những thế hệ lá chuối tương lai.

          Khi một bà mẹ thương yêu và nuôi dưỡng đứa con, mình thấy rất rõ trong bà mẹ có tình thương, có một ý nghĩa của đời sống. Mục đích của bà là nuôi con lớn lên. Bà mẹ có sứ mạng giống như lá chuối chị. Nhưng trong khi lá chuối đang làm việc nuôi nấng cây chuối và những lá chuối khác thì nó cũng có thể có hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nó xòe ra tiếp nhận ánh sáng ban mai, trình bày tất cả những tươi mát, đẹp đẽ của mình và sống an lạc trong từng giây từng phút. Hai công việc đó không chống đối nhau. Năng lượng của Bồ đề tâm và khả năng lạc trú trong giây phút hiện tại không chống đối nhau. Con sư tử mẹ hay con mèo mẹ cũng chăm sóc, bảo hộ những những đứa con nó sinh ra. Nhiều khi nó nhịn để cho con ăn. Nó có tình yêu, nó có một ý nghĩa của đời sống.

          Là một người cha hay một người mẹ, ta phải thấy đời sống của mình có một ý nghĩa nào đó. Ta đã tiếp nhận như thế nào và sẽ hiến tặng như thế nào? Nếu không thấy được mình đã tiếp nhận cái gì thì làm sao thấy được mình sẽ hiến tặng cái gì? Là một người xuất gia, ta đã tiếp nhận được giới pháp, ta đã tiếp nhận được Tam bảo, đã có hạnh phúc. Ta  đã trở thành một sư anh, một sư chị. Ta có bổn phận nhìn các sư em bằng con mắt đó. Ta phải sống và hành xử như thế nào để mỗi giây phút của đời sống hàng ngày có tác dụng nuôi nấng các sư em. Ít nhất ta phải làm được như một tàu lá chuối. Vì vậy mỗi bước chân của ta phải đi trong chánh niệm. Nếu bước chân không chánh niệm thì bước chân đó không có tính cách nuôi dưỡng và không thể hiện được tình thương của mình. Là một sư chị mà ta không biết thở và ôm ấp khi có sự bực tức biểu hiện thì ta không thương các sư em. Mình nói mình thương sư em, thương thầy nhưng nếu mình không làm được việc đó thì lời tuyên bố kia trở thành trống rỗng. Thương là một cái gì có thật. Thương bằng mỗi bước chân, bằng mỗi hơi thở, bằng cách hành xử, bằng từng lời nói của mình. Mình có tình thương hay không, điều này có thể thấy được rất rõ ràng, không thể che giấu được.

          Cậu bé chăn trâu thảnh thơi (phần 2)

          Bài chia sẻ của Thầy Pháp Cơ

          Cậu bé chăn trâu thảnh thơi (phần 1)

           

          Kỷ niệm đẹp thì tương lai đẹp

          caubechantrau1.JPGKhi đến một trung tâm tu học hay là một không gian nào đó mà mình cảm thấy yêu thích, mình thấy tâm mình nó bay nhẹ nhàng thong thả như một con hạc và mình thấy mình không cần làm một cái gì quan trọng hết. Lúc đó tâm thức mình đã có sự buông thư, có sự lắng dịu và mình thưởng thức được sự sống chung quanh mình và đồng thời chánh niệm được phát khởi. Cũng giống như khi mình đến một trung tâm tu học như ở đây, mình đã bỏ lại sau lưng những khó khăn, lo phiền và công việc của mình. Nhưng khi mới đến đây tâm thức mình chưa lắng xuống liền vì mình còn mang ít nhiều quá khứ trong đầu, những hình ảnh phố thị vẫn còn chạy theo trong đầu của mình. Cho nên mình phải làm thong thả, đi thong thả và nhẹ nhàng như một con hạc đang bay. Mình đi thiền hành để chế tác chánh niệm trong tâm của mình; mình đi từng bước, từng bước như vậy và để hết lòng mình vào hơi thở và việc tiếp xúc với sự sống chung quanh. Nếu trong tâm mình vẫn còn đôi chút âu lo, phiền muộn còn ứ đọng thì cũng đừng quan tâm quá, cứ để cho nó thong thả, nhẹ nhàng rồi nó sẽ qua. Mình cứ đi thiền hành thong thả từng bước và theo dõi hơi thở như vậy một lúc cho đến khi hơi thở trở nên nhẹ và trong hơn, mình cảm thấy tâm mình cũng nhẹ và trong hơn. Khi mới bắt đầu thiền hành thì hơi thở nghe nặng nề, trầm đục, nhưng sau một hồi theo dõi hơi thở có ý thức thì hơi thở dần dần trở nên nhẹ nhàng và trong như cánh hạc bay qua. Lúc đó chánh niệm thấm từ từ vào tâm và làm cho người mình buông thư và cái phố thị cũng từ từ lắng xuống.

          Thơ cụ Nguyễn Du có câu:

          “Trong như tiếng hạc bay qua

          Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”

          Mỗi lần mình tới một nơi mình thích, như tu viện này chẳng hạn, mình không cần gặp cho được vị trụ trì hay một thầy nào đó… Bởi vì mình tới đây là cơ hội để mình hưởng cái không gian của mình. Cái quan trọng trong lòng mình là cái không gian, và cái đó nó làm nên sự tu học và cái phước đức của mình. Công đức của mình có được là nhờ sự thực tập của mình. Mình phải có cái tính lặng lẽ như con hạc và sự trầm lắng thì chánh niệm mới dễ phát khởi. Nếu lúc nào mình đến chùa mình cũng chỉ muốn hỏi chuyện xây tháp hoặc quyên tiền và mình luôn bị cuốn theo, tâm mình loạn lên thì uổng cho mình quá!  Con thấy trong chúng của mình có một vị thực tập rất giỏi, đó là chú Thắng. Khi chú tới, chú thong thả như hạc bay, chú tiếp xúc với cây cối, thằn lằn rắn mối, rồi thấy cái cây nào cần sửa thì chú sửa, thấy thùng rác bay ngả nghiêng thì chú lượm rồi để lại ngay ngắn, và tất cả mọi việc mình đều làm trong chánh niệm. Điều này quan trọng lắm. Mình thường muốn gặp những vị thầy để bàn những chuyện lớn, mình nghĩ là phải làm những việc lớn mới là tu còn việc nhỏ không quan trọng, nhưng chưa chắc đâu!

          Hồi đó con có ở một ngôi chùa, và tình cờ học được trong Kinh Địa Tạng một câu mà con rất thích: “Có thiện nam tử, thiện nữ nhân, vị nào làm một việc nhỏ như một giọt nước, một sợi lông, một hạt bụi, mà ở trong Phật pháp mà làm thì công đức ấy không thể nghĩ bàn”, có nghĩa là nó rộng lớn không thể nói được, không thể tả được, trong khi đó thì hạt bụi nhỏ, nhỏ lắm. Cho nên khi tâm mình yên lặng và làm việc trong chánh niệm, tức là “ở trong Phật pháp mà làm”. Nghĩa là ở trong chánh niệm, mình học về Bụt, học Pháp của Bụt, xong mình làm những việc giống như lời Bụt dạy. Khi mình “Thở vào, mình biết mình đang thở vào; thở ra mình biết mình đang thở ra”, cái đó là ở trong Phật pháp mà làm. Sư cô Đẳng Nghiêm thường mời năm vị ở lại để giúp sắp bồ đoàn, tọa cụ. Khi mình sắp bồ đoàn, cái tay mình nâng nó lên và đặt xuống trên tọa cụ một cách ngay ngắn và tròn trĩnh, và mình thấy làm cái này là làm cho chính mình, mình làm cho mọi người ở đây có hạnh phúc là mình cũng đã có phần trong đó. Mình làm trong chánh niệm thì đó là làm trong Phật pháp. Cũng vậy, nếu với cái tâm thức đó mà làm, không có sự so đo phải làm công việc lớn mới có phước đức, thì tuy mình làm một việc nhỏ như hạt bụi, nhưng  nó rộng lớn không thể tưởng tượng được, cho nên mới nói là “bất khả thuyết”, không thể nói được. Ngược lại nếu không phải trong Phật pháp mà làm thì dù lớn nhỏ gì, phước đức cũng chẳng được bao nhiêu. Ví dụ, nếu mình muốn quyên tiền xây một mái thiền đường, mình nghĩ nó quan trọng hơn, và khi xây mái thiền đường xong thì mình muốn để tên của mình trên đó để cho mọi người biết cái tên của mình và nếu không ai công nhận cái tên của mình thì mình rất là buồn. Cái đó cũng có phước đức, nhưng chắc chỉ bằng cái kẹo hồ lô thôi.

          Nhưng nếu những người biết ở trong Phật pháp mà làm thì khác hơn nhiều. Nó cũng từ cái gốc ở chánh niệm mà có, khi mình có chánh niệm thì mình mới làm được những chuyện đó. Tại vì với chánh niệm, mình biết giúp mình làm những việc đúng với sự sống, đúng với những gì đang xảy ra, và mình đang làm bằng sự sống của chính mình. Đó sẽ là những kỷ niệm đi theo mình, theo suốt cuộc đời của mình. Con mời đại chúng quán tưởng là mình đang có một người bạn và mình đưa người bạn mình đi ra trạm xe lửa. Mình ý thức là người bạn này mình rất quý, không biết chừng nào mình mới gặp lại. Khi mình đi tiễn, cả tâm ý của mình chỉ biết có người bạn của mình thôi, và những người đi qua đi lại, kẻ áo xanh, người áo đỏ hoặc cái gì khác mình cũng không để ý đến. Khi người bạn lên tàu, mình chờ đến lúc bàn tay mình chào bắt tay bạn, và con tàu dần chạy xa hun hút rồi mà mắt mình vẫn dõi theo, cho đến khi xa không thấy được thì mình mới trở về. Cái kỷ niệm đó nó đi theo mình cả đời. Nó có được là do “niệm”. Niệm có nghĩa là tâm mình có ý thức về một hiện tượng nào đó đang xảy ra, và cái ý thức đó nó đem lại cái thấy sâu sắc trong sự sống của mình. Cái đó chính là cái kỷ niệm của mình. Nó có thể dẫn mình đi tới tương lai, và nếu mình có những kỷ niệm đẹp thì tương lai của mình sẽ được vui và đẹp.

          Cũng giống như vậy, khi mình tới được đây, mình đem theo cái tâm thức muốn thực tập hết lòng, muốn được đi trên đất rất thong thả… Đó là một chuyện mình làm rất sâu sắc trong lòng của mình, và nó sẽ là cái kỷ niệm của mình. Cho nên khi ngồi ăn chung với đại chúng, mình cũng hết lòng, mình không nói chuyện, mình ngồi cho ngay thẳng, mình để cho tâm thong thả, và nghe tiếng chuông thì mình dừng lại để thở; mình biết trân quý thức ăn như những tặng phẩm của đất trời, như những gì mình đang được nghe trong Năm Lời Quán Nguyện trước mỗi bữa ăn. Ý thức rằng thức ăn không phải tự nhiên mà có, cho nên mình ăn với sự trân quý. Mình đem hết tấm lòng mình để ăn một buổi ăn thôi là mình đã có được sự biết ơn sâu xa ở trong lòng. Nó sẽ trở thành một quá khứ đẹp, dù chỉ là một bữa ăn. Lâu lâu mình mới có cơ hội được ăn chung với mọi người chứ đâu phải lúc nào cũng có. Khi mình đi chung với mọi người thì tâm thức của mình cũng thực tập hết lòng giống như là mình đi đưa tiễn một người bạn vậy, tại vì mình biết cơ hội này không phải lúc nào mình cũng có được. Điều đó giúp mình thấy sự sống rất là gần gũi với mình.

           

          Liên hệ người người

          caubechantru2.JPGKhi mình thấy có sự sống, có niềm vui thì sự liên hệ giữa mình và người rất gần gũi, và cái khả năng đó làm cho mình tiếp xúc được với mọi người rất dễ dàng; nó làm cho mình có được tình người. Mình mà xa cách với con người là tại sự sống của mình không có gần gũi với mình nhiều, tức là mình không hiểu nhiều về sự sống. Con người là một phần của sự sống và mình gần với con người nhiều nhất. Mình thường nói mình sống với thiên nhiên, nhưng thật ra mình sống với thiên nhiên được bao nhiêu? Mình về nhà sống với người thân thì nhiều. Nhưng mình sống như thế nào? Cho nên nếu mình nói mình đi tìm thiên nhiên và xa con người là một điều rất là trật, vì con người là một phần của thiên nhiên.

          Nếu mình sống không hòa đồng và hạnh phúc được với con người  mình muốn đi tìm thiên nhiên để mà sống, đó cũng là một điều lạ! Nhưng khi mình tiếp xúc được và mình sống hết lòng với mọi người trong mọi hành xử thì nó mang cho mình một cái thấy sâu sắc ở trong sự sống. Mình tiếp xúc với con người rất là dễ và con người đưa đến cho mình nhiều hạnh phúc lắm. Khi có nhiều phiền lo trong con người mình, khi không hiểu được những tâm hành của mình thì những cái như buồn giận nó làm cho mình khổ đau nhiều, cho nên mình nghĩ là con người làm cho mình khổ đau, nhưng cái gốc là tại vì tâm thức của mình không gần, không cảm được sự sống, và không hiểu được sự sống.

          Mình có thể rất giỏi về những lãnh vực chuyên môn nào đó, nhưng những tâm hành và những con người sống cạnh bên mình thì mình lại không có thời gian để quan sát và học hỏi. Vì thế cho nên mình không hiểu nhiều, và mình có nhiều sự chia cách giữa mình với con người, với sự sống. Khi mình có chánh niệm và sống hết lòng, thì từ từ mình có thể ngồi với một người, trò chuyện với người đó, một lần hoặc hai lần gì đó, và lòng mình mở ra; dù mình không nói gì hết, mình chỉ nghe người đó nói, hoặc là mình nói và người đó chỉ ngồi đó thôi, nhưng nó làm cho lòng của mình thoải mái và hạnh phúc lắm. Quý vị làm thử đi. Cái đó mang cho mình niềm vui và mình thấy con người quý với mình lắm. Bản thân con thì con rất cám ơn trong đời sống của con có những người thân mà con rất quý và những người thân đó cũng rất quý con. Cho nên khi mình gặp, mình ngồi, mình uống trà hay là mình trò chuyện gì đó, trong một giây phút nào đó, mình thấy tất cả những cái đó là kỷ niệm nó nuôi dưỡng mình và làm cho mình đi tới, không thấy cô đơn.

           

          Học từ kinh nghiệm

          Có lúc mình xa cách tâm thức của mình, mình không quản thúc được cái giận hờn trong con người của mình. Nhưng khi có được chánh niệm và có sự sống thì giống như mình đã có con trâu ven bầy, nó có cái khả năng ven cái giận hờn và mình gom nó lại, khi nó lên trên mặt ý thức của mình, mình quản thúc rất dễ. Người chăn trâu, khi có con trâu quậy phá thì họ thường thả một cọng dây dài khoảng chừng mười thước, gọi là “dây dàm”. Cọng dây dàm là cọng dây rút lại và kéo lại. Người chăn trâu biết được con trâu nào thường hay quậy phá và mình phải để ý, để khi nó chạy thì mình chạy theo nắm sợi dây dàm và giựt nó lại. Không phải giựt là nó đứng lại liền mà đôi khi nó mang mình chạy xa lắm. Người có kinh nghiệm sẽ chùng sợi dây đó, xong giựt một cái rồi chùng lại, rồi giựt một cái,… họ giựt nhiều lần như vậy, cái lỗ mũi của con trâu sẽ đau. Khi mình chùng lại sợi dây dàm, con trâu đang có cái trớn chạy tới thì mình giựt một cái và khi mình giựt năm bảy lần thì nó chùng lại, từ từ mình bắt được nó.

          Cũng như vậy, khi mình có cái giận, cái lo cái buồn và mình lấy ý thức chánh niệm để nhận diện và ôm ấp nó thì không phải là nó dừng lại liền mà nó vẫn sẽ chạy, vì nó quá mạnh trong ý thức của mình. Lúc đó mình không nên cố gắng nhiếp tâm mạnh quá. Chữ “nhiếp” trong thiền đối với chữ “xả”. Khi mình biết được đang có một đối tượng tâm hành quá căng thẳng trong mình thì mình nên chỉ để ý đến nó khoảng chừng sáu bảy chục phần trăm thôi. Vì nếu mình cố hết sức ghìm giữ đối tượng lại, nhưng nếu đối tượng đó vẫn tiếp tục chạy thì tự động mình có cảm giác như bất lực, và cái tâm nó càng loạn lên. Cho nên mình chỉ cần chạm lên, mình biết được cái giận giữ hay cái buồn phiền đang có mặt, mình chạm vào nó khoảng sáu bảy chục phần trăm thôi, còn 40% hay 30% còn lại mình để cho con người mình thong thả và thoải mái, để tiếp xúc với những điều kiện tốt lành đang có. Trạng thái đó là trạng thái chùng vừa phải và cái tâm mình nó chùng lại từ từ. Có lúc mình nhiếp rất mạnh, nhiếp 100% vô trong cái giận, và mình thấy đây là cái giận rất rõ ràng. Lúc đó chánh niệm của mình rất mạnh, ôm cái giận trọn vẹn và nó lắng xuống ngay. Nhưng một khi nó vẫn còn chạy thì mình cứ để nhè nhẹ trên nó thôi, đừng có nhiếp 100%, chỉ 50 hay 60% thôi, còn 50 hay 40% còn lại để cho nó thong thả và chánh niệm sẽ ôm nó từ từ. Giống như con trâu, nó sẽ ngừng lại từ từ. Quan trọng là ở sự kiên nhẫn.

          “Xả” tức là không giữ, xả tức là không theo 100%, không theo bên nào hết. Lúc xả thì tâm mình thong thả như mình đang lùa trâu ra một đồng trống, không có một đối tượng nào để 51 tâm hành chạy theo. Lúc đó là một khoảng trống và tâm mình thong thả. Khi tâm mình nhiếp được cái đối tượng giận rồi thì từ từ cái giận nó sẽ gom lại, và từ từ nhập lại thành một với tâm hành chánh niệm. Khi có con trâu quậy phá thì mình đem con trâu ven bầy gom con trâu quậy phá, gom từ từ thì tự nhiên bầy trâu sẽ hợp trở lại. Những cái đó khi nói về tâm thức, đều là chánh niệm hết. Khi mình gom cái tâm thức giận hờn, và nó được chánh niệm ôm ấp thì cái giận hờn lắng dịu và nó trở thành năng lượng chánh niệm. Giống như nước và sữa, khi mình mới bỏ vô thì mình thấy có nước có sữa, nhưng nếu quậy một hồi thì nó trở thành một. Nhưng nó cũng có thể đi ngược chiều trở lại nếu chánh niệm của mình quá yếu và cái giận nó mạnh và mình không gom lại được thì cái niệm từ từ trở thành cái động và cả người mình toàn là giận, cả một cái tâm thức mình là giận hết. Cho nên khi mình thực hành tinh chuyên và ôm ấp được cái giận cái buồn, thì cùng một cách đó mình cũng ôm ấp được tất cả những tâm hành khác như ganh tỵ, ghét thương,v.v.. Trong sự thực tập, mình bắt đầu với sự nhận diện đơn thuần, tức là mình thấy cái tâm hành và nhận diện, gọi đúng tên nó khi nó vừa đi lên. Cũng với chánh niệm, mình từ từ ôm ấp nó, thấy được cái tâm mình lắng dịu, thấy được tất cả toàn là niệm, và khi thấy tất cả chiều sâu của cái sự giận hờn thì mình bật được cái gốc của nó, đó  gọi là chuyển hóa. Người chăn trâu và người tu thiền cũng giống nhau, cho nên trong thiền môn, người ta gọi người tu thiền là người chăn trâu, chăn cái tâm trâu của mình.

           

          Cái căn bản thì mình lại thiếu

          buocchanThay.JPGThưa đại chúng, khi mình mà chăn trâu không giỏi, mình chăm sóc không giỏi và mình để trâu mình phá hoại lúa, thóc, khoai sắn, thì lúc đó mình sẽ ra bờ sông mình nằm mình khóc, tại vì trâu mình nó ăn thóc ăn lúa phá hoại mà mình không biết phải làm sao. Khi đó mình mới chạy đi tìm một vị mà mình quý trọng, mình than thở, “trâu tui nó phá quá và giờ không biết làm sao, xin ông giúp tui với”, và khi đó mình chắc lưỡi than giống như con thằn lằn, và vái vị đó dạy cách cho mình phải làm gì.

          Quý vị có biết tại sao người ta thường nói “than như con thằn lằn” không? Có một câu chuyện như thế này: Có một vị đó rất giàu có, cái gì cũng biết hết, giàu về ý niệm, giàu về kiến thức và giàu về của cải, vị đó tên là ông Hống. Một hôm ông Hống cảm thấy rất hạnh phúc, rất đầy đủ và nói rằng nếu ai có cái gì mà tôi không có thì tôi sẽ đem tất cả những gì tôi có cho người đó. Hôm đó có một người nông dân, rất bình dân, đem tới một cái mẻ kho. Mẻ kho là cái mà nhà nào cũng có, cũ kỹ, ngày nào cũng kho nên nó rất xấu và đen. Ông nhà giàu thì cái gì cũng làm bằng vàng, bằng bạc, bằng i-nốc, bằng đồng chứ làm gì có cái mẻ kho xấu xí như vậy! Ông nhà giàu xem lại tài sản và không thấy có cái mẻ kho nào nên ông ta đem tất cả những gì ông có để tặng cho người nông dân và khen: “Anh có những cái rất đơn giản nhưng lại thiết thực và cần thiết cho đời sống; còn tôi, có nhiều cái tôi cảm thấy nó cao quý nó mầu nhiệm nhưng cái căn bản tôi không có, cho nên những cái gì tôi có tôi sẽ tặng cho anh”. Nhưng khi tặng xong, ông buồn và tiếc vì sự mất mát quá lớn nên vài ngày sau ông chết. Ông chết và đầu thai thành con thằn lằn và lúc nào nó cũng cứ than, cứ chắc lưỡi. Ở quê khi thấy có người hay tự khoe mình giỏi mình hay thì người ta thường phê bình:

          “Ông Hống còn thiếu mẻ kho

          Mày hay là mấy, miệng to làm gì!”

           

          Tức là ông Hống, ông hay ông giỏi như vậy nhưng những cái căn bản ông không có, và câu chuyện này rất hay. Nhiều khi mình thấy mình có những cái hay, mình thấy mình rất đầy đủ, mình cảm thấy rất thỏa mãn, nhưng những cái rất căn bản thì mình không có. Giống như một đời sống có chánh niệm để mình ý thức được một sự sống đang gần gũi với mình, và mình “đang là” thì mình lại không biết. Cái đau khổ và cái khó khăn của mình nó phát xuất từ đó nhiều lắm. Tại vì mình biết những cái xa hơn sự sống mình đang có và mình tự hào với cái mình có, nhưng cái căn bản thì mình lại thiếu. Khi mình thấy được người của mình yếu kém chỗ nào thì nên bồi đắp phần đó. Bản thân con thuộc loại nông dân nên con quý và học hỏi từ những cái căn bản, sống gần gũi với mọi vật với thiên nhiên và mình biết mình đang là. Nó giúp mình nhiều lắm, mình đừng có như ông Hống, lúc nào cũng chấp mình giỏi nhưng lại thiếu một cái mẻ kho, để phải làm con thằn lằn thì tội lắm. Nếu mình là người chăn trâu giỏi thì mình sẽ không than như con thằn lằn. Còn nếu mình chăn trâu không xong, nghĩa là học hỏi và điều phục tâm mình không xong để cho những con trâu giận hờn phiền não nó chạy nó phá mùa màng, khoai sắn lung tung thì lúc đó mình phải ra bờ sông mà khóc lóc và chắc lưỡi như con thằn lằn.

          Cậu bé chăn trâu thảnh thơi (phần 1)

           

          Xin giới thiệu quý bạn đọc bài chia sẻ của thầy Pháp Cơ, một giáo thọ của Làng Mai đang tu tập tại tu viện Lộc Uyển. Đọc bài thầy, các bạn có cơ hội cảm nhận được trở về với tuổi thơ. Sống lại tháng ngày hồn nhiên trong đời sống hằng ngày của mình, với những kỉ niệm đẹp tuổi  ấu thời có khả năng nuôi dưỡng cuộc đời này nếu ta biết trân quý, bồi đắp và giữ gìn nó!   

          thanhlocuyen.jpgSáng nay con đi thiền hành với đại chúng theo lời hướng dẫn của thầy Pháp Dung: “Thở vào con bước hai bước. Thở ra con bước hai bước” ,….  Đi một hồi,  con thấy tâm con lắng dịu. Con đem tâm lắng dịu của con hướng về những hiện hữu mầu nhiệm, tiếp xúc những vòm cây xanh mát, nắng ấm và hoa thơm cỏ lạ chung quanh Lộc Uyển. Tâm thức con trở nên nhẹ nhàng, bình an và rất thoải mái. Con tiếp tục đem tâm thức nhẹ nhàng thoải mái này tiếp xúc với những gì chung quanh, ý thức rõ sự có mặt của các bạn đồng tu và thiên nhiên. Từ từ con thấy con là một phần của thiên nhiên và con không cần phải cố gắng để thưởng thức thiên nhiên nữa, vì thiên nhiên bình yên bây giờ hình như đã thấm nhuần và đang luân lưu, trôi chảy trong con. Con tiếp tục đi tới và bỗng nhiên con nhận ra rằng: đằng sau con là quá khứ đã qua và trước mặt con là tương lai sắp tới, nếu trước mặt con đẹp và sáng tỏ thì quá khứ sau lưng con cũng đẹp và sáng tỏ. Vì thế, trong hiện tại và tương lai, nếu chúng ta sống đẹp, sống có ý thức thì cố nhiên quá khứ chúng ta cũng sẽ rất đẹp và có ý thức về những kỷ niệm đẹp đó.

           

          Bài học về chăn trâu

          Con có một kỷ niệm về chăn trâu, hồi con còn nhỏ, con sống ở nông thôn, Ba của con làm ruộng, nhà con có đến 13 người con và hơn 30 con trâu; con là em bé chăn mấy chục con trâu đó. Khi chăm sóc đàn trâu, mỗi sáng con thả chúng ra đồng ăn cỏ, đừng cho chúng chạy đi ăn thóc lúa hoặc khoai sắn của nhà người ta, vì thế lúc nào mình cũng phải có mặt cho đàn trâu của mình. Nhưng vì buổi sáng phải đưa trâu ra đồng, lo canh giữ và chăm sóc chúng rồi đến chiều tối lại lùa trâu về nhà, nên em bé chăn trâu không có thời gian để học nhiều. Cho nên hồi nhỏ con đã 13 tuổi mà chỉ học đến lớp Ba thôi. Ở xã hội ta hồi đó, người ta thường chê bai những kẻ ngu dốt, không biết chữ là “đồ chăn trâu”.

           

          Khi chăn trâu, mình phải biết cách gom bầy trâu mình lại, vì trâu có rất nhiều loại. Có con khi mới thả ra là nó chạy đi tìm lúa để ăn và phá khoai phá sắn chứ không chịu nhập theo đàn. Khi đàn trâu đang đi với nhau, có con lặng lẽ tách riêng ra và đi lang thang một mình; có con lại không chịu đi, cứ đứng nguyên một chỗ, không theo đàn trâu ra đồng ăn cỏ. Cho nên nhiệm vụ người chăn trâu trước hết là phải gom bầy trâu lại với “bộ đồ nghề” là khúc cây dài từ 5 đến 7 tấc, gọi là “cây làn can” và một sợi dây dài gọi là sợi “dây dàm”; dàm có nghĩa là kéo và gút lại. Còn cây làn can để dùng khi có con trâu nào không nghe lời thì mình đánh “bốp” vào sừng nó. Cái “dụng cụ” thứ ba mà mình phải có là: trong bầy trâu, mình chọn một con tốt nhất, con trâu đó gọi là con trâu “ven bầy”; chữ ven ở đây có nghĩa là gom lại, và người ta cũng gọi là con trâu “cầm bầy”, cầm có nghĩa là giữ đừng cho nó tản ra. Cho nên con trâu này phải là con trâu nhanh nhất, mạnh nhất và giỏi nhất ở trong bầy.

           

          Con nghĩ cũng lạ! Sao thường người ta cứ hay khinh rẻ kẻ chăn trâu là ngu, là dốt, là không biết chữ, mà trong nghề giữ trâu, người ta lại dùng toàn danh từ Hán-Việt hay chữ Nôm như thế! Cứ “ven” rồi “cầm” nghe sao rắc rối quá! Trở lại chuyện “ven” trâu: trong khi chăn trâu, nếu em bé chăn trâu thấy có con trâu nào rời khỏi đàn, em liền thả con trâu “ven” ra để nó chạy đi “ven” con trâu kia trở về. Khi trâu ăn no rồi thì mình phải biết gom trâu về một chỗ cho chúng nghỉ ngơi, đừng để chúng đi phá phách và cũng để mình có chút thời gian vui chơi. Trâu là một loại súc vật ăn rất lâu no, nó cứ đi, cứ chạy chỗ này qua chỗ khác và nó có thể ăn 5 hay 6 tiếng đồng hồ và mình cũng phải có mặt ở đó. Khi thấy trâu ăn no rồi thì người chăn trâu phải tìm một chỗ trống để lùa bầy trâu đến cho trâu nghỉ, và chỗ đất trống đó gọi là cái “láng”. Láng có nghĩa là rộng, trống trải, không có đối tượng gì để trâu chạy theo. Chúng không còn lúa thóc khoai sắn để phá hoại nữa và khi đó mình cũng được rổi rảnh đôi chút, mình khỏe, mình có thời gian xuống bờ ruộng chơi và chăm sóc con trâu cầm bầy.

          “Ai bảo chăn trâu là khổ,

          Ta ngồi mình trâu, ta vuốt cái hàm râu,

          Và con mắt lim dim, ta nắm đuôi trâu, ta rờ bụng trâu”.

           

          Ngồi chơi với đàn trâu ta thấy bầy trâu thường chơi với những con hạc. Ở đồng trống thường có những con hạc rất đẹp mà người chăn trâu gọi là con “cò trâu” vì nó bự lắm, to hơn những con cò bình thường. Ở quê, con gì bự đều gọi là trâu – con cò trâu. Còn người nông dân, khi gọi thì gọi là “cò ngà”, và người văn thơ một chút thì gọi là con hạc. Con hạc có một cọng lông dài ở trên đầu, nó rất thích những cảnh vắng vẻ, thích sống trên những cánh đồng trống. Khi con trâu đến vùng đất trống trải đó thì hai con vật này hay chơi đùa lân mẫn với nhau. Lúc đó người chăn trâu cũng ca hát vui chơi hoặc bắt chước những điệu ca của con hạc. Con hạc hát rất hay và nó múa cũng rất đẹp. Con trâu thường nằm nhai cỏ và con hạc thì lân la đến gần trâu để ăn, để chơi và để múa hát. Loài hạc múa rất đẹp và hát cũng rất hay. Con hạc nó kêu: “Rờ rờ r r r r, rờ cốc, rờ cốc. Rờ rờ r r r r, rờ cốc, rờ cốc”. Đó là cái âm con hạc phát ra khi nó múa. Tiếc quá, giọng con không trong bằng giọng con hạc, hồi đó con nhại giống lắm!!!

           

          Và khi rảnh rang, người chăn trâu thường học trong những giờ trâu nghỉ ngơi. Con nhớ ở dưới quê người ta có câu: “Khi trâu tắm ao làng, ta ôn lại vần xuôi…”, nghĩa là chỉ khi đàn trâu nghỉ ngơi thì mình mới có cơ hội ôn lại những gì mình đã học, đã nghe. Người chăn trâu phải biết khi nào trâu mình ăn đã no. Mình phải nhìn cái hông bự của con trâu để biết trâu no hay đói; khi hông trâu còn lõm xuống là trâu chưa no và khi hông trâu đầy tròn lên là trâu đã ăn no. Khi hông trâu chưa đầy mà mình lùa trâu về là thế nào cũng bị rầy vì người ta biết trâu ăn chưa no. Khi giữ trâu mà để cho trâu ăn lúa thì người giữ trâu không có giỏi, vì mình lơ đãng hay ham chơi với hạc quá. Trong thi ca Việt Nam người ta nói nhiều về chăn trâu:

          “Ai bảo chăn trâu là khổ

          Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

          Có những ngày trốn học đuổi bướm cạnh cầu ao

          Mẹ bắt được, chưa đánh roi nào đã khóc

          Có cô bé ngồi bên cười khúc khích

          Mắt đen tròn thương thương mãi hay không?”

           

          Có bài nữa là:

          “Chăn trâu đầu đội nón lá che nghiêng

          Ngoắc ngoải trên lưng trâu

          Tay cầm làn can như roi ngựa …”

           

          Người chăn trâu rất hạnh phúc khi mình có những bài như vậy để hát khi mình nghỉ ngơi. Và mình thấy ở trong con người của mình cũng có hình ảnh con hạc và con trâu. Người Đạo Lão thường rất thích con hạc và họ thường ca ngợi con hạc tại vì họ thích sự vắng vẻ. Cái nón họ đội cũng có hình hạc, cái áo họ mặc cũng có hạc, hạc là con vật tượng trưng cho sự cao quý và vắng vẻ. Còn người tu thiền đạo Bụt thường ví cái tâm mình là con trâu vì con trâu hay chạy phá và thích tìm đến những đối tượng khác nhau. Cho nên khi một người đang tu thì người ta gọi đó là người đang chăn trâu, tức là chăn cái tâm của mình đừng cho nó chạy, nó phá; phải hướng “con trâu tâm” của mình đi cho đúng đường.

          Mình cũng có thể thấy trong người của mình có hai phần, vừa có hạc và vừa có trâu, chứ không hẳn là mình chỉ thực tập chăm con trâu của mình thôi. Mình có thể vừa chăm sóc cho trâu và chăm sóc cho hạc cùng một lúc. Bởi vì cái tâm của mình có rất nhiều phần, không phải nó có một con trâu mà nó có cả một bầy trâu. Đó là những giận hờn, trách móc, phiền não là những loại trâu không tốt; chúng chạy loạn và làm cho tâm mình náo động. Cho nên mình phải biết cách, phải có cách để gom chúng lại. Nếu mình là người giữ trâu, mình sẽ chọn con trâu cầm bầy thật giỏi, thật nhanh để gom đàn trâu lại; còn tâm thức mình, mình dùng cái gì để mình gom, mình giữ những phần chạy hoang chạy loạn đó?

           

          Ở đây mình cũng có sợi dây để mình giữ con trâu tâm và lái con trâu tâm của mình, đó là chánh niệm. Chánh niệm có thể ôm được những tâm hành đang chạy loạn và đang làm mình giận hờn, buồn bã. Mình phải biết khi nào một tâm hành nó phát khởi lên và chạy ra khỏi phạm vi ôm ấp của chánh niệm là mình phải biết liền, và lúc đó mình tức tốc cỡi con trâu chánh niệm của mình để theo nó, nhận diện nó thì tự động những tâm hành chạy loạn sẽ gom lại. Vấn đề còn lại là làm thế nào để mình phát khởi chánh niệm để nó có mặt kịp thời, để mình có được một thứ dụng cụ để chăm sóc được đàn trâu lộn xộn trong tâm thức mình.

           

          Có một phương cách như thầy Pháp Dung chỉ hồi sáng là phương pháp  thiền hành, đi và theo dõi bước chân  và hơi thở của mình. Cái đó nó chế tác ra năng lượng chánh niệm để mình có chánh niệm và mình có khả năng chăm sóc được cái tâm của mình. Khi một người chăn trâu không có một con trâu giỏi thì không có cách nào ven được bầy trâu, và người chăn trâu đôi khi phải chạy rã chân mà vẫn không làm gì được. Và khi mình muốn chăm sóc tâm thức của mình mà không có chánh niệm thì cũng như vậy. Cho nên mình phải có thời gian để phát khởi chánh niệm. Người chăn trâu thường lùa bầy trâu của mình ra chỗ đồng trống để nó ăn cỏ và trong lúc trâu ăn thì mình có thể nghỉ ngơi. Cũng vậy, tâm hành mình đôi khi chạy theo nhiều đối tượng, đối tượng bên ngoài cũng như đối tượng bên trong, những phố thị trong con người mình, những giận hờn, buồn lo trong lòng mình. Cho nên mình cần phải biết cho tâm thức mình nghỉ ngơi; giống như người chăn trâu, mình phải đưa tâm thức mình đi đến một nơi có không gian để nó có thể nghỉ ngơi và thư giãn. Lúc đó chính là lúc mình phát khởi chánh niệm trong tâm của mình và mình có khả năng chăn được bầy trâu và những phần lộn xộn của mình.

           

          trauhac.jpg

          …(còn nữa)

          Cậu bé chăn trâu thảnh thơi (phần 2)

          Cá Một Mắt

          Những người bạn nhỏ của tôi

          Tôi muốn giới thiệu người bạn nhỏ của tôi tên Derek. Derek đã làm quen với Lộc Uyển từ hồi còn rất nhỏ. Sáng nay đi chơi với em tôi tình cờ khoác tay lên vai em và thấy em đã cao lên rất nhiều. Đã mấy năm nay em lên Lộc Uyển thường xuyên nhưng tôi cũng không để ý là em Derek lớn nhanh như vậy. Đôi lúc chúng ta sống với một người nào đó trong một thời gian dài và ta không thấy họ thay đổi, nhưng thật ra họ đang thay đổi từng ngày và từng giây phút. Sáng nay đặt tay lên vai em Derek và tôi nghĩ, “Wow! vài năm nữa em sẽ cao bằng tôi.”

          Derek có một nụ cười rất dễ thương, và khi nào lên Lộc Uyển em cũng cười; và mỗi lần nghĩ đến Derek là tôi thấy nụ cười của em. Chúng ta không cần phải làm gì nhiều để nuôi dưỡng bạn mình. Derek nuôi dưỡng tôi rất nhiều với nụ cười của em. Chúng tôi chơi football với nhau, học cách ném banh và chụp banh. Hồi trước, khi tôi ném banh cho em thì em sợ, không dám chụp. Sau đó Derek phải tập rất nhiều để không sợ banh. Khi chúng ta sợ một cái gì đó thì ta mất tự tin. Vì thế Derek phải tập để đừng sợ, phải có tự tin khi trái banh bay tới.

          Derek và gia đình đã lớn mạnh cùng Lộc Uyển. Này Derek! Khi em lên Lộc Uyển lần đầu tiên em bao nhiêu tuổi em nhớ không? Có lẽ bốn tuổi? Bây giờ em mấy tuổi? Mười ba tuổi! Em không ngờ em đã mười ba tuổi, phải không? Derek có chị cũng đang ngồi trong thiền đường này. Lần đầu đến Lộc Uyển, hai em còn rất nhỏ, khoảng bốn hay năm tuổi thôi.

          –  Ở đây có em nào bốn tuổi không?

          –  Em bốn tuổi?

          –  Tên em là gì?

          –  Ananda.

          À, Ananda. Có nhiều em đến Lộc Uyển khi còn nhỏ lắm, và các em lớn lên ở đây.

          –  Em bao nhiêu tuổi, Mazee?

          –  Gần sáu tuổi?

          Tôi còn nhớ em khi mới đến đây em còn rất nhỏ, cao chừng này thôi. Em còn nhớ hồi em còn nhỏ như vậy không? À, trí nhớ em tốt lắm. Khi Derek lớn dần, tôi thường nói với Derek rằng đến tuổi teenager, có lẽ em không muốn gần tôi nữa. Nhưng em bây giờ đã mười ba tuổi, và chúng ta vẫn chơi thân với nhau, phải không?

          Tôi rất hạnh phúc khi thấy các em rất thích đến Lộc Uyển. Sau này, khi các em lớn lên, các em sẽ có nhiều kỷ niệm đẹp về nơi này. Các em có xem “The Little Rascals” chưa? Khi mới đến Hoa Kỳ, tôi đã học tiếng Anh bằng cách xem Alfalfa và Spanky. Các em này đã tạo ra nhiều hỗn tạp, rắc rối, nhưng các em có tính phiêu lưu mạo hiểm, và có trí tưởng tượng rất phong phú. Tôi thấy trẻ em bây giờ phần lớn cũng như vậy. Các em có nhiều tưởng tượng, muốn có những thời gian tự do, không theo giờ giấc đã ấn định. Tôi có hai đứa cháu, sáu và tám tuổi và chúng có sẵn chương lịch cho giờ học dương cầm, giờ tập vũ ballet và giờ đến trường. Thậm chí giờ ăn cũng được ấn định. Khi tôi đến thăm chị tôi, tôi tập sống không theo giờ giấc, cùng với các cháu của tôi chơi đùa và tưởng tượng. Chúng tôi nhặt rất nhiều lá rụng và dán đầy lên tường, và khi ba các cháu đi làm về, chúng tôi phân bua với anh ta: “Cái này không phải là xả rác! Cậu cháu tôi cố tình làm như vậy!”

          Chơi với hồ cá

          Ở đây có bao nhiêu em thường chơi quanh hồ cá trên Xóm Vững Chãi? Để tôi kể chuyện về cái hồ cá này. Hồi đó trước hết chúng tôi đào một hố lớn, và lót một tấm cao su thật rộng để giữ nước. Tôi còn nhớ khi bắt đầu xả nước vào hồ, chúng tôi đã dùng ba vòi nước để chơi trò xịt nước. Chúng tôi thích thú và hăng say xịt nước vào nhau làm áo quần chúng tôi ướt nhẹp cả. Thật là vui khi xả nước vào hồ và thấy cái hồ cá dần dần đầy nước.

          Lúc đó trong hồ chưa có sự sống; không có cây cỏ, chỉ có đá và ít đất bùn. Khoảng một tháng sau đó, chúng tôi thả cá vào hồ. Chúng tôi muốn xem chúng có thích sống trên vùng núi cao này và thực tập với chúng tôi hay không! Chúng tôi “mời” ba chục con cá vàng nhỏ về, đựng trong cái bao nylon. Về đến hồ, chúng tôi đặt bao nylon vào mặt nước hồ một lúc cho nước trong bao có cùng nhiệt độ với nước hồ rồi từ từ mở bao ra. Đàn cá nhỏ lần luợt ra khỏi bao và biến mất. Tôi nghĩ chúng nó sợ. Có lẽ chúng nghĩ, “Chao ôi, sao chỗ này rộng thế!” Khi sống trong bình nuôi cá bằng thủy tinh, chúng chỉ quen bơi tới bơi lui trong một khoảng rất hẹp; nay được thả vào hồ, chúng liền vội vàng tìm chỗ trốn.  Nhưng hồ chưa có cây cỏ gì để trốn nên chúng biến mất vào đáy hồ.

          Trong một thời gian rất lâu, chúng tôi không hề thấy chúng, mặc dù sáng nào tôi cũng ghé ngang hồ để thăm. Một hôm tôi mang theo một hộp Kix loại ngũ cốc và rãi vài hạt này lên mặt hồ. Vài con cá vàng xuất hiện gần mặt nước để ăn nhưng hạt Kix quá lớn so với miệng cá; và khi nhiều con tranh ăn một hạt Kix, chúng trông như đang chơi bóng chuyền hoặc bóng nước (water polo). Hạt Kix nhẹ và tròn nên khi cá đớp vào thì nó xoay tròn, và cá cứ “ném” hạt Kix từ con này sang con kia cho đến khi nó thấm nước và rã ra.

          Đó là những ngày đầu của hồ cá, khi chúng tôi chỉ có bầy cá vàng nhỏ. Bây giờ trong hồ chỉ còn lại vài con thuộc đàn cá này, nhưng chúng đã sinh sôi nẩy nở ra nhiều thế hệ cá. Bây giờ nếu các em lên hồ, các em phải nhìn kỹ mới thấy các con cá lớn, vì khi lớn những chiếc vảy màu đỏ cam sẽ trở thành một hỗn hợp màu trắng và màu cam. Cá vàng khi mới sinh có màu đen. Lớn lên, ánh sáng mặt trời sẽ dần dần thay đổi các đốm đen thành màu cam, có đốm trở thành màu xám hoặc đen, hoặc đen đậm và vàng đậm. Đó là thời niên thiếu của cá và tôi không biết chúng sẽ thành đen, trắng, xám, vàng cam hoặc đỏ. Các em cũng sẽ là cá màu vàng, màu đen, màu cam hay trắng? Các em biết chưa?

          Tôi rất thích ngồi cạnh hồ để cho cá ăn. Sau bữa ăn sáng tôi thường đem vài miếng bánh đã khô cứng hoặc vụn bánh mì cho cá ăn. Chúng trở nên rất thân thiện với tôi và không sợ gì tôi cả. Khi mình sống với chúng và cho chúng ăn, đàn cá sẽ là bạn của mình. Những con cá này trông mỗi con mỗi khác và chúng có những cá tính riêng biệt. Khi cho chúng ăn, ta thấy có con thích nhảy lên để đớp mồi, có con lại chậm chạp, chưa muốn ăn. Giống như đêm hôm qua, khi chúng ta chia sẻ kẹo sô-cô-la, có em nhanh và có em chậm. Cá cũng vậy thôi.

          Khi ăn xong, cá thường bơi chung thành đàn như đi thiền hành; nhưng đây là thiền bơi, dĩ nhiên. Chúng tiêu hóa thức ăn bằng cách đó. Khi chúng bơi thành đàn như vậy, thỉnh thoảng tôi thấy có một con chỉ biết bơi qua phía phải chứ không theo đàn bơi qua phía trái. Vì vậy khi tôi nhìn kỹ tôi thấy con cá này chỉ có một mắt. Nó chỉ biết bơi quanh thành vòng tròn, và thật là lạ, nó chỉ biết quẹo phải thôi. Về phía đầu bên phải nó có con mắt nhưng bên kia thì chỉ có vảy, không có mắt; và vì vậy nó chỉ biết bơi quanh về bên phải. Nếu còn ở trong bình nuôi cá, nó phải bơi những vòng nhỏ hẹp quanh bình như vậy mãi! Nhưng may thay, ở đây hồ rất rộng, nó có thể bơi lội thoải mái hơn.

          Cá Một Mắt trổ tài

          Con cá một mắt này khác với các con khác trong đàn. Các bạn của nó cũng cảm thấy con này rất lạ. Nó không muốn làm theo các con cá khác mà chỉ muốn sống một mình. Có một số cá nhỏ vì không có chuyện gì để làm nên chúng vẫn thường hay đến chọc phá con cá một mắt: “Bạn chỉ có một mắt thôi sao?” “A! Anh ta chỉ có một mắt!” Các con cá nhỏ này không biết rằng con cá một mắt có một tài năng đặc biệt. Cá này có thể nhảy ra khỏi nước. Thỉnh thoảng, các em có thấy con cá này nhảy “puff” ra khỏi mặt nước?  Đuôi của nó rất mạnh. Nó nhảy lên, mắt bên phải nhìn xuống, và phần không có mắt nằm ở phía trên. Các em chỉ cần tưởng tượng rằng mắt của em nằm một bên, và khi các em nhảy lên, các em uốn cong mình để có thể nhìn xuống hồ và nói với các con cá khác: “Này, tôi có thể nhìn thấy các bạn từ trên này!” Các con cá khác sẽ nói, “Bạn đang nói gì vậy?  “Trên này” là ở đâu?  Không có trên này!” Và các em nói, “Nếu các bạn nhảy lên như tôi, các bạn sẽ thấy một cái gì đó rất tuyệt vời.” Nhưng những con cá kia sẽ nghĩ rằng các em ngớ ngẩn hay điên rồ.

          Con cá một mắt thường hay bơi quanh quẩn ở cái góc nhỏ gần thác nước. Nó thích được sống một mình ở đó, trong khi các con cá khác thích bơi lội giữa hồ. Các con cá trong đàn cũng dần dần bớt trêu chọc nó. Một con nói: “Được rồi, anh chỉ cho tôi làm thế nào để nhảy.” Con cá một mắt bắt đầu biểu diễn cho các con khác xem. “Các bạn phải nhảy lên và xoay thân mình sang một bên”. Các con cá khác cố gắng làm theo anh ta và học được cách nhảy lên cao và nhìn xuống hồ như vậy. “Hay quá! Đúng thế! Mình có thể nhảy ra khỏi nước và nhìn thấy các bạn khác ở dưới hồ!” Và đàn cá bắt đầu bàn với nhau, “Có lẽ tất cả chúng ta nên học nhảy như vậy.”

          Và như thế, con cá một mắt đã dạy các đồng loại của mình biết cách nhảy ra khỏi nước. Một số cá còn nhỏ không biết làm thế nào để nhảy lên vì đuôi chúng còn yếu; nhưng các con cá lớn đã đẩy cá nhỏ lên từ bên dưới.  Chẳng bao lâu, tất cả mọi con cá trong đàn đều biết cách nhảy ra khỏi nước. “Puff, puff, puff!”  Đôi khi chúng nhảy lên lá của những cây bông súng – và những tiếng “plop, plop, plop” nghe rất vui tai. Tất cả cá trong đàn đang nhảy! Chúng trông vui vẻ và hạnh phúc lắm. Và tôi cũng muốn biến thành cá!

          Quý vị và các em không thể thấy cảnh cá nhảy trừ khi mình ngồi yên bên bờ hồ này một thời gian khá lâu. Khi các em ồn ào chạy nhảy quanh hồ, hoặc dùng cành cây khô đập vào đá hay cây cỏ để gây tiếng động, đàn cá sẽ không ra trình diễn cho các em xem đâu.

          Sống chung an lạc

          Đàn cá bây giờ đã lớn hơn nhiều. Các con thuộc thế hệ trước bây giờ đã lớn; đã thành “người lớn”. Bây giờ cá trong đàn bàn tính với nhau tìm cách giúp con cá một mắt để nó có thể rẽ trái; để trả ơn con này đã giúp chúng nhảy khỏi mặt nước. Các em biết đó, khi mình chỉ có một mắt thì mình hay sợ, không muốn di chuyển nhiều. Đêm kia, có một em gái trẻ cùng gia đình em đã bị “kẹt” dưới bãi đậu xe.  Vì ban đêm trời quá tối, ba mẹ em không biết phải đi về hướng nào vì họ không thấy đường; còn em nhỏ thì sợ, khóc um lên. Khi các em không nhìn thấy đường, các em sợ, không dám đi, phải không?

          Con cá một mắt này cũng vậy, vì không thể nhìn thấy gì bên trái của mình nên anh ta không muốn bơi qua bên trái. Các con cá khác nói, “Này các bạn! Bây giờ chúng ta phải giúp anh chàng một mắt này bơi qua phía trái.”  Và khi cả đàn chuyển qua trái, nhiều con đã đến bên cạnh con cá một mắt và đẩy nó qua phía trái. Mới đầu, nó muốn giữ xu hướng quẹo phải, nhưng tất cả các cá trong đàn đã đến giúp, nên dần dần nó cũng quen với cách quẹo trái. Chẳng bao lâu, anh ta có thể bơi theo bất kỳ hướng nào, giống hệt như các bạn của mình. Con cá này lớn rất nhanh và bằng tuổi các em. Nó đã bắt đầu tin tưởng vào bạn bè mình, và những con khác cũng không trêu chọc hay chê bai gì nó nữa. Tất cả cá trong đàn bây giờ đã biết chơi đùa vui vẻ và hòa hợp với nhau.

          Bây giờ cá một mắt đã thành một anh cá lớn. Anh ta rất thích màu cam rực rỡ trên lưng và màu trắng dưới bụng. Anh ta là một cá thanh niên rất đẹp trai và anh có thể rẽ trái hay rẽ phải gì tùy ý. Khi anh phải rẽ trái, anh thường nhìn những con cá lớn nhỏ khác chung quanh để kịp thời quay về hướng trái một luợt với chúng, rất nhanh. Con cá một mắt này đã học được cách sống và sinh hoạt chung với bạn bè. Thật thú vị khi nhìn chúng đồng loạt đổi chiều bơi một cách nhanh chóng và nhịp nhàng như vậy.

          Con cá đó có một khả năng rất đặc biệt. Khi một người có chút khác biệt với người khác – giống như cá một mắt – người đó phải có những đặc điểm riêng của họ. Khi thấy một vài người bạn nào đó có một chút bất thường, khác biệt, nếu các em biết kiên nhẫn chơi với họ và quan sát họ, các em sẽ thấy họ có nhiều khả năng đặc biệt. Nếu các em chịu khó ngồi thật yên và nhìn mặt hồ thật lâu, các em sẽ thấy rằng mỗi con cá có những khả năng đặc biệt của nó. Có một con có đuôi rất dài, và một con khác có quá nhiều màu sắc. Hy vọng khi nào các em lên hồ và thấy hai con cá này, các em sẽ biết khả năng đặc biệt của chúng.

          Trở về với chính mình

          Đôi khi các em muốn chạy chơi xung quanh hồ. Điều đó cũng rất thú vị. Nhưng có những lúc các em có thể ngồi gần hồ một mình, và hãy nhìn vào bên góc của thác nước, nơi mà con cá một mắt thích sống. Đó là nơi nó thường trở lại để có mặt với chính nó. Nó thích khu này bởi vì mặt trời rọi xuống đây trước tiên, và nước ở đây rất ấm. Nó bơi vòng quanh rồi vòng quanh, chỉ bơi về phía bên phải, và nó bắt đầu biết thưởng thức lối bơi này. “Có sao đâu. Tôi bơi về phía bên phải.” Và ý nghĩ này đã cho con cá rất nhiều tự tin và hạnh phúc, và có lẽ cũng vì thế mà nó đã phát hiện ra là nó có thể nhảy. Khi các em đang có hạnh phúc, các em không đi tìm bạn bè, không đi tìm những người hiểu mình, và các em không cần tìm sô-cô-la, hoặc cereals, hoặc máy nghe nhạc iPod, phải không? Con cá này cũng vậy. Khi nó có thể chấp nhận chính mình – “Tôi không sao cả! Tôi chỉ bơi sang phải!” – và nó vui, nó hạnh phúc, nó nhảy lên khỏi mặt nước. Và khi đó nó phát hiện ra rằng còn có một cách khác để bơi lội trong hồ.

          Có nhiều bạn thì dĩ nhiên là thú vị. Nhưng cũng không kém phần thú vị khi mình biết rằng có một chỗ rất hạnh phúc trong bản thân; đó là khi chúng ta biết trở về sống với chính mình. Chúng ta không cần một thứ gì cả; chỉ cần ngồi yên và vui với cái mình có, vui với chính mình. Có thể mình có hai tai dài ngắn không đều nhau, hoặc tóc mình quá dài. Ai không có tóc? Tôi có ít tóc! Ai có một mắt? Ồ! Cô này có một mắt, thật là tuyệt diệu! Cô có đủ hai mắt nhưng một con không thấy đường và cô vẫn rất hạnh phúc. Người có thể vui và hạnh phúc với những gì mình đang có, người có thể sống rất hạnh phúc với một con mắt; và cá cũng cũng vậy.

          Cảm ơn quý vị và các em đã nghe câu chuyện của con cá nhỏ. Tôi hy vọng các em rất yêu thích nó. Nếu không tin, các em có thể đi lên hồ cá trên Xóm Vững Chãi và ngồi thật yên. Các em có thể dành một ít thì giờ để được ngồi một mình bên cạnh hồ, và chờ xem con cá một mắt hiện lên từ đáy hồ. Trời hôm nay hơi lạnh nên có lẽ nó sẽ không nhảy. Nhưng nó sẽ lên và nhìn các em. Nếu các em có mang theo một ít cereals thì hay lắm. Các em sẽ thấy con cá một mắt, con cá đuôi dài, con cá nhiều màu sắc và một con cá khác trông rất buồn cười. Những con cá này là thầy của tôi. Chúng dạy tôi rất nhiều về bản thân tôi. Trong thời gian còn ở đây, tôi hy vọng quý vị và các em học được nhiều điều về bản thân mình và tình bạn.

          Mời quý vị và các em thử tìm cái không gian bên trong chúng ta, khi chúng ta ngồi yên một mình. Đôi khi mình có thể ngồi, và đôi khi mình có thể đi bộ. Nếu ngồi trong một thời gian dài, và nhận thấy đau nhức hay ngứa ngáy, chúng ta có thể đứng dậy và đi thiền hành. Một bước, ta thở vào; một bước, ta thở ra. Và luôn nhớ tìm về cái không gian êm ả tĩnh lặng bên trong chúng ta.

          Bây giờ nghe tiếng chuông, các em có thể đứng lên, quay mặt về phía có gia đình các em và Tăng thân; và các em có thể cúi đầu chào. Hai bàn tay các em chắp lại trước ngực như một bông hoa. Các em thở vào và nói thầm, “Búp sen xin tặng người, những vị Bụt tương lai”; và các em cúi đầu chào mọi người.

          Chúc các em may mắn, và là những con cá hạnh phúc!

          Giảng kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại – phần cuối

          Bài kệ 33

          Khổ đa nhi lạc thiểu                       苦  多  而  樂  少

          Cửu khổng vô nhất tịnh             九  孔  無  一  淨

          Tuệ dĩ nguy mậu an                  慧  以  危  貿  安

          Khí y thoát chúng nạn                棄  猗  脫  眾  難

          Hình hài này đem lại khổ lụy nhiều mà an vui ít

          Trong chín kẻ hở, không một kẻ hở nào thanh khiết

          Người có trí tuệ biết bỏ nguy, giữ an

          Chấm dứt ba hoa, trút được mọi khổ nạn.

          Khổ đa nhi lạc thiểu: Chúng ta nói tới hình hài, hình hài đem lại ít an lạc mà nhiều đau nhức.

          Cửu khổng vô nhất tịnh: Cửu khổng là bốn lỗ:  hai lỗ tai, hai mắt, hai lỗ mũi, miệng, hai lỗ phía dưới. Chín lỗ thường tiết ra những chất không thơm, không sạch. Đây là bất tịnh quán, quán thân bất tịnh.

          Tuệ dĩ nguy mậu an: Tuệ là những người thông minh có trí tuệ, người thức giả. Mậu là trao đổi (mậu dịch), đổi nguy lấy an.

          Khí y thoát chúng nạn: Khí là buông bỏ. Trong đời mình có những phù phiếm, ba hoa vô ích. Mình buông bỏ tất cả, chấm dứt ba hoa và do đó thoát được mọi khổ nạn (thoát chúng nạn).

           

          Bài kệ 34

          Hình hủ tiêu vi mạt                  形  腐  銷  為  沫

          Tuệ kiến xả bất tham                      慧  見  捨  不  貪

          Quán thân vi khổ khí                     觀  身  為  苦  器

          Sanh lão bệnh vô thống                 生  老  病  無  痛

          Hình hài này một khi đã hủy hoại sẽ trở thành tro bụi

          Kẻ có tuệ biết buông bỏ không bám víu

          Quán chiếu thấy được thân này là một công cụ mang toàn hệ lụy

          Thì sinh, lão, bệnh, tử sẽ không còn là chuyện đau buồn.

          Hình hủ tiêu vi mạt: Chữ tiêu có bộ kim 金, tức chất kim loại, tiêu là nấu cho chảy ra.

          Thân hình của mình thế nào cũng phải hư nát, tiêu hoại, trở thành bụi. Trong Thánh Kinh nói: Hình hài này do cát bụi làm ra và nó sẽ trở về cát bụi.

          Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

          Để một mai tôi trở thành cát bụi

          (Trịnh Công Sơn)

          Tuệ kiến xả bất tham: Người có trí tuệ thấy như vậy nên không bám víu, không tham tiếc thân xác này.

          Quán thân như khổ khí: Quán chiếu thấy thân thể mình là một công cụ mang theo nhiều hệ lụy. Thấy được thật tướng của hình hài, mình không còn bị kẹt vào nó.

          Sanh lão bệnh vô thống: Sinh, lão, bệnh, tử không còn là sự lo sợ nữa. Mình sợ sinh, lão, bệnh, tử tại vì mình còn bị kẹt quá nhiều vào hình hài này. Nếu thấy được mình không chỉ là hình hài này, lo sợ sẽ không còn nữa.

           

          Bài kệ 35

          Khí cấu hành thanh tịnh          棄  垢  行  清  淨

          Khả dĩ hoạch đại an                       可  以  獲  大  安

          Y tuệ dĩ khước tà                            依  慧  以  却  邪

          Bất thọ lậu đắc tận                         不  受  漏  得  盡

          Buông bỏ được cấu uế, đi trên đường thanh tịnh

          Thì có thể đạt tới cái an tĩnh lớn

          Nương tuệ giác, bỏ tà kiến

          Không tiếp nhận gì nữa thì đạt được tới lậu tận.

           

          Khí cấu hành thanh tịnh: Buông bỏ, trừ diệt những nhiễm ô, hành động cho trong sạch, sống một nếp sống thanh tịnh, trì giới.

          Khả dĩ hoạch đại an: Có khả năng đạt tới an ổn lớn.

          Y tuệ dĩ khước tà: Chữ tuệ có thể được hiểu là các bậc có trí tuệ lớn tức chư Bụt và chư Bồ tát. Mình đừng chung đụng với những người thiếu đạo đức, không có trí tuệ mà phải nương vào những bậc thức giả (y tuệ) để từ bỏ những sai quấy (dĩ khước tà).

          Bất thọ lậu đắc tận: Bất thọ là không tiếp nhận. Lậu là rỉ ra, hữu lậu là còn đi quanh quẩn trong vòng luân hồi, lậu đắc tận là không còn phiền não. Lậu tận thông là phép thần thông diệt được tất cả những phiền não trong quá khứ. Không tiếp nhận những cái tiêu cực, thì những phiền não không còn.

           

          Bài kệ 36

          Hành tịnh trí độ thế                       行  淨  致  度  世

          Thiên nhân mạc bất lễ                    天  人  莫  不  禮

          Sống thanh tịnh, vượt thoát được thời gian,

          Thì cả hai giới thiên nhân đều nghiêng mình kính nể.

          Hành tịnh trí độ thế: Hành tịnh là sống nếp sống tịnh hạnh. Trí độ thế là vượt được thế gian. Thời gian và không gian không còn là nhà tù của mình nữa.

          Thiên nhân mạc bất lễ: Hai giới trời và người đều kính nể.

          Chúng ta phải học, phải nghiên cứu kinh Pháp Cú theo phương pháp sau:

          1. Phải ý thức được Pháp Cú là những bài kệ về giáo pháp mà các tổ đã thu góp và sắp xếp lại thành từng chủ đề. Có những bài kệ nói về Niết bàn, chư tổ gom lại thành một chương gọi là Phẩm Nê Hoàn. Đó là lời Bụt dạy trong kinh dưới hình thức những bài kệ. Trong khi biên tập kinh Pháp Cú, chư tổ đã thâu tóm những bài kệ đó lại thành những chủ đề. Kinh “Rong chơi trời phương ngoại“ (Nê Hoàn Phẩm) là một trong những chủ đề đó. Kinh “Chiếc lưới ái ân“ mà chúng ta đã học, cũng là một chủ đề. Trong khi thu góp các bài kệ để vào một chủ đề, các tổ cũng đã sắp xếp lại; nhưng đó chỉ là sắp xếp tạm thời. Khi học, chúng ta phải học với con mắt của nhà khoa học, có thể Bụt nói câu này ở môi trường này và nói câu kia ở môi trường kia, chứ không phải Bụt nói câu này rồi tiếp tục nói câu kia. Có sự liên hệ giữa câu này và câu kia, nhưng đó là do các tổ sắp lại. Mình phải thấy trước và đừng cho là kinh này Bụt nói từ đầu tới cuối.
          2. Phải phân biệt hai loại kinh. Kinh liễu nghĩa và kinh chưa liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa là những kinh nói về chân lý tuyệt đối (paramartha). Những kinh nói về chân lý tương đối là kinh chưa liễu nghĩa.

          Có kinh nói mình phải thoát cõi sinh tử để đi vào cõi Niết bàn. Như vậy, kinh có hàm ý: có sinh tử và có Niết bàn tách riêng ra khỏi sinh tử. Nhưng có kinh nói: sinh tử chỉ là ý niệm; thật ra, không có sinh, cũng không có tử, như trong Tâm Kinh. Tâm Kinh là một kinh liễu nghĩa. Có kinh nói có bốn sự thật rõ ràng: khổ, tập, diệt, đạo. Bốn sự thật là nền tảng của giáo lý đạo Bụt. Nhưng trong Tâm Kinh nói không khổ – tập – diệt – đạo, nhìn kỹ mình thấy khổ không tự mình nó có. Khổ làm gì có nếu không có vui, vui làm gì có nếu không có khổ. Khổ, tập, diệt, đạo là bốn sự thật; nhưng sự thật này nằm trong ba sự thật kia, mình không thể tìm một sự thật ngoài ba sự thật còn lại. Không có từng sự thật khổ, tập, diệt, đạo nằm riêng rẽ nhau. Chúng ta thấy giống như là hai giáo lý chống đối nhau; nhưng thật ra nó không chống nhau, tại vì một giáo lý nói về chân lý không liễu nghĩa và giáo lý kia nói về chân lý liễu nghĩa.

          Khi các tổ đưa các bài kệ chung vô một kinh, thì có bài kệ liễu nghĩa và có bài kệ không liễu nghĩa nên giống như bài kệ này chống đối bài kệ kia. Mình phải thấy được điều đó và đừng cho tại sao câu kệ này không phù hợp với câu kệ kia. Kinh “Rong chơi trời phương ngoại“ có 36 bài kệ, là một học giả mình phải có khả năng thấy được bài kệ nào là liễu nghĩa và bài kệ nào là không liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa hay, mà kinh không liễu nghĩa cũng hay; mỗi loại kinh có chức năng của nó. Có thể, mình phải bắt đầu bằng kinh không liễu nghĩa, rồi từ từ mình đi tới kinh liễu nghĩa. Mình phải công nhận có bốn sự thật khổ – tập – diệt, đạo; khi nắm vững rồi, mình mới có thể vượt qua. Ngay từ đầu nếu mình nói không khổ – tập – diệt – đạo thì rất khó.

          Có những bài kệ có vẻ như không đi theo những bài kệ khác trong kinh và mình cho rằng trong kinh có sự bất nhất. Là học giả, mình biết đó là những bài kệ bất liễu nghĩa, nên không thể so sánh nó với những bài kệ liễu nghĩa; nhưng nhờ bất liễu nghĩa, mà mình có thể đi tới liễu nghĩa. Mình phải có khả năng nhận diện những bài kệ không liễu nghĩa, nhưng những bài kệ ấy có vai trò giúp mình đi tới chỗ liễu nghĩa. Phải tìm cho ra, một hành giả cũng là một học giả, một nhà nghiên cứu thông minh; phải học hỏi theo tinh thần khoa học, chứ không phải người ta nói gì mình đều nghe theo không điều kiện.

          Có những bài kệ nói về không dơ, không sạch. Trong Niết bàn không có ý niệm dơ và sạch, trong và ngoài, đến và đi, khổ và lạc. Trong khi đó, có những bài kệ nói: Thân là bất tịnh, thì tại sao lại tìm hạnh phúc ở chỗ dơ bẩn? Theo nguyên tắc của kinh liễu nghĩa, không có gì là tịnh hay bất tịnh. Chúng ta có hai con đường để đi tới, vì vậy trước tiên chúng ta phải đọc từ đầu tới cuối, tìm ra bài kệ nào liễu nghĩa và bài kệ nào chưa liễu nghĩa nhưng có công năng đưa tới liễu nghĩa.

          Bốn bài kệ đầu xưng tán Niết bàn, bài kệ thứ nhất nói Niết bàn là cái cao nhất (Nê Hoàn là tối thượng), bài kệ thứ hai nói Niết bàn là tối khoái, bài kệ thứ ba thì dùng chữ tối lạc và bài thứ tư dùng chữ tối an. Bốn bài kệ này có mục đích cho Niết bàn là cái quan trọng nhất. Bài kệ thứ năm hàm ý: tuy Niết bàn có đó, nhưng mình phải biết cách mới có thể đi vô. Sự thật là như vậy: Tịnh độ, Niết bàn, tình thương, hạnh phúc có đó, nhưng có người loay hoay mà không đi vào được. Mình phải biết cách đi vào, vì vậy cho nên mình phải cần thực tập. Bài thứ sáu là một hình ảnh rất thi ca, có thể tại tôi làm thơ nên tôi cho đây là bài kệ đẹp nhất trong kinh:

          Hươu nai nương đồng quê
          Chim chóc nương trời mây
          Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện
          Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi

          Niết bàn có đó, Niết bàn không phải là vấn đề tương lai. Nirvana, trong ngôn ngữ nhân gian, có nghĩa là mát lạnh, là trạng thái không bốc cháy. Những phiền não như đam mê, giận hờn, thù hận bốc cháy làm mình khổ đau. Khi ngọn lửa phiền não tắt thì mình thấy mát, đó là Niết bàn. Định nghĩa đầu tiên của Niết bàn là sự vắng mặt của ngọn lửa phiền não (extinction of fire). Nhưng ngọn lửa phiền não cháy được là nhờ nhiên liệu (fuel), nhiên liệu là sự u mê của mình, tức những nhận thức sai lầm của mình. Mình thấy có sinh, diệt, trong, ngoài, ta và người. Cái thấy lưỡng nguyên đó cần phải mất đi, ngọn lửa mới tắt. Định nghĩa thứ hai của Niết bàn là sự tắt ngấm của những tri giác sai lầm (extinction of wrong perceptions), những ý niệm như tôi và anh là hai thực tại riêng biệt, thân và tâm là hai cái hoàn toàn khác nhau, chủ thể và đối tượng là hai cái tách rời nhau, sinh và diệt là hai cái chống đối nhau, có và không là hai cái chống đối nhau. Những ý niệm đó nhen cho ngọn lửa cháy lên, nên chúng ta phải dập tắt luôn những ý niệm sai lầm.

          Bài kệ thứ sáu cho ta thấy Niết bàn là cái gì đang có mặt cho mình, chứ không phải là cái mình đi tìm cầu trong tương lai ở một không gian khác; cũng như đợt sóng đã là nước và nó không cần đi tìm nước ở một nơi khác. Đợt sóng đau khổ, vì không biết mình là nước, nó sợ hãi những lúc lên xuống, lúc bắt đầu, khi chung cục. Biết mình là nước rồi, lên nó cũng vui, mà xuống nó cũng vui; có nó cũng vui, không nó cũng vui; cao nó cũng vui, thấp nó cũng vui. Niết bàn là cái đã có sẵn, mình chỉ cần tiếp xúc với Niết bàn. Đợt sóng quá bận rộn, nó không tiếp xúc được với bản chất của nó là nước nên nó đau khổ.

          Hai định nghĩa về Niết bàn được lặp lại nhiều lần trong nhiều bài kệ. Ý niệm về ngã, mình có cái ta riêng và người kia có cái ta riêng, đưa tới sự so sánh hơn người, thua người hay bằng người và tạo ra sự đau khổ. Trong các bài kệ được coi là liễu nghĩa có bài kệ nói về sự vắng mặt của các phiền não và có bài kệ nói về sự vắng mặt của các ý niệm sai lầm. Chúng ta phải đọc lại kinh và nhận diện bài kệ nào nói về sự vắng mặt của phiền não và bài kệ nào nói về sự vắng mặt của những ý niệm. Cuối cùng, chúng ta thấy có những chỉ dẫn rất cụ thể để đi vào Niết bàn. Nhận diện được và trở về Niết bàn trong đời sống hàng ngày như chim trở về không gian, cá trở về sông, hươu nai trở về đồng quê. Mình phải tìm về Niết bàn trong đời sống hàng ngày, nhưng làm sao đi về được Niết bàn? Có những bài kệ khác dạy cách chúng ta đi về Niết bàn như sống đời phạm hạnh, giữ giới, quán thân bất tịnh.

          Ông già Noel rất cần thiết cho mình. Khi lớn lên, con nít nhận ra rằng không có ông già Noel; nhưng lúc còn nhỏ, nó rất hạnh phúc tin rằng vào buổi sáng thức dậy thì sẽ thấy có quà của ông già Noel trong chiếc vớ. Trong lúc nó ngủ, ông già Noël vào nhà bằng cách chui xuống theo ống khói. Ba má cũng giả bộ tin theo, để làm cho con cháu hạnh phúc: “Con ngủ đi! Nếu con không ngủ, ông già Noël sẽ không tới!“ Ba mẹ không tin, nhưng nuôi dưỡng niềm tin đó để làm hạnh phúc cho con cháu. Trẻ con lớn lên biết ba má nói dối, nhưng đến khi nó làm ba má, nó cũng lại nói dối với con cháu. Ông già Noël là một sự nói dối trường kỳ từ thế hệ này sang thế hệ khác.

          Mình đi vào chùa lạy Phật, má nói với mình trong chùa có Phật. Chỉ có vào chùa mới gặp được Phật, mình đem nào nhang, nào đèn, nào chuối, nào cam lên chùa cúng Phật. Chỗ mình đi tìm Phật là trong chùa; nhưng khi lớn lên, mình thấy không đúng như vậy. Trong chùa, chỉ có tượng Phật, mình tìm ra sự thật rằng Phật là ở trong lòng. Những người có tu, sớm muộn gì cũng tìm ra sự thật Phật không phải ở trong chùa. Chư tổ và những người tu đều nói Phật tức tâm, Phật ở trong tâm, còn Phật ở trên bàn thờ trong chùa là một cách nói giống như nói có ông già Noël.

          Khi chết, mình đi về Tây phương và gặp Bụt ở đó, hay mình lên thiên đường ngồi bên cạnh Thượng đế, đó là một thứ ông già Noël để nói với con nít. Nếu tu học đàng hoàng, mình biết Bụt có ngay trong tâm mình bây giờ và ở đây. Trong đạo Bụt, có những người tu tập, thực chứng được điều đó và cho chuyện Phật ở Tây phương, hay Bụt trên bàn thờ là chuyện ông già Noël. Họ thấy rất rõ Bụt và Tịnh độ đang có mặt ngay trong giây phút hiện tại, trong con người của mình. Những nhà tu thần bí tìm ra Chúa không phải ở trên trời, mà Chúa có ngay ở đây trong tâm hồn của mình và Thiên quốc có mặt ngay bây giờ.

          Chúng ta ở Làng Mai, đã lặp lại nhiều lần: The Pure Land is here and now and Amitha Buddha is your own nature. Chư tổ cũng có nói: Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ. Nước Cực lạc và Bụt Di Đà ở phía Tây, mình chết rồi mới sang bên đó, đó là chuyện ông già Noël cho những người mới bắt đầu. Nếu tu đàng hoàng, mình không cần phải chết rồi mới đi qua bên đó. Đức Di Đà và cõi Cực Lạc, hay Thượng đế và Thiên quốc, có thực trong phút giây hiện tại. Niết bàn không phải là cõi rất xa mà mình chỉ tới được sau khi chết, Niết bàn là cái đang có bây giờ và ở đây. Niết bàn là tự tánh của mình, mình phải đặt Niết bàn đúng chỗ ở đây và bây giờ. Trong kinh Tạp A Hàm có dùng danh từ ”Hiện pháp Niết bàn” (dristadharmanirvana), tức Niết bàn trong giây phút hiện tại. Mình không muốn là trẻ con bị lừa bởi chuyện ông già Noël, mình phải bước thêm một bước để thấy Niết bàn đó đang có mặt trong giây phút hiện tại, như trời mây đang có mặt cho chim, đồng quê đang có mặt cho hươu, dòng sông đang có mặt cho cá. Niết bàn đang có mặt cho mình, mình phải biết cách trở về Niết bàn trong sự sống hàng ngày. Trong khóa tu tổ chức tại trường đại học Nottingham, tôi có nói chúng ta mất niềm tin nơi Thượng đế và Thiên quốc, cuộc khủng hoảng tâm linh xảy ra ở Tây phương là vì chúng ta đặt Thượng đế sai chỗ. Nếu đặt Thượng đế đúng chỗ thì cuộc khủng hoảng đó sẽ chấm dứt. Đây là vấn đề tâm linh, nhưng cũng là vấn đề văn hóa. Trong truyền thống Cơ đốc giáo, ngày xưa có những nhà tu mystic đã tìm ra được Thượng đế và Thiên quốc không phải là chuyện của tương lai ở đời khác, mà Thượng đế và Thiên quốc có mặt bây giờ và ở đây. Nếu muốn, chỉ cần bước một bước là mình có thể vào Thiên quốc được ngay.

          Trong đạo Bụt nói rất rõ: Khi thở, hay bước đi trong chánh niệm, thì năng lượng của niệm – định – tuệ mở cửa cho mình bước vào cõi không sinh diệt, không phiền não. Sinh diệt chỉ là những ý niệm của mình. Thượng đế có thể được nhận thức như tự tánh bất sinh bất diệt, mát mẻ, không phiền não, đang có mặt cho mình ngay bây giờ. Thay vì đọc theo kiểu ông già Noël: “My Father’s in heaven” mình có thể đọc ”My Father’s right in us”. Chữ Father là một ý niệm; tên Vô lượng thọ, Vô lượng quang của Bụt cũng chỉ là một cái tên; Allah hay God đều là những cái tên. Cái quan trọng là bản chất, là cái vô sinh bất diệt, mát mẻ, không phiền não đang có mặt cho mình.

          Kinh này có tên “Rong chơi trời phương ngoại” (Good time in Nirvana). Nếu đang bị ngọn lửa phiền não đốt cháy, hay đang bị những kỳ thị, những tri giác sai lầm làm cho sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, thì mình không có Niết bàn. Con đường đi vào Niết bàn là con đường rũ bỏ những phiền não, kỳ thị đó. Nhân loại cần phải bước thêm bước nữa, không thể bám mãi vào ông già Noël. Nước Chúa đang ở đây rồi, mình không cần đi, không cần tới. Thượng đế không thể được diễn tả bằng ý niệm có và không, trong và ngoài, ta và người. Bất cứ một ý niệm nào cũng không thể diễn tả được Thượng đế; cũng như không có ý niệm nào có thể diễn tả được Niết bàn, vì Niết bàn là sự dập tắt tất cả những ý niệm, trong đó có ý niệm ta và người, sanh và diệt, có và không. Rất là buồn cười khi nói có Thượng đế hay không có Thượng đế. Thượng đế không thể được diễn tả bằng ý niệm có hay không. Thượng đế hay Niết bàn, vượt khỏi ý niệm có không.

          Tây phương hiện nay có hiện tượng gọi là double belonging, tức người ta vừa theo đạo Chúa vừa theo đạo Bụt, mà không có sự mâu thuẫn, dằn co. Truyền thống này giúp làm sáng thêm truyền thống kia và ngược lại. Mình có thể tự hào mình vừa là con Chúa, vừa là con Bụt. Nhân ngày lễ Noël, xin quí vị quán chiếu về đề tài này. Đây là vấn đề văn hóa. Theo được con đường này, chúng ta chấm dứt được kỳ thị, chia rẽ, đem lại sự đoàn kết và hòa bình cho thế giới.