Bàn tay, bàn tay

đêm trên thành phố lạ

ng trời bình yên

hiền từ biết mấy

đám mây bay

trên một rừng sao trăng

cơ man ánh đèn đêm đô thị

còn vùng trời quê hương tôi

gió nín thinh

tiếng xé không gian

B52

suốt ngày đêm đe dọa

a không dám chín

mạ không dám xanh

rừng loang lổ đầy mình

nhng đám cháy đen

và núi cây từng mảng đau bom đạn

nhng con sông hiền từ

run rẩy

nhng phiên chợ chiều

tt ngấm

đòn gánh buồn trĩu nặng

tiếng trực thăng

 

nhưng hãy còn

uy hùng Cửu Long giang

hò reo hải triều âm sáng mai này bừng dậy

y cho tôi

bàn tay em gang thép

quê hương

đêm nay

đợi chúng ta

đưa thoát lửa bạo tàn.

Từ 1970 đến 1972, đi diễn thuyết các nơi về đau thương của chiến tranh, tôi thường có dịp ngâm bài này bằng giọng Nam. Đây là một trong những bài thơ chống chiến tranh mà tôi rất ưa; tôi đã từng chứng kiến tận mắt những vùng núi rừng bị cày lên từng mảng đau bom đạn. Tại những miền đồng ruộng thuộc các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, quả thật là lúa không dám chínmạ cũng không dám xanh, vì không ngày nào vắng bóng phi cơ oanh tạc. Không hiểu sao tôi lại có đức tin mãnh liệt là hễ mình đi làm việc cứu trợ thì bom đạn phải né tránh mình. V ì thế mà lần nào ra dạy học ở miền Trung tôi cũng tổ chức đi cứu trợ: nhiều lần ghe chúng tôi bị kẹt giữa những cuộc đụng độ mà trong chúng tôi, chưa hề có người nào bị thương…

Thịt da và gạch ngói

y bay thật đã bay đi

nắng im lìm

trưa xế, nao lòng đất cũ

và lửa cháy tàn rồi

mái chùa cong đổ nát

tượng Phật thếp vàng loang lổ ngồi kia, mỉm cười nhìn vôi gạch

chiều thêm im

tiếng sáo diều vi vu tiềm thức

đám mây bay

nát mái chùa làng chở che đàn bé thơ

tóc mướt học trò

nhng đứa bị thương đã về bịnh xá

nhng đứa tắt thở

sẽ được đem chôn sáng mai nghĩa địa cuối làng

âm thầm đất nước tôi

anh chị em tôi – hôm nay còn đang cắn răng chịu đựng

để đâu cho hết căm hờn thống khổ?

chị Năm làm gì với những thúng đạn

nhng trái đạn nổ tung, my mươi mảnh ghép ghim một thân người!

ơi thịt da ơi

và gạch ngói ơi

thế kỷ hai mươi gọi về quá khứ

có phải đứa bé nuôi bằng khoai sắn đất nghèo

sinh sau hiệp định Genève

ng có thịt da, tư tưởng

nô đùa cười vang trên cánh đồng cỏ non mỗi khi tiếng chuông chiều xuống

có phải đã mất từ lâu quyền được làm người?

Trong tập Tiếng đập cánh loài chim lớn có nhiều bài thơ chống chiến tranh rất mãnh liệt như các bài Các anh còn tàn phá đến bao giờ, Bài thơ niềm uất hận Mặt trời tương lai, Chiếc lô cốt cô độc Kẻ thù. Giọng điệu những bài này có khi giận dữ, có khi chua chát, cay đắng. Tôi hiểu tâm sự của Thầy bởi vì mãi đến năm 1968 dân Sài Gòn mới biết được sự tàn phá của chiến tranh cũng đã gây không biết bao nhiêu là thảm hại đau thương. Thời gian này tôi dạy Thực vật ở Đại học Khoa học Huế. Cứ mỗi tháng Viện Đại học Huế gửi vào Sài Gòn cho tôi một vé phi cơ khứ hồi để tôi bay ra Huế dạy mười hai giờ. Tôi thu xếp để dạy hai ngày liên tiếp, mỗi ngày luôn sáu giờ. Sau đó tôi ở thêm năm ngày ở miền Trung để đi cứu trợ nạn nhân chiến tranh ở các làng mạc xa tận Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng Tín. Tại miền Nam, ngoài các giờ làm việc tại Đại học Sài Gòn, tôi cũng đã nhiều lần cùng đi công tác với anh em Thanh niên Phụng sự Xã hội tận Bình Long, An Lộc, đem thuốc, sữa và gạo cho nạn nhân chiến cuộc sau những trận đánh lớn. Chúng tôi đi xuyên qua những cánh đồng và những khu rừng thuộc chiến khu D thăm nhiều xóm làng xơ xác vì bom đạn. Chúng tôi đã khóc với một bà mẹ bên đứa con sáu tuổi bị bom xăng đặc đốt cháy, băng bó toàn thân, chỉ còn chừa hai con mắt. Chúng tôi cũng đã ôm trong tay những em bé cụt chân, gãy tay mới được băng bó sơ sài và hiểu được niềm vô vọng của đồng bào ở các miền chiến tranh này. Tại những địa điểm cứu trợ tôi ăn không được, ngủ cũng không được, trong khi tôi biết tại Sài Gòn, ít ai thấy được thảm trạng của người đồng bào mình trong vùng chiến nạn. Đi cứu trợ về, tôi nhận được bản thảo tập Tiếng đập cánh loài chim lớn. Đọc tập thơ này tôi thấy phải đem in. Thầy ở xa ngàn vạn dặm mà thấy được thảm trạng của người đồng hương rõ hơn những đứa trong chúng tôi lúc ấy sống tại quê hương:

có ai trong chúng ta

lại tàn nhẫn trao cho đứa bé đói khổ

một nắm gạch vụn

khi nó chìa tay run rẩy

xin nửa chén cơm?

các anh đã cho trẻ con chúng tôi

nhng viên đạn những quả bom

các anh đã dội trên đầu chúng

nhng trái bích kích

những trái napalm…

(Các anh còn tàn phá đến bao giờ)

Tôi chạy đi tìm nhà in. Nhà in anh Trần Thanh Hiệp ngày xưa đã chịu in Hoa sen trong biển lửa, không giấy phép, đến hai lần, bây giờ e rằng không dám in sách Nhất Hạnh nữa. Nhà in Công giáo mà cha Lan quen, đã từng in Đối thoại cánh cửa hòa bình, và nhà in thầy Lưu Phương từng in Đừng quên, xin đừng vội quên, cũng không dám nhận. (Hồi đó đã có lệnh cấm lưu hành Hoa sen trong biển lửa Đừng quên xin đừng vội quên trong quân đội). Tôi mang bản thảo tới nhà in chùa Quan Thế Âm do thầy Thông Bửu làm giám đốc và thầy nhận in liền. Tiếng đập cánh loài chim lớn không được lưu truyền rộng rãi bởi vì cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã thiêu hủy mất một trong những kho chứa sách.

Suốt thời gian tôi cho xuất bản và phát hành không có giấy phép các tác phẩm của Thầy, tôi không hề bị bắt. Một hôm chở mấy trăm cuốn Đừng quên xin đừng vội quên trên chiếc Mobylette từ nhà in về, tôi bị cảnh sát chặn lại xét ở ngay cầu Trương Minh Giảng. Tôi nghĩ thế nào tôi cũng sẽ bị bắt, và tôi thanh thản đứng niệm Phật Quan Âm trong khi ông cảnh sát khám xét. Ông mở sách ra đọc: “Em, ở đây mà tôi cũng nghe được tiếng hát của Trịnh Công Sơn…”. Ông cho đó là thơ tình; ông xếp lại và cho phép tôi đi. Thế là tôi thoát nạn. Có một lần từ Sài Gòn ra Huế dạy, tôi lại bị xét và trong giấy tờ tôi lúc đó có một tờ kiến nghị hòa bình do các giáo sư các trường Đại học Sài Gòn soạn thảo. Người cảnh sát trẻ ở Huế đã đọc tờ kiến nghị. Tay ông hơi run. Nhưng ông làm lơ để cho tôi qua. Lần đó tôi cũng thoát nạn. Ấy vậy mà tôi cũng bị bắt một lần trong khi tôi không có tài liệu gì về hòa bình trong người hết. Lần đó tôi cũng ra Huế dạy và trong va li tôi có một tập Hoa sen trong biển lửa của Thảo gửi ra Huế cho mẹ Thảo. Cuốn sách được gói trong giấy bông cẩn thận nhưng tôi nào biết trong đó có cuốn Hoa sen trong biển lửa. Tôi bị bắt một cách vô duyên như thế, bị giam tại Huế một tuần rồi giải về Sài Gòn. Tôi ở trong khám Tổng nha hai tuần, sau đó nhờ Viện Đại học Sài Gòn can thiệp, tôi được thả.

Những giọt không

mát lòng, nhờ

những giọt không

bỗng đâu thuyền đã

sang sông

tới bờ!

t mềm, bãi vắng

nguyền xưa…

Anh Võ Đình và chị Teo Savory (Giám đốc Nhà xuất bản Unicorn Press) đã dịch bài này ra Anh văn và cho đăng ở tạp chí Paintbrush số 4, năm 1975, Wyoming, Hoa Kỳ. Bản Anh văn như sau:

Drops of Nothingness

 

my heart is cooled

by drops of nothingness

suddenly I see

my boat has crossed the river

and already reached the other shore!

soft sand, empty beach

         old promises…

Mưa quê hương

mưa ướt áo ướt đầu

ưt chân em

mẹ thì xa

ti nay ai bắt gió xoa dầu

gió réo gọi chiều nay hung dữ lạ!

trước mặt tôi

nước mưa xóa nhòa phố xá

nhớ tới quê hương

cơn mưa nặng hạt

gió về nghiêng ngả vườn cau.

Bài này chắc đã được viết vào một ngày mưa trên đất khách và đã được tác giả phổ nhạc.

Kiến trúc chân như

đừng la mắng những con chim bé nhỏ

vì tiếng hát ca cần thiết cho cuộc đời

đừng ghét bỏ thân thể em

vì đó là đền thờ linh thiêng của linh hồn nhân loại

mắt trong của em là minh châu ngời sáng chứa đựng bóng hình tam thiên thế giới

và tai em có quyền hạn tối cao với suối chim

với hải triều sớm tối

với Beethoven, với Bach, với Chopin

với tiếng khóc trẻ thơ

vi giọng ru an lành

và bàn tay em

là những bông hoa thương yêu ngàn đời không cần ai hái

(nhng bông hoa còn bừng nở nhiệm mầu

làm diễm lệ cả khu vườn nhân loại)

và vừng trán em

là bình minh sáng nhất của các bình minh

 

đừng phá hoại kiến trúc chân như!

bông lúa, nội cỏ, hương đêm đều đã cất lên tiếng bảo vệ hòa bình

tôi biết một viên đạn đồng có thể đến ghim vào trái tim con sơn ca

sáng nay trên cành xuân

đương ngợi ca cuộc đời tha thiết.

nhưng bông lúa

hương đêm

nội cỏ

rồi ngàn sao, vừng nguyệt,

bằng tất cả sắc mầu, thanh âm, bóng hình,

cương quyết

ng chúng tôi, nguyền bảo vệ cho em.

Tôi có nghe thi sĩ Đinh Hùng ngâm bài này trên Đài Phát thanh Sài Gòn năm 1965. Tôi nghĩ bài này nói lên ước muốn bảo vệ sinh mệnh của tuổi trẻ đứng trước sự đe dọa của bom đạn chiến tranh.

Nhập lưu

mỗi ông thầy tu có một chỗ nơi góc chiếc chiếu để ngồi thiền

hãy ngồi yên trên chỗ đó

trái đất mang tất cả chúng ta đi

và chỗ ngồi cũng như một chỗ ngồi trên toa xe lửa hạng nhì

đến ga rồi thì ông thầy tu cũng phải đi xuống

và chỗ ngồi đó sẽ được phủi bụi đi để cho người khác tới ngồi.

 

mỗi ông thầy tu ngồi trên chỗ nơi góc chiếc chiếu của mình được bao lâu?

tuy thế hãy ngồi yên trên đó

như sẽ không bao giờ có ga để xuống

chiếc xe lửa

chiếc xe đầy lửa trong lòng nó

sẽ đưa ông thầy tu về đâu?

 

mỗi ông thầy tu ngồi kiết già trên chỗ nơi góc chiếu của mình

bắt chước trái núi hùng vĩ

trái núi sừng sững đứng đó

nhưng trái núi cũng xoay tròn theo ông thầy tu

chiếc xe lửa của chúng ta đang đi

 

sáng nay ông thầy tu ngồi vào chỗ ngồi của mình trên góc chiếu, và mỉm cười

tôi không có ngồi hoài đâu ông

chiếc xe lửa khi tới ga sẽ không mang theo tôi

một góc chiếu, hay là một bó cỏ tươi

tôi ngồi xuống

một lần này nữa thôi.

Mt góc chiếu hay là một bó cỏ tươi, hình ảnh này nhắc lại chuyện em bé mục đồng có cảm tình với đạo sĩ Tất Đạt Đa (Siddharta) lúc ấy đang tu trong núi, không biết làm thế nào để tỏ cảm tình ấy của mình liền đem tặng đạo sĩ một bó cỏ tươi em vừa mới cắt để đem về cho bò của em ăn. Tất Đạt Đa cảm ơn, nhận bó cỏ, và trải xuống gốc bồ đề làm nệm ngồi. Tất Đạt Đa ngồi thiền suốt đêm hôm ấy và khi sao mai mọc thì thoát nhiên đại ngộ. Bài thơ Nhập lưu (nhập lưu nghĩa là nhập vào dòng giác ngộ) này đã được tác giả dịch đăng trong tạp chí văn học Unmuzzled Ox ở Nữu Ước, số 1 bộ IV, năm 1976. Bản dịch như sau:

Getting into the Stream

each monk has a corner of the mat

a place to sit

for meditation

there, monk, sit still on it

the spinning earth carries us all along.

the place you sit is like a seat in a second class train

any monk will eventually get off

at his station

and his place will be dusted

for another

how long is the monk to sit

in his corner of the mat?

sit still on it anyway

how long is the monk to sit

in his corner of the mat?

sit still on it anyway

sit as if you will never give it up

as if there is no station to arrive at

the engine with its flames

will carry you along.

each monk will sit in the lotus position

at his corner of the mat

the monk will sit like an ancient

enormous moutain

the moutain is there still

but like the monk is on the turning earth.

this train of ours

this fire-filled engine

is hurrying ahead.

 

this morning

the monk sits as usual

on his corner of the mat

but he grins.

I shall not sit here forever”, he tells himself

“when the train arrives at the station

I will be elsewhere-

a corner of the mat

or an armful of grass

I am sitting down

just one more time.”

Ruột đau chín khúc

1.

i đến đây đ cùng khóc vi các anh các ch,

x s ta đau thương cnh tình ta bi đát

bàn tay tôi đây xin các anh nm ly, xin các em nm ly.

i mun đưc nói cùng các anh các ch: sao t chúng ta cũng phi can đm đ mà lo lng cho tr thơ, cho ngày mai.

2.

đã mt tháng rưi tri sau khi nưc rút, em tôi nhn đưc ca cu tr hai ln, mt ln chưa đy lon go.

ba ngày mi có mt ba cơm, chiu nay ti thăm em, tôi đưc em cho biết rng ti nay em phi ăn đt cau bp thi

thương thay em tôi

(biết bao chiếc đu xanh vô ti

một đàn tr con da ng mt bng )

đi kiết t hơn mt tun nay, kng thuc kng men.

nưc cun mt m em ri, nưc cun mt c cha em, nưc cun mt c em em na

trên chiếc đu t ngây, khăn tang kng có

nhưng nng chiu ng vt trên cánh đng tan hoang xác xơ khn kh

đã chiếc khăn tang ph trn tâm hn tôi.

3.

y ti đây mà chng kiến cnh nhng ngưi thương ca tôi trong trn bão lt Giáp Tn, đến đ m trong tay em xanh xao đã ri ro còn sng.

để thy ngưi cha tr sau khi tìm biết rng v bn con đã chết, trong ba ngày ba đêm đã ngi yên nhìn vào khong kng, thnh thong i lên sng sc

xa xăm anh có nghe thy tiếng i y kng?

y đến đây đ thy c g u bc, sau nhng ngày cô đơn tuyt đi trên mnh đt hoang, đã qu xung đ ly nm cơm cu tr trên tay mt em thiếu nhi ngơ ngác

cụ đã qu trưc tình tơng, trong khi em khóc

c ơi, con ch bng cháu ca c mà thôi!”

nhưng sao, tng đip tình thương đã ti nơi ri

i có quyn đt ng tin nơi ngày mai nhân loi.

 

4.

chng ch đã mt ri, con ch đã mt ri,

vườn dâu tan nát

bếp la làm sao nhóm li, mnh đt nghèo ơi?

trời cho, ri tri ly li,

i s ch tôi chiu nay kng còn kiên nhn,

m ming ra, nguyn ra hin sinh mình.

i khóc khi nghe ch nói rng:

tuy mt pt k khăn

khe thay nhng gia đình chết trn.

nhưng hôm nay còn tôi, còn anh, còn bn

ta chung lưng gánh đy hin hu trên hai vai

y nương vào nhau, gng đng bt lên tiếng kc; con đưng còn i, vì thế h ơng lai, hãy cúi đu đi ti.

5.

ngưi ng dân ngng đu lên khi nghe li tôi hi

chua xót tr li, kng e dè, ngn ngi:

tôi ghét c hai bên

i kng theo Quốc gia

i kng theo Gii phóng

tôi ch theo ngưi cho tôi s sng.

cuộc tn sinh! ôi ti nhc kng chng!

 

6.

trên thưng lưu ng Thu Bn

đứng gia ng

i ct đu ngón tay cho git u đào rơi, hòa tan vào ng nưc

u tôi đã đưc hòa vi ng ng

thôi hãy nm im

tất c nhng ai đã vong thân oan c!

còn nhng ngưi sng, còn ng ng đây

nghe tiếng tr t t muôn trùng đng vng

tôi đã tr v gia nhng thành i cao

để đêm nay nhìn đnh i nghiêng đu nghe ng ng k chuyn

cng tôi còn đây, trong cuc đi hng chuyn

sẽ xin đng bên nhau mà dng li quê hương

7.

nhng trì đa tay còn lm mc nhà trưng

xẻng cuc trên tay

đào đt bc cu

i xung va khóc va chôn nhng thây ngưi sình thi

nhng ng hình Quan Thế Âm, vi vng trán t ngây vô ti

áo nâu

chân đt

nón che đu

lng l đt tng c chân non trên vùng đá sn thương đau

chui vào nhng túp lu con mi dng

bất chp him nguy Quc gia, Vit cng

tìm ti

nhng ngưi thoi thóp

đang nga c ch tng.

8.

tôi đã thy ri bàn tay các em

tuy nh, nhưng hin như tri Đâu La Miên thu trưc

vừa đưa ra đ m ly tr t

t đa bng nhiên lng thinh, nín khóc

mt ngưi m khn kh sáng lên như hai viên bích ngc

khi nhìn hp sa đã t nghìn trùng ng nưc đem đến cho con

 

9.

tôi ngi đây, trưc cánh ca thiên đưng

đương khép cht

tôi cúi đu mong đi

i vưn chc hương cau còn nh ta

nhưng các em sao lng l chiu nay

y ct tiếng n, trên mnh đt đau thương này

ct tiếng n, cho chim xanh ngàn nơi bay v quy t

cho nưc non này mãi còn cm

i lên đi em

hiện hu s bng sinh sau ngôn thuyết nhim mu.

Về tới chùa Từ Hiếu ở Thừa Thiên, sau khi đi cứu trợ bão lụt ở Quảng Nam về, Thầy viết bài thơ này. Đó là vào năm Giáp Thìn (1964). Hồi đó tuy đã đi dạy bên trường Đại học Khoa học Sài Gòn nhưng tôi vẫn còn theo học bên phân khoa Phật học tại Đại học Vạn Hạnh. Tôi đã đi theo đoàn cứu trợ với tư cách Phó chủ tịch Ủy ban Cứu trợ của sinh viên Vạn Hạnh.

Trước chuyến đi, Ủy ban Cứu trợ của chúng tôi gồm tăng sinh, ni sinh và sinh viên cư sĩ đã đi lạc quyên tiền bạc và áo quần tại Sài Gòn và Chợ Lớn. Gần hai trăm thanh niên tăng ni và khoảng năm trăm sinh viên cư sĩ chia nhau thành từng nhóm năm người, đã đẩy xe ba gác đi khắp các đường phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Mỗi xe có mang theo một thùng “phước sương” có niêm phong bằng ấn của Đại học Vạn Hạnh. Chuyến đó chúng tôi quyên góp được, ngay trong năm ngày đầu, trên ba trăm ngàn đồng tiền mặt và bốn tấn áo quần và chăn mền. Tôi còn nhớ, tuy Ủy ban Cứu trợ chúng tôi đứng ra tổ chức, sắp xếp mọi việc, nhưng nếu không có sự đôn đốc của thầy Nhất Hạnh thì chúng tôi cũng khó mà động viên được tất cả các thành phần sinh viên của Viện lúc ấy. Những tốp sinh viên được phái đi về các khu người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn, thay vì mang theo biểu ngữ viết bằng tiếng Việt, đã mang theo những dòng chữ viết bằng Hán ngữ do chính tay Thầy viết. Mỗi nhóm sinh viên có ít nhất là một tăng sinh hoặc ni sinh đi theo, thể theo lời đề nghị của Thầy, và đó là một trong những nguyên nhân thành công lớn trong cuộc quyên góp. Hồi đó đã mời được thầy Minh Châu từ Ấn Độ về để phụ trách Vạn Hạnh nên Thầy có nhiều thì giờ hơn với sinh hoạt của sinh viên. Và cũng chính vì vậy cho nên Thầy đã đi theo đoàn cứu trợ của chúng tôi lên tận vùng thượng lưu sông Thu Bồn. Chuyến đi khá nguy hiểm, bởi vì những cuộc đụng độ giữa hai bên hồi đó thường xuyên xảy ra ở vùng này. Muốn đi tới tận quận Đức Dục hay những làng Sơn Khương, Sơn Mỹ, chúng tôi chỉ có thể đi bằng ghe, vì đường liên xã đã bị chiến tranh và bão lụt làm đứt nhiều đoạn. Ghe phải đi ngang qua nhiều trạm, khi thì do bên này khi lại do bên kia kiểm soát. Các thầy Như Vạn và Như Huệ lúc ấy phục vụ ở Ban Xã hội Giáo hội Phật giáo Quảng Nam nói rằng nếu đoàn cứu trợ có tăng sĩ đi theo và có mang cờ Phật giáo thì có thể qua lọt. Chúng tôi thuê bốn chiếc ghe chở theo gạo, thuốc men, áo quần và xoong nồi rồi theo sông Thu Bồn đi ngược lên miền núi. Càng lên cao càng khó đi. Núi càng cao gió càng lạnh. Có lúc hai bên bắn nhau, đạn bay vèo vèo qua đầu chúng tôi. Đoàn ghe chúng tôi bị chặn lại kiểm soát bốn lần. Có một lần gặp bên Quốc gia, thầy Nhất Hạnh hỏi vị chỉ huy trưởng: “Trong trường hợp chúng tôi bị bên kia chặn lại và đưa truyền đơn thì chúng tôi phải làm thế nào?” Vị chỉ huy ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Thì quý vị cứ nhận, nhưng ra tới giữa sông quý vị sẽ đem thả xuống nước.” Thầy lại hỏi: “Giả dụ như chưa kịp thả xuống nước mà bị phía Quốc gia chặn lại xét thì có nguy không?” Vị chỉ huy kia chỉ cười, không nói gì.

Cảnh tượng Đức Dục sau khi nước rút thật là thê thảm, nhất là những xã ấp xa quận lỵ. Nghe nói chỉ mới tuần trước đây, xác chết còn vướng trên ngọn tre. Khe núi và bờ sông còn nồng mùi hôi thúi. Dân chúng đói đi mót những nắm bắp và gạo đã sình thối còn lại trong các vựa để ăn. Họ ăn rễ cây, đọt dừa. Gần một nửa dân số bị kiết lỵ. Những hình ảnh trong bài thơ là những hình ảnh có thực, một trăm phần trăm. Chúng tôi có gặp một ông già, đi đâu cũng dắt theo con trâu như một người bạn. Ông nói nhờ trèo lên ngồi trên mình trâu khi nước cuốn phăng phăng cả trâu đi mà ông không chết. Lúc nước rút, trở về, vợ con chết hết, nhà cửa không còn, ông lơ lơ lửng lửng như người mất hồn, cứ dắt trâu đi ra đi vào, ai nói gì ông cũng không nghe thấy.

Khởi hành từ lúc trời lờ mờ sáng chúng tôi phải đi chuyến hàng cứu trợ từ tỉnh lỵ Quảng Nam xuống quận Điện Bàn bằng xe hàng vận tải. Từ bến đò Điện Bàn chúng tôi mới lên bốn chiếc thuyền nặng khẳm gạo muối, đường, đậu, quần áo và xoong nồi, thuốc men, theo sông Thu Bồn đi ngược lên mạn núi. Chuyến đi thật vất vả, phải ngủ luôn  hai đêm trên thuyền vì thuyền phải ghé rất nhiều nơi. Cứ ngồi ghe được vài giờ, chúng tôi lại cặp thuyền, đi thăm từng xóm nhỏ, heo hút trên núi, bên khe. Chúng tôi đem theo gạo, áo quần, sữa và thuốc men, tới từng nhà, tùy theo nhu cầu của từng gia đình mà cấp phát. Chia nhau thành nhiều nhóm, chúng tôi làm việc suốt từ sáng sớm tới khi không còn thấy đường nữa. Chúng tôi hỏi thăm cả tình hình chiến tranh và chính trị từng nơi. Dân chúng ở đây ở vào tình trạng trên đe dưới búa. Cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên được là cảnh tượng giờ phút biệt ly ở một ấp heo hút thuộc quận Đức Dục. Lúc đó đã sáu giờ rưỡi chiều, nắng chiều vàng vọt chiếu trên bờ sông. Đồng bào ra đưa tiễn chúng tôi tận bờ sông đứng thành những hàng dài. Bốn chiếc thuyền chúng tôi đã nổ máy; chúng tôi chắp tay chào từ giã. Bỗng nhiên một bà mẹ trẻ ẵm một đứa bé trong tay, lội xuống nước, định trao đứa bé cho tôi. Thiếu phụ nói chị không nuôi nổi con, muốn cho tôi làm con nuôi. Tôi đang còn lúng túng chưa biết trả lời cách nào thì một bà nữa, rồi một bà nữa, rồi mười mấy bà mẹ ẵm con lội xuống bến. Tất cả đều đưa con cho chúng tôi. Hầu hết chúng tôi đều là sinh viên, ni cô hay thầy tu. Chúng tôi làm sao có thể nuôi con được. Hai hàng nước mắt tôi trào xuống. Bọn tôi đứa nào cũng khóc. Thầy Như Vạn lên tiếng: “Chúng tôi sẽ cố gắng trở lại với đồng bào, để giúp đồng bào nuôi con. Chúng tôi không có thể nhận các em bé này được; chúng phải được ở với cha má chúng.” Thầy Như Huệ ra lệnh cho tàu rời bến. Bọn tôi đứa nào cũng một tay đưa lên vẫy, một tay chùi nước mắt. Nắng chiều trên bến sông sao mà buồn thê thảm quá.

Bài Rut đau chín khúc được đăng trên tuần san Thin M số 13 ra ngày 9 tháng 2 năm 1965. Có một buổi sáng tới Vạn Hạnh sớm để nhận chỉ thị về việc cứu trợ, tôi thấy anh bác sĩ Anh Tuấn (Trần Tuấn Phát) với một cái máy ghi âm. Anh nói anh đọc bài Rut đau chín khúc đêm hôm qua và anh cảm động quá. Không biết làm gì, anh đọc bài ấy vào băng nhựa, và đem lên cho Thầy nghe. Tôi hơi tức cười. Nhưng khi được nghe băng, tôi hiểu. Giọng anh chuyên chở được tất cả sự rung cảm của tâm hồn anh khi đọc bài thơ.

Xin lưu ý các bạn đến hai hình ảnh trong Thánh Kinh được dùng trong bài thơ. Hình ảnh đầu:

 

i s ch tôi chiu nay kng còn kiên nhn

m ming ra, nguyn ra hin sinh mình

Nhắc tới Job trong Cu Ước (Après cela, Job ouvrit la bouche et maudit le jour de sa naissance). Hình ảnh thứ hai:

nói lên đi em

hiện hữu sẽ bừng sinh sau ngôn thuyết nhiệm mầu.

Nhắc tới câu đầu của Phúc Âm theo Jean (Au commencement était le Verbe). Thầy nói với chúng tôi: “Mình muốn chấm dứt chiến tranh để có hòa bình thì việc trước hết là mình phải nói rõ ra là mình muốn chấm dứt chiến tranh để có hòa bình.”

Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ

khói lửa dậy mười phương

hoảng hốt cuồng phong

thương đau ngập tràn về sông núi

khóc các anh

thương các em

i còn đây, hồn và xác bồn chồn như đứng trên đống lửa

mẹ thương đau, chiều rám hồng

lòng như sa mạc, mắt khô không tìm ra lệ khóc

chiều nay em về đâu?

bên hông tôi súng nổ

lửa tên làm mẹ ruột gan bời bời héo hắt

mái tóc điểm sương bao nhiêu lần ẩn nhục,

bao đêm chong đèn cầu cho mưa tạnh gió êm?

tôi biết chiều nay chính em sẽ bắn tôi

để lại vết thương cho mẹ ôm ấp ngàn đời nhức nhối

ôi tàn ác những ngọn cuồng phong từ phương nao thổi tới

làm cho nhà tan ca nát,

ra đi, rung vưn k cháy

ngonh nhìn lui, rut tht gan k

ngc tôi đây, em bn đi.

mạch u ca m truyn cho đây, em ct đi.

đ mà xây dng nên lâu đài em ưc

 

anh nhân danh ai

em nhân danh ai

ôi hãy tr v nghe li ru ca m

thương yêu ngt bát canh tn.

nhng đêm bên ưt m nm

bên ráo con n,

tng miếng cơm nhai

từng bu sa cn

bao nhiêu ngày

bao nhiêu tháng

bao nhiêu năm

lo lng cho con nên hình nên vóc

sáng nay mt viên đn đng làm anh n gc

một vn đn đng ghim o gia tim, thân em n lóc

m sng làm sao đưc na, con ơi?

ch sng làm sao đưc na, em ơi?

thương đau chng nào i, bên cnh đĩa du hao xóm cũ?

anh nhân danh ai

em nhân danh ai

ôi hãy tr v qu sám hi i đôi chân m

đừng biến mnh vưn xanh xưa thành mi ngon la d

gió cung tàn bo tha phương

ngc tôi đây, anh bn đi.

mạch u ca m truyn cho đây, anh ct đi.

đ mà xây dng nên lâu đài anh ưc

M tình thương

M kng ch nghĩa

tình thương, mái tranh nghèo có c anh em ta

ch nghĩa, bc trưng thành u la.

M kng có phe, đng t nhn anh v phía m

M kng có phe, đng t nhn em v phía m

M kng có phe

ôi tôi thy ng điu cu xin xót thương rơi u,

M đang chp tay cu khn anh em ta

trưa nay tôi gc đu trên miếng tre xanh lch s

tình thương nơi ta, anh ơi, hình như sp chết

tình thương nơi ta, em ơi, hình như đã chết

như vy, ngưi m hin thân yêu s chết

công trưng u la ta xây, s ca ai đây?

Bài này được in lần đầu ở báo Hi Triu Âm số 18 ra ngày 26 tháng 8 năm 1964. Những bài thơ chống chiến tranh như bài này được đăng tải lần đầu tiên trên tuần báo Hi Triu Âm do Thầy làm chủ bút. Tờ báo này hồi đó bán chạy lắm, in mỗi tuần tới 50.000 số. Thầy Châu Toàn lúc ấy làm thư ký tòa soạn. Trong số những thi sĩ cộng tác với Hi Triu Âm hồi đó còn có Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ (anh Trụ Vũ có ký tên là Trần Đông Phương), Vi Khuê và Tuệ Mai. Thầy Châu Toàn rất thân cận với các thi sĩ Vũ Hoàng Chương và Trụ Vũ. Trong một bữa cơm chay tại chùa Trúc Lâm và tháng 8 năm 1964, anh Vũ Hoàng Chương nói với thầy Châu Toàn rằng trong khi nhóm Sáng tạo đề cao thơ tự do thì người thành công về thơ tự do lại là thầy Nhất Hạnh chứ không phải là những thi sĩ của nhóm Sáng tạo. Tôi không biết nói sao cho phải bởi vì tôi chưa được đọc thơ của những người như anh Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Lúc này, tập thơ Chp tay nguyn cu cho b câu trng hin còn chưa được xuất bản và Vũ Hoàng Chương chỉ mới đọc được những bài đăng trên Hi Triu Âm của Thầy như bài Xóm mi, Aster, La đt em tôi, m bay vưn ci hoa ng, Trưng ca Avril, Đng biến mnh vưn xanh xưa thành mi ngon la dRut đau chín khúc… mà thôi. Tôi nghĩ là Vũ Hoàng Chương chưa từng đọc thơ của thầy Nhất Hạnh trên các tạp chí Pht giáo từ 1949 đến 1963.

Bản Anh văn của bài thơ này cùng với bản Anh văn của bài thơ Tng đip và bài Hòa bình là do chính Thầy dịch để trao cho tờ The New York Review of Books một tờ tuần báo rất nổi tiếng tại Hoa Kỳ, theo lời yêu cầu của ông I. F. Stone. Đây là lần đầu thơ Thầy được một tờ báo lớn như vậy mua nên Thầy thích và có nhắc cho chúng tôi nghe.

Xóm mới

sáng hôm nay hộp diêm của tôi hết rồi

bếp lạnh như trời cuối thu ướt lạnh

tác phẩm dở dang còn đó

i sang nhà láng giềng xin lửa

(hi bé chúng ta thường hai đứa chạy xin)

em hỏi tôi sẽ làm sao nếu nhà láng giềng không còn lửa

cng tôi sẽ họp hai người hát ca

nhớ lời em dặn ‘là những bông hoa’

cng tôi sẽ cầm đuốc đi bên nhau hướng về Xóm Mới

em cũng cứ hát ca đi, trong khi chờ đợi,

thế nào trong xóm ta cũng có nhà còn lửa

thôi tôi xin mọi người đưa tay nói thực: có phải tt cả chúng ta đang tin ở điều đó như đang tin hôm nay ở hiện hữu nhiệm mầu?

i biết có những nhà nghèo, nhưng trấu hồng ngún cháy ngày đêm trong bếp hồng âm ỉ

tôi sẽ nhớ lời em không quấy động bếp lành

một nắm rơm đặt vào

đợi khói tỏa mầu xanh,

em nhìn xem: chỉ một hơi thở nhẹ của hồn tôi thôi

ng đủ gọi về lửa đỏ.

anh về, người lữ khách hôm nay thấy lòng ấm áp

một buổi chiều nhìn khói lam ấp ủ mái tranh thơ

về xóm mới chúng tôi đi! Tất cả vẫn mong chờ

em tôi vẫn còn trông nom chút lửa hồng bếp cũ

mái chèo xuôi nước sông

thuyền về không do dự

sao đêm an lành thuyền anh đi mãi

nhìn bóng chiều sa không ngại

v ì biết tình thương hôm nay còn đủ sưởi ấm ngày mai.

bếp tôi ấm rồi, mời anh về với chúng tôi thôi

công phu của ai ngàn năm bắc một nhịp cầu nối liền xa cách

tác phẩm còn tươi nét mực

lấy giọng trong lành, em tôi sẽ đọc lên cho chúng mình nghe, bên tiếng nổ tí tách của những cành lửa reo vui.

 

Hồi này Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội chưa được chính thức thành lập, nhưng giới trẻ đi về thực tập tại các làng Cầu Kinh và Thảo Điền đã nhiều. Bài này, nếu tôi không lầm, đã được viết để ca ngợi niềm tin của những người trẻ tuổi. Bài này đăng trên báo Hải Triều Âm số 2 ngày 30 tháng 4 năm 1964.

Trường ca Avril

Avril về

trong rừng cây trang nghiêm

tình thương đã từ ngàn xanh nơi suối trong thể hiện

bàn tay mẹ nhiệm mầu

sửa soạn cho chúng ta ra đời

trong hào quang của mùa xuân tình thương ấm áp

đưa tôi ra đời hôm mồng bốn

khắp nơi chim lạ bay về hát ca

ngơ ngác như một con nai con nhìn trời xanh, nhìn suối trong, nhìn lộc non trên cành cây,

tôi về khi vũ trụ đang chuyển mình trong mùa tuôn dậy

rừng cây đang thay áo mới

con nai con khờ dại soi mình trên dòng nước

lắng tai nghe tiếng thì thầm gió lạ

mạch sống dâng

li hát ca trong từng nụ nhiệm mầu

quê hương tôi là rừng sâu

có những thân cây vươn mình thẳng tắp 

mỗi khi nắng xuân về xối chảy trên ngọn cây, hương rừng bay

mây trắng che trên trời xanh biêng biếc.

rừng cây

bãi cỏ xanh non

và một dòng nước thấm lòng đất mát.

 

trời đất vừa sinh ra tôi

chim chóc ca ngày thứ nhất

đất trời dâng hương ngất ngây

tôi lớn lên, dòng suối ca ngày thứ hai

và con nai con tìm tới, ngây thơ, bên bờ xanh mướt cỏ

nghiêng đầu nghe ngóng

nhựa dâng đầu cành giục giã những nụ hoa thẹn thùng chưa muốn hé

cho vừa kịp ngày thứ ba

nắng ấm reo vui trên cành biếc nõn nà

ngày thứ tư vừa lại, hoa anh đào khai hội

có gì mới lạ trong tiếng ca mùa mới đang lên?

ngày thứ năm, bình minh về bất chợt

rừng thức giấc trong mùi thơm ngây ngất

của ban mai kết đọng hương ngàn hoa

và cũng bất thần em về, trong rừng sâu hiển hiện,

em rón rén bước từng bước nhẹ, trên mầu xanh thảm lụa.

con nai con vẫn giương mắt nhìn em ngơ ngác

trong giây phút thiêng liêng huyền hoặc

em biến thành một bông hoa bé nhỏ bám vào lòng đất mẹ thương yêu

nắng lên. Một giọt sương long lanh còn vương trên cánh hoa sao bé nhỏ

nhưng rừng cây không hay

hiện-hữu-em ca bài ca bất diệt

tiếng ca em quen thuộc như đã có tự ngàn xưa trong rừng sâu lặng lẽ nghiêm trang.

con nai con vẫn giương mắt nhìn quanh

không có gì thêm

không có gì mới lạ

không nghĩ rằng em trong rừng sâu vừa lạc

bởi vì tiếng ca em hòa mầu nhiệm trong khúc ca mùa tuôn dậy mầu xanh

bông hoa kia như đã cũng có mặt một lần với đất Mẹ buổi ban đầu.

một con chim nghiêng nghiêng mắt nhỏ nhìn em

và tung ra một tràng ngọc âm thanh trong suốt

chim, hoa, cây, suối

không ngừng ca

cả rừng cây hợp tấu

không ngừng lại để hỏi em có mặt tự bao giờ.

bông hoa bé nhỏ rừng cây      

một phần của hiện hữu vô thỉ vô chung

em không phải tạo sinh mà chỉ là biểu hiện.

rừng cây đã thay xong áo mới

ngày mồng mười có hai đứa trẻ con nhà ai nắm tay nhau tung tăng chạy trên bãi cỏ xanh non, tiếng cười trong veo như tiếng hót chim hoàng oanh buổi sáng

cng băng qua đồng cỏ và dừng lại bên cửa rừng.

nắng phơi phới reo

Avril đã về trong rừng cây” đứa bé thì thầm bên tai đứa lớn

như khám phá ra điều gì tối ư quan trọng

chúng nắm chặt tay nhau và cùng lắng tai nghe…

phải rồi, khúc hát bất diệt mùa xuân

hai đứa nhìn nhau. “Avril đã về trong rừng cây”,

phen này đứa lớn thì thầm bên tai đứa bé.

nắng ấm tràn lan cây cỏ          

bỗng con nai con xuất hiện ở cửa rừng sưởi nắng

bốn gót chân mang theo hương thơm những bông hoa vàng tím trong rừng

có đàn bướm lạ tung tăng đọt cây bờ suối

bay đến gần nai.

nắng ấm vẫn reo

dòng nước vẫn đi vào lòng đồng cỏ xanh êm ái

nhưng con nai con và hai đứa bé đã cùng lạc vào rừng sâu

tìm theo tiếng hát nhiệm mầu.

bỗng nhiên có tiếng nổ dồn dập kinh hoàng

một đàn chim sắt ào ào bay đến

tóe tung lửa đồng khạc trên đồng xanh, mặt suối

rào rào xé mây tung gió

tự nhiên rừng cây bặt tiếng hát ca.

hoa khép không dâng hương

suối trong không soi dáng mây trời

chim chóc lặng im như khi đêm về nằm yên trong tổ kín.

nhưng rồi cuối cùng đàn chim sắt bay đi.

rừng xanh trở về bình an,

thanh tịnh.

rừng cây mỉm cười

tiếng hát ca mùa tuôn dậy vẫn như chưa từng bao giờ đứt đoạn

cành lá chuyền nhau tin vui

tiếng thì thầm êm ái

con nai con đã cùng hai đứa bé tìm ra bông hoa tím nhỏ

(bông hoa vẫn không ngưng lời hát ca)

đứa nhỏ ôm lấy đầu nai

đứa lớn vuốt ve mình nai

tt cả hát theo bài hát ngàn đời của nhiệm mầu hiện hữu

ngoài kia nắng ấm vẫn reo

Avril trong rừng cây nguyên vẹn

dòng suối đi sâu êm êm vào lòng đất

và muôn vạn bông hoa vàng tím đã nở, tự bao giờ, lấm tấm trên cánh đồng cỏ xanh non.

Đây có lẽ cũng là một trong những bài thơ “vui nhất” của Thầy, dù rằng trong đó có dấu tích chiến tranh. Avril tức là mùa xuân, mùa Phật Đản. Thầy viết bài này ở chùa Trúc Lâm Gò Vấp, khoảng trước Phật Đản 1964, hồi đó tôi còn bận rộn với luận án “Thanh tảo, rong nước ngọt” của tôi tại Faculté des Sciences ở Paris. Trà Mi, bạn tôi, hồi đó làm việc tại văn phòng Viện cao đẳng Phật học Sài Gòn đã gởi bài này qua cho tôi đọc. Nét chữ thanh lịch của Trà Mi chép trọn bài thơ trên những tờ giấy xanh đỏ tím vàng xem thật mát mắt. Sau này về Sài Gòn tôi được nghe cuốn băng thơ do tác giả đọc. Đó là vào khoảng 1965. Những chiều thứ Bảy hoặc Chủ nhật, bọn sinh viên thường hay rủ nhau đến thăm Thầy để nghe Thầy nói chuyện và đọc thơ. Có rất nhiều bận, để khỏi phải nói nhiều, Thầy đem cuốn băng thơ của Thầy đọc vặn ra cho chúng tôi nghe. Thường thường những lúc như vậy thì trong phòng chỉ có thắp vài ngọn đèn cầy. Chúng tôi ngồi la liệt dưới đất, đứa thì dựa lưng vào tường, đứa thì ngồi kiết già hoặc bán già. Nghe hết cả hai mặt cuốn băng (chừng một giờ đồng hồ), chúng tôi đứng lên ra về. Suốt buổi Thầy cũng ngồi nghe với chúng tôi mà không phải nói gì cả. Chúng tôi nghe thơ về mà trong người thấy khỏe khoắn lạ thường. Tôi còn nhớ rõ trong cuốn băng ấy có các bài Bướm bay vườn cải hoa vàng, Quán tưởng, Trường ca Avril… Tôi có cảm tưởng thơ của Thầy không thể ngâm theo kiểu Hồ Điệp, Hồng Vân hay Hoàng Oanh được. Chất thơ không mang tính chất sầu đau và vì vậy những giọng ngâm kèm theo tiếng đàn nỉ non thánh thót không hợp. Giọng đọc của tác giả, theo tôi, rất thích hợp với ý thơ.

Bài này được in lần đầu tiên trên Hải Triều Âm số 15 ra ngày 30 tháng 7 năm 1964.