Làm thế nào để thực sự yêu thương chính mình?

Trích buổi vấn đáp ngày 06/06/2014 tại xóm Mới, Làng Mai (được chuyển ngữ từ tiếng Anh)

Điều đầu tiên, bạn hãy thở vào một cách có ý thức và nhận ra rằng: mình đang có một thân thể.

Thở vào, tôi biết rằng mình đang có thân thể này. Thân thể này là một phần vô cùng quan trọng của bạn.

 

Có thể bạn đã từng ngồi trước máy tính suốt hai tiếng đồng hồ, cảm thấy căng thẳng mà không biết cách dừng lại. Trong suốt khoảng thời gian đó, bạn quên mất rằng mình có một thân thể đang hiện hữu. Bạn đang tìm kiếm một điều gì đó trong tương lai hoặc trong công việc. Nhưng trong khi đó, thân thể bạn lại phải âm thầm chịu đựng sự mệt mỏi và khổ đau.

Vì vậy, hành động đầu tiên để thể hiện tình thương với bản thân là thở vào thật sâu và trở về với ngôi nhà của chính mình – thân thể này. Thở vào, tôi biết mình đang có thân thể này. Xin chào, thân thể của tôi! Mình đã trở về rồi đây! Mình sẽ chăm sóc bạn.

Chính sự ý thức về thân thể là điểm khởi đầu cho tình thương. Khi tâm trở về với thân, cả tâm và thân cùng có mặt trong khoảnh khắc hiện tại, và bạn có thể nhận ra hai điều quan trọng qua sự thực tập thở chánh niệm.

Điều đầu tiên, bạn sẽ nhận ra rằng thân thể này là một điều kỳ diệu. Bạn cần tự mình khám phá ra điều ấy. “Body is a wonder.” Các nhà sinh học và nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu về cơ thể con người – một kiệt tác nhiệm màu của vũ trụ. Thân thể không chỉ là phương tiện để bạn sống, mà còn là nơi lưu giữ lịch sử của vũ trụ trong từng tế bào.

Bạn có thể cảm nhận được sự hiện diện của tổ tiên – không chỉ tổ tiên loài người mà còn của các loài động vật, thực vật. Họ vẫn đang sống trong bạn, qua cả những điểm mạnh và điểm yếu. Có thể bạn đã từng xem thân thể là điều hiển nhiên, nhưng thật ra nó chính là một phép màu.

Bộ não của bạn – phần Neocortex (tân vỏ não) – là một cấu trúc tinh vi. Vũ trụ đã phối hợp để tạo nên một điều diệu kỳ như vậy, chính là cơ thể con người. Nếu bạn có thể kết nối với thân thể, bạn cũng đang kết nối với toàn thể vũ trụ – với tổ tiên quá khứ và cả những thế hệ tương lai đã có mặt trong bạn và sẽ tiếp tục biểu hiện.

Vậy, bạn có khả năng trân quý điều kỳ diệu ấy – cơ thể của chính bạn – hay không?
Đất Mẹ hiện hữu trong bạn, không phải chỉ dưới chân bạn hay quanh bạn, mà ở ngay trong cơ thể bạn. Trời Cha cũng ở trong bạn – bạn được tạo nên từ ánh nắng, không khí, nước tinh khiết. Khi bạn nhận ra và trân quý sự thật này, bạn sẽ có được niềm hạnh phúc sâu sắc.

 

 

Thở vào thật sâu, tôi biết mình có thân thể này. Và bạn sẽ bắt đầu tận hưởng niềm vui khi được kết nối với thân thể, với dòng lịch sử sống động trong mình. Bạn sẽ cảm nhận được sự hiện diện của tổ tiên huyết thống. Thân thể bạn chứa đựng thông tin kỳ diệu của vũ trụ. Sự ý thức về thân thể giúp bạn chữa lành và nuôi dưỡng chính mình.

Điều thứ hai bạn sẽ nhận ra khi trở về với thân thể: có thể bạn đang mang trong mình những đau khổ, áp lực. Bởi vì bạn đã để cho căng thẳng và khổ đau tích tụ trong thân thể suốt một thời gian dài. Bạn đã quên mất việc yêu thương, chăm sóc chính mình.

Thở một cách có ý thức giúp bạn nhận diện điều đó. Và đột nhiên, bạn có mong muốn chân thật rằng: mình không muốn thân thể này đau đớn thêm nữa. Đó là lý do bạn thở ra để buông bỏ căng thẳng trong thân thể – một hành động của tình thương.

Những bài tập hơi thở chánh niệm đã được dạy trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở.


Thở vào, tôi ý thức về thân thể mình; thở ra, tôi buông bỏ căng thẳng trong thân thể.


Đó là cách yêu thương bản thân một cách cụ thể. Nhận ra mình có thân thể, và chăm sóc nó bằng sự thư giãn, nhẹ nhàng và tỉnh thức. Khi bạn thực tập thở chánh niệm, bạn sẽ thấy có nhiều sự tươi mát, trị liệu đang có mặt nơi đây. Bạn có thể tự chế tác ra niềm vui, cảm giác hạnh phúc để nuôi dưỡng bản thân. Đó là hành động của tình thương.

Với những người thường xuyên thực tập chánh niệm, việc chế tác niềm vui và hạnh phúc không khó. Vì bạn luôn được bao quanh bởi những yếu tố tích cực và điều kiện hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Bạn hoàn toàn có thể tạo ra niềm vui và hạnh phúc thông qua hơi thở ý thức. Đó chính là cách yêu thương bản thân mình: Cho phép bản thân được nuôi dưỡng bởi sự an lạc.

 

 

Khi bạn có cảm xúc đau buồn, nỗi khổ trỗi dậy, bạn đừng chối bỏ. Hơi thở chánh niệm giúp bạn ôm ấp, nhận diện nỗi đau. Chỉ vài phút thở trong tỉnh thức cũng có thể làm dịu bớt khổ đau trong lòng.

Đây cũng là một hành động của tình thương – yêu bản thân bằng cách chăm sóc những cảm xúc trong lòng. Khi bạn nhận diện và ôm ấp nỗi đau, bạn có thể lắng dịu và vượt lên. Khi nhìn sâu vào bản chất của khổ đau, bạn sẽ thấy rằng nguồn gốc của nó có thể đến từ cha mẹ, tổ tiên.

Khi hiểu được khổ đau của bản thân, bạn sẽ hiểu hơn về cha mẹ, tổ tiên – những người cũng từng chịu khổ như bạn. Hiểu khổ đau sẽ mang lại lòng từ bi – một năng lượng chữa lành mạnh mẽ. Và bạn sẽ bớt khổ đau. Khi bạn bớt khổ đau, bạn cũng có thể giúp những người thân của mình – con cái, cha mẹ, người bạn đời – vơi đi nỗi sầu muộn.

Nếu bạn thấu hiểu được khổ đau của họ, bạn sẽ được thúc đẩy bởi năng lượng từ bi từ bên trong để làm điều gì đó giúp họ bớt đau khổ. Khi họ bớt đau khổ, bạn cũng sẽ thấy nhẹ nhàng và hạnh phúc hơn. Đó chính là cách để yêu thương bản thân. Bạn sẽ không thể thật lòng thương người khác nếu chưa biết cách thương chính mình.
Đó là lời dạy của Bụt.

Yêu thương bản thân là một điều cụ thể: Qua từng hơi thở chánh niệm, bạn buông bỏ căng thẳng, chăm sóc cơ thể, chăm sóc cảm xúc. Đó là con đường trở về, con đường của tình thương đích thực.

Hạt nước nhỏ xuôi về dòng sông

(Lại Thị Phương Thảo)

Bài viết là cảm nhận của một bạn thiền sinh sau khi tham dự tuần tu học với chủ đề : “Giáo viên hạnh phúc thay đổi thế giới” tại xóm Mới, Làng Mai Pháp vào tháng 04.2025 vừa qua. Vốn là một giảng viên, trưởng bộ môn Pháp luật chuyên ngành- viện Pháp luật Kinh tế, luôn tâm huyết và có nhiều thao thức trong hành trình làm giáo dục cũng như truyền trao đến các thế hệ sinh viên trong thời đại xã hội mới. Một chuyến đi thật xa để khám phá, học hỏi thế giới bên ngoài nhưng thật sự đã trở thành một chuyến đi trở về với chính Phương Thảo, để cảm nhận vẻ đẹp thật sự của cuộc sống từ những điều đơn giản nhất. Ban biên tập xin chia sẻ bài viết đến đại chúng cùng cảm nhận.

Khi thấy chúng tôi, hai người Việt Nam bay một hành trình rất xa đến với miền Nam nước Pháp, các quý sư cô ở Làng Mai đều rất ngạc nhiên vì hình như cũng lâu rồi hiếm thấy người Việt Nam sang Làng Mai – Pháp. Phần vì Làng Mai có ở Thái Lan, gần và thuận tiện từ Việt Nam sang hơn. Phần cũng vì mỗi sự gặp gỡ trong cuộc đời đều là kết quả của trùng trùng duyên khởi, nên thực sự có thể đến được Pháp, về với làng là một nhân duyên vô cùng tuyệt vời của hai chị em. Quý sư cô nào gặp cũng hỏi: “Hai chị em ở tăng thân nào? Có sinh hoạt trong tăng thân nào ở Việt Nam không? Tăng thân nào giới thiệu hai chị em sang đây học?”. Chúng tôi chân thành trả lời: “Chúng em không sinh hoạt ở tăng thân nào, vì nhân duyên được biết đến thầy Thích Nhất Hạnh, có tìm hiểu qua các bài giảng pháp, các cuốn sách của Thầy nên yêu mến và theo dõi các thông tin của làng Mai. Khi biết Làng Mai tổ chức khóa học “Giáo viên hạnh phúc thay đổi thế giới” – một chủ đề chạm đến đúng nỗi niềm mong mỏi của hai chị em trong hành trình làm giáo dục, nên chúng em quyết định đăng ký sang học[1]. Rồi các quý sư cô ân cần chăm sóc, hỏi han “Hai chị em đã ăn gì chưa? Trong bếp còn ít đồ ăn của bữa trưa, hai chị em dùng tạm cho ấm bụng nhé!”. Ngày hôm sau, sư cô Định Nghiêm mang đến cuốn sách “Thiền trong lớp học” để tặng hai chị em, còn không quên tâm tình “để sư cô tìm thêm xem có cuốn nào hay nữa sẽ tặng thêm hai em nhé”. Đến ngày “lazy day” – ngày không có hoạt động học tập gì trong chương trình, mọi người có thể tự do tận hưởng khoảng thời gian cả ngày theo cách mình muốn, trong lúc hai chị em đang thơ thẩn đứng ngắm nhìn trời mây, một sư cô đi đến và hỏi: “Hai chị em là người Việt Nam ạ? Mấy nay biết có người Việt mình qua mà sư cô bận chưa có dịp gặp nói chuyện. Hai chị em rảnh không? Mình đi thiền hành quanh làng và cùng nhau nói chuyện nhé”.

 

 

 

Về làng – hai tiếng giản dị và bình yên ấy cứ ngân nga một cảm giác hoan ca trong tâm trí hai chị em từ lúc đăng ký thành công khóa học của làng. Và sau bao gian nan của con đường di chuyển từ Việt Nam sang Pháp, ngồi trên xe taxi của làng đón hai chị em từ nhà ga Saint Foy về Làng Mai, cảnh vật yên bình tuyệt đẹp hai bên đường vén dần ánh nắng, để rồi chào đón hai chị em là một khung cảnh vô cùng an lạc với hai tấm biển gỗ nhỏ bé khiêm cung nhưng đầy sức nặng lay động sự tỉnh thức của mỗi người: “I have arrived, I am home”“Xứ sở của giây phút hiện tại chào đón bạn”. Một cảm giác bình yên kỳ lạ như từ sâu thẳm trong tâm hồn đã bao lâu bị lãng quên nay được gọi về và tan chảy trong từng hơi thở, từng ánh nhìn, từng bước chân nơi đây. Về làng là về nhà – ngôi nhà tràn ngập năng lượng bình an luôn bao dung vuốt ve, chữa lành những tâm hồn đang nhiều những hoang mang lạc lối; rộng mở và vun đắp vững chãi thêm những tâm hồn đang nhen nhóm sự an lạc, tươi sáng trong cuộc đời.

Về làng là về với tăng đoàn, không phân biệt bạn ở tôn giáo nào, quốc gia nào, tăng thân nào. Mọi người đến đây là những dòng nước nhỏ, bình yên bên nhau góp vào dòng sông lớn. Không cần những lời thuyết giảng sôi nổi, chỉ một sự yên lặng hùng tráng, tất cả lặng lẽ đi bên nhau như một dòng sông – dòng sông chảy về sự hạnh phúc trong tỉnh thức. Trong không gian của sảnh ăn – nơi mọi bữa ăn của hơn năm mươi con người diễn ra trong yên lặng, không một lời nói chuyện, không một bước chân to, dùng bát thủy tinh, đĩa sứ và thìa inox nhưng vẫn không vang lên một tiếng động – bức thư pháp của Thầy treo ngay ngắn trên bức tường nơi chính diện “Ngày ấy bên nhau”. Tất cả những suy nghĩ dừng lại trong từng nhịp thở, lặng lẽ tận hưởng bữa ăn qua từng vị giác. Ngày ấy, những con người xa lạ từ khắp mọi nơi đã về đây, dưới ngôi nhà này và trở thành tăng thân của nhau. Nơi đây mọi hoạt động chia nhóm đều được gọi là từng family, các sư cô là sisters, các học viên là những friends. Chỉ với những tên gọi đơn giản đó thôi đã tạo nên một sợi dây gắn kết vô hình giữa những người mới gặp mà không cần phải trò chuyện hàn huyên quá nhiều.

Khi đến Làng Mai rồi, những câu hát trong bài thiền ca “Bạn và tôi” mà tối nào bốn mẹ con cũng bật và hát cho nhau nghe, giờ bỗng trở nên sáng rõ ý nghĩa và lay động trong từng câu chữ:

   Từ muôn phương, đi chung một con đường

   Đến nơi đây, dưới mái chùa yêu thương

   Bạn và tôi, chúng ta cùng chí hướng

   Về cùng nhau, đắp xây nên tình tăng thân.

 

   Ngày hôm nay, đang tu học hết lòng

   Nắm tay nhau đi như một dòng sông

   Nào cười lên, hát ca vì lẽ sống

   Thở đi cho sức vóc mãi thêm nồng.

 

   Dù mai, có thể muôn phương

   Bạn ơi hãy vững bước trên đường

   Không gian sẽ không chia cắt niềm tin

   Mình luôn vẫn mãi trong nhau

   Thuở hồng hoang cho đến thiên thâu

   Thời gian dừng trong hơi thở nhẹ sâu.

 

   Giờ này đây, em có cả đất trời

   Với trăng sao muôn loài cùng mọi nơi

   Mặt trời lên sáng tươi bình minh mới

   Mỉm cười trong bước chân an lạc thảnh thơi.

 

   Cùng nhau chung tay xây dựng thiên đàng

   Sống hoan ca đem cho đời bình an

   Hiểu và thương chúng ta làm nguồn sáng

   Thở đi thôi, là có cả kho tàng.

 

Khi biết hai chị em không ở tăng thân nào, quý sư cô đều nồng hậu chia sẻ: “Ở Hà Nội có nhiều tăng thân của Làng Mai lắm, để sư cô giới thiệu các chị em đến đó sinh hoạt cùng mọi người nhé”. Sự thực tập, rèn luyện nào cũng cần có một tập thể những người cùng mục tiêu, cùng chí hưởng để tạo nên sức mạnh cộng đồng, giúp mỗi cá nhân đi được lâu bền trên hành trình mình mong đợi. Giống như một câu nói quen thuộc đâu đó mọi người vẫn nói với nhau mỗi khi ý chí bị dao động: “Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau”. Hoặc một chân lý giản đơn hơn, đó là cá nhân chúng ta rất dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Nếu chúng ta ở trong môi trường những người nóng nảy, dễ hờn giận, trách móc nhau, ít nhiều chúng ta cũng sẽ bị nhiễm những nét tính cách tiêu cực ấy. Nhưng nếu hàng ngày chúng ta tiếp xúc với môi trường an lạc, những con người hiền hòa, cùng nhau rèn luyện hơi thở, bước chân đi trong chánh niệm, chúng ta sẽ trở nên lắng dịu và nhẹ nhàng hơn. Vì sao ở Làng Mai mọi thứ lại bình yên đến thế? Vì Làng Mai được xây dựng và nuôi dưỡng bởi những năng lượng bình yên từ các sư cô. Bạn dù đang ồn ào huyên náo cười đùa cùng nhau, nhưng khi bước vào không gian nơi các sư cô đi lại nhẹ nhàng, nói chuyện với nhau từ tốn, chừng mực vừa đủ, thì bạn sẽ tự thấy mình cần phải giữ cho sự tĩnh lặng đó không bị phá vỡ. Bạn có thể chưa từng nghe tụng kinh, chưa từng hát thiền ca, nhưng khi một sư cô thỉnh chuông, các sư cô và những thiền sinh của Làng Mai cùng nhau hòa giọng, bạn cũng sẽ vững tin để ngâm nga theo, hòa cùng vào dòng sông ấy mà không lo bị bơ vơ và lạc điệu. Đó là sức mạnh của tăng thân và tăng đoàn. Sức mạnh của ý thức cộng đồng và sự cộng hưởng năng lượng tích cực của tập thể.

 

 

Mình vốn là một người khá tham. Không tham tiền, nhưng tham nhiều thứ, cái gì cũng muốn và lại là muốn ngay. Bạn bè, học trò đều luôn nói mình quá nhiều năng lượng, việc gì cũng thấy hăm hở và tràn đầy nhiệt huyết. Mình tự nhận thấy đó là một ưu điểm lớn của bản thân. Nhưng ngược lại ưu điểm ấy cũng dẫn đến nhiều nhược điểm như: mình hay ôm đồm nhiều thứ và chưa thực sự biết xác định thứ tự ưu tiên cho các vấn đề để buông xuống những điều không cần thiết. Và người hay tràn đầy năng lượng cũng là người dễ cả thèm chóng chán, dẫn đến việc duy trì một hoạt động gì đó lâu bền là điều khá hên xui. Nhược điểm này của mình đã được chỉ trúng trong cuộc nói chuyện khi dạo chơi cùng sư cô Tại Nghiêm. Khi mình hỏi: “Sư cô có thể bày cho em những sách gì của Sư Ông Thích Nhất Hạnh mà sắp xếp trình tự đọc như một lộ trình học hỏi từng bước cho người mới bắt đầu?”. Sư cô đã chia sẻ rằng: “Sách thì có rất nhiều, không chỉ riêng những sách do Sư Ông viết mà còn có rất nhiều đầu sách do các sư cô, sư thầy khác là học trò của Sư Ông. Nhưng trước mắt em cứ đọc hai cuốn đơn giản là “An lạc trong từng bước chân” và “Phép lạ của sự tỉnh thức”. Sau hơn 15 năm xuất gia, đến giờ hai cuốn sách này vẫn là hai cuốn gối đầu giường của sư cô. Chúng ta thường hay có những mong cầu lớn lao mà quên mất rằng những điều giá trị nhất thường là những điều đơn giản nhất. Và dù hành trình có dài đến đâu cũng phải bắt đầu từ những bước đi rất nhỏ. Nếu mình không bước bước đầu tiên, thì bao giờ mình sẽ có những bước tiếp theo? Em cứ đọc hết hai cuốn sách ấy đi, rồi những điều tiếp theo cần đọc sẽ tự nó đến và chờ sẵn em”. Bởi vậy, tăng thân chỉ là điều kiện thêm, không phải điều kiện cần và đủ. Điều kiện cần và đủ là ở chính mình, sự chuyên tâm, nghiêm túc tu tập của chính bản thân mình.

Nếu không có tăng thân là những người đồng tu, đồng chí hướng để yểm trợ cho mình, mình có thể sử dụng rất nhiều những thứ hiện hữu khác để nhắc nhở bản thân thực hành tu tập mỗi ngày. Đó là những thứ mang tính biểu tượng như: một chiếc vòng tay, một sợi dây chuyền với những chữ thư pháp “breath”, “smile”’, “heal” để luôn đeo bên mình; Hay một bức tranh thư pháp treo ở nhà với những lời nhắn nhủ đầy yêu thương “Love is every step”; “Smile to the cloud in your tea”; “Each step brings healing”; “Be still and heal”; “Peace begins gentle smile”; “Welcome to the kingdom of the present moment”; “Thở đi con”; “An trú thảnh thơi”; “Bước chân con hãy về thanh thản”, để khi bước chân về đến không gian gia đình, những nét chữ thư pháp giàu cảm xúc sẽ nhắc bạn đi cầu thang trong chánh niệm, nấu ăn trong chánh niệm, chơi với gia đình trong chánh niệm. Ngoài ra, trong khóa học “Happy teacher change the world”, mình được nghe các thầy cô ở nước Pháp trong phong trào Wake Up Schools trên toàn thế giới (Trường học Tỉnh thức – chương trình đem Chánh niệm vào trường học), chia sẻ về cách thức để tự mình rèn luyện tu tập thông qua bảng theo dõi cá nhân. Bảng đó được xây dựng tùy theo bối cảnh và nhu cầu của mỗi cá nhân, nhưng sẽ theo tinh thần đưa ra các đề mục luyện tập như: Mỉm cười, hơi thở, thiền hành, thiền ăn, thiền buông thư… Mỗi một đề mục sẽ có thang điểm chấm từ một đến năm. Bạn có thể làm hàng ngày, chấm điểm cho từng đề mục, để quán chiếu xem hôm nay mình đã thực hành được đến đâu. Bảng thực hành này có giá trị như một chiếc mỏ neo để nhắc nhở ý thức của bản thân, tự mình có trách nhiệm theo sát quá trình thực hành. Ngoài ra, bảng thực hành cũng có giá trị giúp chúng ta quán chiếu lại và biết được phần nào mình đã thực hành tốt, phần nào mình còn yếu và cần có những giải pháp để tăng thêm hiệu quả trong việc luyện tập.

Và có một sự thật rất giản đơn nhưng không thể phủ nhận, đó là may mắn mình có thể đến được Làng Mai một đôi lần trong đời, nếu tham gia tăng thân thì tính kỷ luật tốt cũng sẽ chỉ gặp được các bạn đồng tu một, hai lần trong một tháng; chỉ có chính bản thân mình là ngày nào mình cũng có thể đối thoại, trò chuyện, chia sẻ về sự tu tập của bản thân. Vậy thay vì hướng về những điều bên ngoài, tại sao bạn không bắt đầu từ sự quay vào bên trong, vun đắp nội lực tự thân? Khi có một cá nhân bước đi với từng bước chân thanh thản, từng hơi thở trị liệu, sẽ góp chung năng lượng tuyệt vời cùng những cá nhân đồng tu khác góp thành một dòng sông mát lành trong một nhân duyên nào đó khi gặp được tăng thân dành cho mình!

 

 

[1] Sau này, khi có dịp giao lưu chia sẻ và nghe chia sẻ từ bạn bè khắp các nước về Làng Mai tham gia khóa học này, chúng tôi mới thấy đó đều là những tâm tư chung của các thầy, các cô giáo – dù là ở bất cứ đâu (Pháp, Hà Lan, Đức, Mỹ, Ecuado, Anh, Tây Ban Nha) hay dạy ở bất cứ cấp học nào (Mẫu giáo, cấp một, cấp hai, cấp ba hay đại học). Tất cả đều biết đến thầy Thích Nhất Hạnh qua những bài pháp thoại trên podcast, nhận ra những chân lý vô cùng giản đơn nhưng sâu sắc và lay động tâm trí, nên mong muốn được về Làng Mai – về nơi Thầy đã xây dựng và bồi đắp những năng lượng tuyệt vời, để được tìm thấy cho mình sự hạnh phúc giản đơn mà bền vững, vững cho mình và sẽ lan tỏa cho những học sinh, những đồng nghiệp thân yêu của mình.

 

Chiếc lá

(John P. Hussman)

John P. Hussman, pháp danh Tâm Thật Hữu (Genuine Friend of the Heart), là Giám đốc của Hussman Foundation, một tổ chức có nhiều dự án cải thiện cuộc sống và giảm bớt khổ đau cho các nhóm dân số dễ bị tổn thương. Hoạt động của các dự án liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau: giáo dục, nhân quyền, sức khỏe toàn cầu, tình trạng vô gia cư, chăm sóc sức khỏe cho người lớn tuổi và hỗ trợ các bệnh liên quan đến thần kinh như chứng tự kỷ và Alzheimer. Kể từ năm 2002, John đã giúp thành lập và hỗ trợ nhiều dự án cho tăng thân Làng Mai. Bài viết được dịch từ tiếng Anh.

“Nếu một ngày nào đó có người nói với con rằng thầy đã qua đời”, Thầy ngưng lại một chút rồi mỉm cười nói: “thì con đừng tin”. Thầy hẳn nhiên sẽ thì thầm: “Điều đó không đúng đâu!”.

Khi tưởng nhớ về cuộc đời một người mà ta thương mến, ta có khuynh hướng đóng khung sự hiện hữu của họ trong hai mốc thời gian, sinh ra và mất đi: Thích Nhất Hạnh (1926 – 2022).

Hai mươi năm trước, tôi được gặp Thầy lần đầu tiên sau khi đọc rất nhiều sách của Thầy. Cuối cùng, tôi quyết định tham dự một khóa thiền tập do Thầy hướng dẫn. Lúc đó quỹ từ thiện của chúng tôi đang hoạt động giúp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở rất nhiều trường học tại Việt Nam, cũng như ở vùng dọc biên giới giữa Thái Lan và Miến Điện. Thầy lúc ấy cũng đã quán chiếu về sự tiếp nối của mình và mong ước duy trì hoạt động bảo trợ cho việc đào tạo và nuôi dưỡng tăng thân xuất sĩ. Khi trò chuyện với Thầy, chúng tôi vô cùng ấn tượng trước cái thấy sáng tỏ và sự kiên định trong những quyết định của Thầy. Bằng cái nhìn sâu sắc với những gì đang diễn ra trong hiện tại, Thầy có thể thấy trước được những khả năng có thể xảy ra trong tương lai, để từ đó chọn cho mình một bước cẩn trọng trên con đường hành đạo.

Đối với Thầy, ngay cả những hành động, cử chỉ giản đơn cũng đều chuyên chở năng lượng chánh niệm và lòng biết ơn. Tôi còn nhớ lần được đi thiền hành cùng Thầy và Sư cô Chân Không quanh một vườn cây ăn trái. Chúng tôi dừng lại hái táo rồi cùng ăn bên nhau, tận hưởng sự có mặt của nhau mà không cần nói năng gì. Cả thế giới dường như ngưng đọng lại trong khoảnh khắc ấy. Hiện tại và chỉ hiện tại mà thôi!

Mỗi lần gặp lại, Thầy thường nắm lấy tay tôi. Thầy trò nhìn nhau trong chốc lát rồi cùng thở và cười với nhau. Cứ mỗi lần gặp gỡ, Thầy thường ban cho tôi một bài pháp ngắn. Mặc dù, có lẽ chúng tôi chỉ gặp được Thầy mỗi năm một lần, nhưng giọng nói của Thầy dần dà đi vào trong tôi. Tiếng Thầy đã trở thành tiếng lòng tôi và với thời gian, thành tiếng lòng của vợ, con và cả gia đình, bạn bè tôi. Những lời dạy của Thầy đã ảnh hưởng tương tự đến không biết bao nhiêu người. Lời Thầy như tiếng gọi đưa ta nhẹ nhàng trở về với giây phút hiện tại, tiếp xúc với những gì tốt đẹp trong ta. Truyền cảm hứng để ta thêm hiểu, thêm thương chính mình cũng như những người xung quanh và sách tấn ta từng bước trên con đường thực tập chánh niệm.

Thầy đã đóng vai trò một vị thầy tâm linh với nhiều niềm vui, sự nghiêm túc, tâm học hỏi và sự thiền quán sâu sắc. Khi giảng dạy, Thầy không những lấy ví dụ từ kinh điển mà còn trích dẫn tư tưởng của các nhà thần học, triết học cũng như các nhà văn nổi tiếng. Những ai đã từng đứng trên bục giảng đều có thể cảm nhận được niềm vui của Thầy khi đứng trước tấm bảng trắng giảng về các hạt giống trong tàng thức, về sự thấu hiểu – nền tảng của tình thương đích thực và tầm quan trọng của việc có mặt cho nhau – “Tôi đang có mặt cho bạn và tôi biết bạn đang có đó cho tôi”.

Hình ảnh thiên nhiên luôn có mặt trong những ví dụ của Thầy: cây cối, chiếc lá, hạt giống, cơn mưa, giọt nắng, con sóng, dòng sông, đám mây, bầu trời và mặt trăng. Và không kém phần quan trọng, cả trên bình diện thiên nhiên lẫn con người, Thầy luôn nhìn thấy điều tốt đẹp nhất trong mỗi sự vật và con người. Những phẩm chất Thầy nhìn thấy ở thế giới phản ánh những điều tốt đẹp trong tim Thầy, mà Thầy gọi là “tự tánh”. Khi nghe Thầy giảng, ta hiểu ra rằng những khái niệm như vô ngã, vô thường, tiếp nối, từ bi, bất bạo động, hòa giải, không phân biệt và tình thương, không phải là những khái niệm riêng rẽ hay trừu tượng, nhưng là những đúc kết tự nhiên đến từ sự quán niệm về tự tánh trong mỗi chúng ta – rằng bản chất của chúng ta là như nhau; rằng chúng ta tương tức. “Chúng ta trống không, nhưng không có cái gì? Không có một cái ngã riêng biệt mà lại chứa đựng toàn thể vũ trụ”. Sóng cũng đồng thời là nước.

Thầy buộc phải sống hàng thập kỷ lưu đày xa quê hương, một cái giá khá đắt cho những nỗ lực kêu gọi hòa bình, từ bi và không kỳ thị – dù đối với những người mà người khác có thể gọi là “kẻ thù”. Nhưng rõ ràng là giữa tất cả những bạo động, xung đột, thế giới vẫn đẹp và từ bi hơn nhờ có Thầy.

Là một vị thầy chân chính, Thầy không có xu hướng đưa ra những khái niệm cao siêu, làm cho sự giác ngộ trở nên cao tột, xa vời đối với các đệ tử của mình. Chỉ cần một bước chân đi trong chánh niệm là đã đủ để nói rằng “Con đã về. Con đã tới”. Mức độ chánh niệm trong ngày của ta dù chỉ mới một phần trăm thôi cũng không sao, cứ thực tập, rồi năng lượng chánh niệm sẽ từ từ tăng tiến. Không nhìn sự thực tập chưa hoàn thiện của ta là một sự thất bại, Thầy chỉ cho ta thấy ngôi sao Bắc đẩu và chỉ bày những phương thức thực hành đầy từ bi, bao dung, giúp ta chữa lành, tha thứ, chấp nhận và lớn lên. Và để thấy: Không có bùn thì không có sen.

Khi nghe Thầy giảng, ta không cần quán chiếu về tiếng vỗ của một bàn tay để thấy sự sống đang có mặt trong phút giây hiện tại và thấy vạn vật tương tức với nhau mà không có một cái ngã riêng biệt. Tôi vẫn nhớ rõ bài học như một công án mà Thầy đã truyền đạt cho chúng tôi trong một khóa tu. Đó là lúc Thầy vào bếp và thấy đệ tử đang nấu ăn. Thầy nhắc vị ấy trở về với phút giây hiện tại bằng câu hỏi “Con đang làm gì đó?”

“Dạ, con đang cắt cà rốt”.

Thầy mỉm cười nói: “Mắt Thầy còn tốt, Thầy thấy con cắt cà rốt mà. Con đang làm gì đó?”

Giống như vị thiền sư dạy đệ tử cách quán chiếu cây tùng trước sân, Thầy khai sáng cho đệ tử mình bằng những khích lệ về thực tập chánh niệm, tuệ giác và tương tức. Ta có thể tưởng tượng Thầy đang mong đợi nhìn thấy đệ tử của mình, tay cầm miếng cà rốt giơ lên và mỉm cười như ngài Ca Diếp trên hội Linh Sơn.

Đệ tử của Thầy đến từ khắp mọi miền và mọi nền tôn giáo nhưng Thầy luôn có cách chỉ dạy dung hòa được mọi sự khác biệt. Thay vì bị kẹt trong giáo điều hay một hệ tư tưởng, Thầy dạy đệ tử thấu hiểu về tương tức. Thầy không ngần ngại giảng về vũ trụ, Thượng Đế, Niết bàn và cõi Tịnh độ của Bụt trong cùng một bài giảng. Thầy không phân biệt gì cả. Nếu tất cả chúng ta đều có chung một cội nguồn, thì không có mong ước nào lớn hơn là chúng ta có đủ tỉnh thức để nhận ra tính nhân bản trong nhau.

Thậm chí khi nói về “cái chết”, Thầy cũng giảng một cách rất nhẹ nhàng. Thầy từng kể câu chuyện có một bé gái hỏi Thầy: “Thầy ơi, trong kiếp sau của Thầy, Thầy muốn trở thành gì?”. Sau một hồi suy nghĩ, Thầy trả lời: “Thầy thấy là Thầy có thể trở thành nhiều thứ lắm, là con bướm nè, là đám mây nè và cũng có thể là một bông hoa vàng nữa”. Rồi Thầy dí dỏm nói thêm: “và nếu con không chánh niệm, con có thể giẫm lên Thầy đó”.

Những giây phút bình dị bên Thầy là những khoảnh khắc đọng lại trong tâm trí tôi nhiều nhất. Khi tôi và Terri được làm lễ hằng thuận tại Làng, Thầy nâng lên một lá sen và chỉ cho chúng tôi thấy cọng lá sen tuy bị bẻ đôi nhưng hai đoạn vẫn còn dính nhau nhờ sợi tơ sen. Hay một lần vào giờ dùng cơm, Thầy bất chợt phá tan sự im lặng bằng cách trở đầu đũa, gắp vào chén tôi một món chiên. Rồi Thầy mỉm cười với ánh mắt sáng rỡ hào hứng và nói: “Đó là chiếc lá”.

Tìm thấy niềm vui từ những thứ rất đơn giản như chiếc lá khiến tôi nhớ lời tựa mà Thầy viết cho cuốn sách của Sư cô Chân Không, Learning True Love (tạm dịch: “Tình thương đích thực”):

Đó là vào năm 1966. Cuộc chiến tại Việt Nam đang ngày càng khốc liệt. Tôi mải miết nghĩ cách để kêu gọi chấm dứt chiến tranh, và nhiều khi không thể nuốt trôi miếng cơm nào mỗi khi nghe tin một trận chiến khốc liệt vừa xảy ra. Bữa đó, sư cô Chân Không đang chuẩn bị một đĩa rau thơm. Sư cô quay qua hỏi tôi: “Bạch Thầy, Thầy có thể cho con biết những loại rau thơm này ở miền Bắc gọi là gì không?”. Nhìn sư cô đang cẩn trọng đặt những nhánh rau vào chiếc đĩa lớn với tất cả sự chú tâm, tôi bỗng bừng tỉnh. Thầy trò chúng tôi trao đổi với nhau mười phút về những loại rau thơm ở miền Nam, Trung và Bắc. Tâm trí tôi thoát khỏi những suy nghĩ về cuộc chiến. Khoảng thời gian đó đủ giúp tôi lấy lại được sự cân bằng mà tôi đang rất cần. Nhiều năm sau, một người bạn Mỹ hỏi tôi: “Thưa Thầy, Thầy trồng rau và xà lách làm gì cho mất thời gian. Thầy dành thời gian đó để làm thơ có hơn không? Ai mà không trồng được rau xà lách, nhưng ít ai có thể sáng tác những bài thơ sâu sắc như thơ của Thầy”. Tôi mỉm cười đáp: “Bạn ơi, nếu tôi không trồng những cây xà lách thật chánh niệm như vậy thì tôi không làm ra những bài thơ như vậy được”.

 

 

Thỉnh thoảng Thầy kể về giây phút Thầy ngừng lại tất cả mọi việc đang làm để quán chiếu một chiếc lá.

Tôi hỏi chiếc lá: “Em có sợ mùa thu không, vì tới mùa thu, em sẽ phải rời cây?”. Chiếc lá đáp: “Dạ không. Suốt mùa xuân và mùa hạ em đã sống rất đầy đủ. Em đã giúp cây hết lòng để cây được sống. Em thấy mình trong cây. Em thấy mình là cây, em không phải chỉ là một chiếc lá. Khi em trở về đất, em sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cây. Em chẳng có gì phải lo sợ cả. Khi em rời cành bay bổng trên không, em sẽ vẫy tay chào cây: Ta sẽ gặp lại nhau một ngày rất gần”. Chiếc lá vừa nói xong thì một ngọn gió thoáng qua. Chiếc lá bay lượn nhẹ nhàng trước khi rơi xuống đất.

Cũng như chiếc lá, Thầy không lo lắng gì về sự tiếp nối của mình. “Chúng ta ai rồi cũng già. Ai rồi cũng ốm đau bệnh tật”. Thay vì trốn tránh sự thật ấy, Thầy dạy chúng ta quán chiếu để sống cho sâu sắc và với lòng biết ơn. Khi Thầy bị bệnh và không thể đi được, cả đại chúng bao quanh giúp Thầy như “một bầy ong vui vẻ”, lời của Sư cô Chân Không. Tôi luôn nhớ một lời nhắn nhủ được dán trên thất của Thầy: “Khi đi, con nhớ đi cho Thầy”.

Trong những lần tới thăm Thầy sau cùng, Thầy nói chuyện rất khó khăn. Thầy trò chỉ đứng nhìn nhau, thở và mỉm cười, không cần một lời pháp nào cả. Rồi tôi nói: “Thưa Thầy con đang có mặt đây cho Thầy và con biết Thầy cũng đang còn đó cho con”. Ánh mắt Thầy sáng bừng và Thầy cười thật tươi.

Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng chúng ta đã “mất” Thầy rồi. Chắc hẳn Thầy sẽ thì thầm: “Điều đó không đúng đâu!”. Thầy luôn còn đây, trong đám mây, cánh bướm, bông hoa, chiếc lá, trong muôn vàn biểu hiện của cõi tịnh độ và trong bản môn. Tất cả những biểu hiện mầu nhiệm đó đang giữ gìn Thầy cho chúng ta.

“Thân này không phải là tôi. Tôi không kẹt vào nơi thân ấy. Tôi là sự sống thênh thang. Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt”. Thầy chưa bao giờ sợ hãi vì Thầy thấy rõ ràng sự tiếp nối đẹp đẽ và vô tận của mình nơi các đệ tử – xuất gia cũng như tại gia; trong mỗi hơi thở, nụ cười chánh niệm, trong những hành động, lời nói đầy bình an và từ bi đang lan tỏa như những gợn sóng trên đại dương.

Cho tình thương thêm sâu

(Phỏng vấn Marisela Gomez – tăng thân ARISE)

Marisela Gomez (Chân Biểu Tôn), giáo thọ cư sĩ của Làng Mai, là người đồng sáng lập tăng thân ARISE vào năm 2016. ARISE là từ viết tắt của “Awakening through Race, Intersectionality, and Social Equity”, tạm dịch là: “Tỉnh thức trong vấn đề chủng tộc, sự đan xen giữa nhiều hình thức phân biệt đối xử và các hoạt động vì công bằng xã hội”. Lấy gốc rễ từ truyền thống thiền tập Làng Mai, tăng thân ARISE cam kết thực tập chánh niệm trên tinh thần nhập thế để góp phần mang lại công bằng chủng tộc và xã hội. Bài phỏng vấn này được BBT thực hiện vào tháng 6 năm 2022 và được dịch từ tiếng Anh.

 

 

BBT: Chào chị Marisela, xin chị chia sẻ về hoàn cảnh ra đời của tăng thân ARISE và điều gì đã tạo cảm hứng cho chị trong việc xây dựng tăng thân này?

Marisela: Trong chuyến hoằng pháp của tăng thân Làng Mai tại Mỹ vào năm 2015, có một buổi chia sẻ chuyên đề về bình đẳng chủng tộc tại New York với chủ đề: Where Spirit Meets Action (tạm dịch: Nơi tình thương biến thành hành động). Tại tu viện Lộc Uyển cũng có một buổi chia sẻ về chủ đề này. Trong cả hai buổi chia sẻ đó đều có ý kiến cho rằng sự có mặt cũng như tiếng nói đại diện cho nhóm người da đen, bản địa và người da màu là chưa đủ. Ở Mỹ thường dùng từ BIPOC, viết tắt của “Black, Indigenous, and People of Color” để nói về người da đen, người bản địa và người da màu. Còn ở Anh thì dùng từ BAME (Black, Asian, and Minority Ethnic), nghĩa là: người da đen, người gốc Á châu, và người dân tộc thiểu số.

Trong tăng thân, cộng đồng BIPOC thường được đại diện bởi các xuất sĩ người Việt, nhưng vẫn còn rất hiếm người da đen, người Mỹ La Tinh cũng như người bản địa. Một số người trong cộng đồng BIPOC, trong đó có tôi, đã đặt câu hỏi: “Chúng tôi đang ở đâu và tại sao chúng tôi không có đại diện trong tăng thân?”. Khi đặt ra câu hỏi này, chúng tôi thường nhận được câu trả lời nôm na là: “Chuyện đó không quan trọng, vì thực ra chúng ta giống nhau, chúng ta tương tức và chúng ta là một. Nói như các bạn có thể gây chia rẽ trong tăng thân”. Nghe vậy chúng tôi rất đau lòng. Trong khi đó, những gì chúng tôi đối diện trong đời sống hàng ngày liên quan đến vấn đề chủng tộc vẫn không ngừng gây ra những vết thương cần được chữa lành. Lẽ ra tăng thân là nơi chúng tôi có thể làm được điều đó. Nhưng nếu chúng tôi mang những vấn đề này ra thì lại không dễ được đón nhận. Hầu hết các tăng thân ở Mỹ đều có người da trắng chiếm đa số.

Một ví dụ cụ thể là sau cái chết của Freddie Gray – một thanh niên da đen – tại Mỹ vào năm 2015, có rất nhiều các cuộc biểu tình với hàng ngàn người xuống đường phản đối hành vi tàn bạo của cảnh sát. Một người bạn da đen đã chia sẻ vấn đề này trong tăng thân, nơi người da trắng chiếm đa số, nhưng không hề có ai lên tiếng. Không chỉ những người da đen mà cả xã hội Mỹ lúc bấy giờ đang bị tổn thương. Người bạn ấy đã trực tiếp gặp tôi và nói rằng bạn ấy không thể tiếp tục sinh hoạt trong tăng thân vì cảm giác sự có mặt của mình không được thừa nhận và không được quan tâm.

Khi có khó khăn xảy ra trong cộng đồng BIPOC, liệu tăng thân chúng ta có thể ôm ấp được không? Nếu tăng thân không hiểu rõ về nỗi đau mà cộng đồng BIPOC đang chịu đựng thì làm sao có thể ôm ấp được? Nếu có một người trong cộng đồng BIPOC qua đời, đặc biệt là do bạo lực, chúng tôi mong muốn tăng thân có mặt và cùng chia sẻ với chúng tôi niềm đau đó. Nhưng nếu tăng thân không hay biết gì về chuyện xảy ra, chúng tôi sẽ cảm thấy bơ vơ và bị tổn thương.

Vì những chuyện như thế cứ tiếp tục xảy ra nên những người có kinh nghiệm dấn thân trong lĩnh vực công bằng chủng tộc và công bằng xã hội đã đến với nhau để thành lập nên tăng thân ARISE. Chúng tôi tập trung vào vấn đề về chủng tộc nhưng cũng quan tâm đến sự đan xen giữa nhiều hình thức phân biệt đối xử và các hoạt động vì công bằng xã hội. Mặc dù tập trung vào vấn đề phân biệt chủng tộc, chúng tôi cũng cố gắng lên tiếng về một số lĩnh vực khác bao gồm vấn đề về giới tính LGBTQIA+, người nhập cư cũng như tình trạng phân biệt giai cấp trong xã hội.

BBT: Thầy đã từng tổ chức các khóa tu cho người da màu. Nhưng hiện nay khi tăng thân tổ chức những khóa tu như thế, nhiều người đặt câu hỏi: những khóa tu này có đang tạo thêm sự chia rẽ?

Marisela: Trong những nhóm xen lẫn với người da trắng, khi tôi chia sẻ về niềm đau do kỳ thị chủng tộc gây ra, các bạn trong nhóm thường nói rằng tôi là người gây chia rẽ và tôi nên rời khỏi buổi sinh hoạt đó. Các bạn muốn tôi để lại niềm đau đó đằng sau cánh cửa trước khi bước vào buổi sinh hoạt, và làm như thể tất cả đều là một.

Nhưng trong không gian chỉ có những người thuộc nhóm BIPOC, chúng tôi có thể chia sẻ rất cởi mở về các sang chấn tâm lý (trauma) và những tổn thương của mình. Đồng thời chúng tôi không làm mất lòng những người bạn da trắng khi nói thẳng ra rằng sự phân biệt chủng tộc là có thật, và chúng tôi bị tổn thương trước những đặc quyền của người da trắng và sự thiếu ý thức của họ về điều này.

Người da trắng cũng cần có không gian riêng để có thể chia sẻ một cách thành thật mỗi khi họ nhận thấy mình có những hành vi kỳ thị chủng tộc. Khi không có không gian riêng đó, giống như tình trạng hiện giờ, mỗi khi người da trắng chia sẻ về những lời nói, hành động hoặc suy tư của mình về một người da đen hoặc da màu, chúng tôi lại bị tổn thương một lần nữa. Và như thế, những người bạn da trắng không dám chia sẻ nữa, bởi vì họ không muốn làm tổn thương những người bạn BIPOC. Cũng tương tự như vậy, những người bạn BIPOC không dám đề cập đến những vết thương mà người da trắng gây ra cho mình, vì sợ tổn thương những người bạn da trắng trong tăng thân.

Rốt cuộc, tất cả mọi người cùng ngồi đó và làm bộ như không có chuyện gì xảy ra và nghĩ là mọi chuyện đều ổn cả. Nhưng đó không phải là cách thực tập của chúng ta. Cách thực tập của chúng ta là chế tác, nuôi dưỡng hạnh phúc để có thể chữa lành và tạo không gian để chăm sóc những vết thương do phân biệt chủng tộc, những vết thương rất sâu trong lòng chúng ta, cũng như trong lòng tổ tiên chúng ta.

 

 

Ai trong chúng ta cũng có tổ tiên đã từng chịu khổ đau vì nạn phân biệt chủng tộc, xuất phát từ lòng tham và tâm phân biệt trong ta. Vì vậy, tất cả chúng ta cần ngồi cho yên để lòng mình mở ra. Và trong không gian đó, ta có thể mời khổ đau lên và nhìn vào nó, cảm nhận nỗi đau và chăm sóc nó. Một khi trong ta có nhiều tỉnh thức và bình an hơn, chúng ta có thể đến với nhau trong một tinh thần rất khác.

Nếu trong tôi còn đầy khổ đau, giận dữ vì sự phân biệt chủng tộc và xung quanh tôi toàn là người da trắng, có những lúc tôi sẽ vung vãi những khổ đau và giận dữ đó lên những người bạn da trắng của mình và làm cho họ tổn thương. Đó là lý do tại sao tôi cần có không gian để thở, để thiền hành. Tôi cần những người bạn cùng màu da, chủng tộc để cảm thấy an toàn hơn một chút. Để có thể nói ra, cảm nhận được nỗi đau, nhận diện những sang chấn đang biểu hiện ở điểm nào trên thân thể và chữa lành cho mình.

Hiện giờ, trong tăng thân ARISE vẫn có những người bạn da trắng, nhưng đa số là người da màu. Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy rằng trong một nhóm mà đa số là những người bạn BIPOC, năng lượng của người da trắng không còn quá mạnh, và không gian được cân bằng hơn. Như thế, chúng tôi ít nhất cũng có thể nói ra được những gì trong lòng mình. Không gian riêng này rất quan trọng, cho đến khi cả người da trắng và người da màu đều tìm được sự trị liệu, cân bằng trong chính mình, và không gây thương tổn thêm cho nhau.

BBT: Theo chị, tăng thân Làng Mai có thể làm gì để giúp nâng cao nhận thức và hành động trong lĩnh vực bình đẳng chủng tộc và công bằng xã hội?

Marisela: Việc chúng tôi được mời để nói về tăng thân ARISE đã là một bước quan trọng. Ngoài ra, tăng thân cần tạo điều kiện thành lập các nhóm có cùng mối quan tâm (affinity groups) và chia sẻ thông tin này đến với đại chúng. Các bài pháp thoại về những khổ đau của nạn phân biệt chủng tộc cũng rất quan trọng. Chúng ta cần ý thức về những lĩnh vực mà bất công xã hội đang xảy ra.

Tăng thân ARISE vừa tổ chức một khóa học sáu tháng có tên là: “Chủng Tộc: Một pháp môn” (Race: A Dharma Door). Chúng tôi sử dụng giáo lý Tứ diệu đế làm cơ sở để trình bày sự phân biệt và bất công chủng tộc gây ra khổ đau như thế nào. ARISE cũng đã làm một bài quán nguyện dựa trên Năm Giới, chú trọng vào công bằng chủng tộc để làm rõ cách chúng ta có thể áp dụng tất cả các pháp môn để chấm dứt khổ đau này. Chúng ta đã có đầy đủ các phương tiện cần thiết.

Chúng ta cần chia sẻ giáo pháp như thế nào để mọi người đều thấy mình trong đó. Chánh pháp giúp cho tất cả mọi người tạo dựng không gian trong mình để trị liệu, nhìn rõ và hiểu được họ cần nuôi dưỡng điều gì, bên cạnh việc chăm sóc niềm đau, nỗi khổ của mình. Những người nghèo, những người đồng tính, hay những người bị khuyết tật, ta đều không thể bỏ sót bất cứ ai.

BBT: Điều gì là trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng tăng thân ARISE?

Marisela: Ngay từ đầu chúng tôi nhận được rất ít sự yểm trợ. Chúng tôi phải thúc đẩy rất nhiều để thay đổi hiện trạng. Vì sao không có người da đen nào trong Hội đồng Giáo thọ khu vực Bắc Mỹ? Ít ai quan ngại về điều đó. Sau vụ George Floyd bị giết hại năm 2020, chúng tôi có nhiều cơ hội hơn để nói về những gì ARISE đang cống hiến và được công nhận là một phần chính thức của tăng thân Làng Mai.

Chúng ta đều là đệ tử của Thầy. Thầy luôn có ước nguyện làm mới đạo Bụt, và mong muốn một đạo Bụt vì con người. Ta cần làm mới đạo Bụt ra sao để mang lại lợi lạc cho tất cả mọi người? ARISE cũng là vì con người. Làm cách nào để chúng ta có thể đảm bảo rằng tất cả mọi người đều được tham dự vào tăng thân và được lợi lạc từ sự thực tập? Các nhóm như ARISE hình thành một cách tự phát, bởi vì tăng thân chưa nhìn ra được nhu yếu của chúng tôi. Nhưng chúng tôi phải đi tới, chúng tôi không thể chờ tới lúc tất cả mọi người trong tăng thân đều sẵn sàng được.

 

 

BBT: Khi đối diện với những khó khăn này, các anh chị đã nương tựa vào đâu?

Marisela: Chúng tôi nương tựa vào Thầy, vào hơi thở và bước chân của chính mình. Chúng tôi luôn tự nhắc mình giữ gìn sự tinh tấn và bền bỉ. Đa số chúng tôi đều chịu ảnh hưởng bởi nạn phân biệt chủng tộc. Vậy nên chúng tôi nương tựa vào chính trải nghiệm sống của mình, đồng thời nương tựa vào sự thực tập, bởi vì sự thực tập đã mang lại hiệu quả và sự chuyển hóa cho tất cả chúng tôi. Không phải chỉ có hiệu quả không, mà đó chính là tự do thực sự, tự do chân chính. Điều đó khiến chúng tôi ai cũng tận tâm, hết lòng với tăng thân này. Một điều rất rõ ràng là chúng tôi sẽ không dừng lại cho tới khi nào bất công chủng tộc không còn tồn tại.

BBT: Nhưng chúng ta biết là không bao giờ có thể chấm dứt hoàn toàn khổ đau trong cuộc đời này. Không có bùn thì cũng không có sen. Làm sao để ta vẫn đạt tới bình an thực sự trong khi khổ đau vẫn đang có đó?

Marisela: Đó là một câu hỏi khá hay, bởi vì bùn luôn luôn có ở đó. Vấn đề là: Làm sao ta có thể chuyển hóa được bùn? Nếu tôi vẫn tiếp tục khổ đau mỗi lần tôi gặp cảnh bất công, thì tôi vẫn còn chưa thực tập đủ. Chúng ta cần làm cho sự thực tập vững chãi trước, đánh thức sức mạnh tâm linh trong tự thân và gặp gỡ những người bạn lành. Đây là một trong những lý do vì sao chúng ta cần giúp mọi người tiếp xúc với sự thực tập để được chữa lành những khổ đau. Chúng tôi không muốn cứ sống trong tiêu cực, lúc nào cũng chỉ có toàn tin xấu. Chúng tôi muốn nuôi dưỡng niềm vui và sự nhẹ nhàng.

Cuộc sống luôn có những điều tươi đẹp. Ngay trong cái nóng oi bức vẫn có những cơn gió mát lành, hay một gốc cây râm mát để ta nương tựa. Sau một buổi pháp đàm của nhóm ARISE gần đây, một thành viên tham dự chia sẻ: “Tôi nhận ra rằng trong bất cứ giây phút nào tôi cũng có thể chế tác niềm vui để giúp mình chăm sóc những khổ đau”. Với năng lượng thương yêu và có mặt cho nhau, chúng ta không còn khổ đau khi cảm thấy: “Mình là người khổ đau duy nhất trên đời này”, hay “Chuyện này sẽ chẳng bao giờ kết thúc”, hay là “Chẳng ai quan tâm đến những khổ đau của mình”. Giờ thì ta đã có pháp môn thực tập và tăng thân. Sự chuyển hóa sẽ xảy ra và điều kỳ diệu sẽ đến khi ta thực tập.

Giờ đây cách tôi đối diện với sự phân biệt chủng tộc đã hoàn toàn thay đổi. Tôi không còn thấy ghét bỏ người da trắng nữa. Ngay cả khi có ai đó hành xử một cách kỳ thị với tôi, tôi cũng không nổi khùng như trước nữa. Đây là một sự chuyển hóa cực kỳ lớn đối với tôi. Tình trạng phân biệt chủng tộc vẫn chưa chấm dứt, nhưng bây giờ tôi cảm thấy mình có chủ quyền hơn trước. Tôi không còn bị lôi kéo, bị giật dây bởi con bò mà tôi đang cưỡi. Tôi đang đi thong thả bên cạnh con bò ấy.

BBT: Cảm ơn chị đã dành thời gian để chia sẻ và giúp mọi người hiểu sâu hơn về tăng thân ARISE.

Cánh cửa đã mở ra

(Lilian Cheung)

Lilian Cheung là giáo sư về dinh dưỡng tại đại học Harvard. Chị đã cùng Thầy viết nên cuốn sách “Savor: Mindful Eating, Mindful Life” (Ăn trong chánh niệm, Sống trong tỉnh thức). Dưới đây là chia sẻ của chị về những kỷ niệm và những điều chị học được từ Thầy. Bài viết được dịch từ tiếng Anh.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống đạo Bụt tại Hồng Kông, con đường đến với chánh niệm của tôi bắt đầu khá sớm. Trong tôi vẫn còn lưu giữ hình ảnh các vị xuất sĩ, những bài pháp thoại, những buổi lễ với lời kinh và tiếng kệ trầm hùng. Đứa trẻ trong tôi sớm ghi nhận ý niệm rằng thế giới này tràn ngập khổ đau, và ta cần sống trong tình thương và lòng từ bi để giúp làm vơi bớt khổ đau cho nhau. Một thông điệp quan trọng đến vậy mà thời điểm đó tôi chưa cảm nhận sâu sắc gì mấy.

Mãi đến hàng chục năm sau, tôi mới biết đến thiền sư Thích Nhất Hạnh và được tiếp nhận giáo lý của Thầy. Kể từ đó, cuộc sống của tôi có nhiều bình an hơn. Tôi cũng tìm thấy được ý nghĩa của cuộc đời mình khi phụng sự trong lĩnh vực y tế cộng đồng. Điều đó làm tôi mãi mãi biết ơn Thầy.

Cốc cốc cốc, mẹ có ở đó không?

Tháng 8 năm 1993, tôi nhận được một khoản tài trợ vài triệu đô la từ Quỹ Sam & Helen Walton Family để thực hiện chương trình nghiên cứu bốn năm về chế độ dinh dưỡng và hoạt động thể chất tại mười bốn trường công lập ở thành phố Baltimore, Mỹ. Dự án này là một cơ hội tuyệt vời, nhưng đồng thời cũng là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trên con đường sự nghiệp của tôi. Danh mục những việc phải làm mỗi ngày cứ dài ra thêm và những mối lo lắng càng thêm chồng chất. Mỗi ngày tôi phải dậy sớm hơn để có đủ thì giờ làm việc. Hai tuần một lần tôi lại đi từ Boston tới Baltimore, đã vậy còn phải vất vả chăm ba con nhỏ ở độ tuổi từ 4 tới 14 tuổi.

 

 

Không bao giờ tôi quên được buổi tối hôm ấy. Sau giờ cơm, con trai lớn kể với tôi về những khó khăn mà cháu đang gặp ở trường. Nhưng tâm trí tôi lúc đó hoàn toàn bị xâm chiếm bởi công việc. Đột nhiên, cháu nói: “Cốc cốc cốc, mẹ ơi, mẹ có ở đó không?”. Khoảnh khắc đó cứa sâu vào tim tôi. Tôi nhận ra đến con mình mà mình còn không thể có mặt hoàn toàn cho nó. Tôi biết mình phải thay đổi! Khổ sở vì thiếu ngủ và những khối lo âu, càng ngày tôi càng thu mình lại, lòng tràn ngập cảm giác trống rỗng và vô vọng. Tôi chẳng thiết tha gì đến những hoạt động mình từng rất yêu thích. Tôi cũng chẳng đủ năng lượng để hoàn tất cái danh sách dài vô tận những việc cần làm. Lúc nào tôi cũng cảm thấy mệt mỏi.

Tôi phải tạm nghỉ việc một năm vì không thể làm được gì, nhiều lúc còn không thể ngồi dậy khỏi giường. Bác sĩ cho tôi uống thuốc an thần nhưng cũng không giúp ích được gì. Trong buổi tiệc tốt nghiệp tiểu học của con trai giữa, một người bạn rất thân thì thầm hỏi tôi: “Chị đang dùng thuốc trầm cảm đó à?”. Tôi nghe mà sốc vô cùng. Cô nói: “Nhìn mắt chị là em biết chị đang phải dùng thuốc. Chị thử thực tập thiền với nhóm chúng em xem sao”. Tôi đồng ý và ngồi thiền 30 phút với các bạn. Đêm đó, lần đầu tiên sau một thời gian dài, tôi đã ngủ say như một đứa trẻ.

Mở ra cánh cửa chuyển hoá

Mùa thu năm 1997, tôi nhận được một tờ quảng cáo cho khóa tu bảy ngày về Tâm lý học Phật giáo, “Mở ra cánh cửa trị liệu và chuyển hóa”, do thiền sư Thích Nhất Hạnh hướng dẫn. Không biết thiền sư Thích Nhất Hạnh là ai, nhưng trong tôi vang lên tiếng con trai mình khẩn khoản: “cốc cốc cốc”. Tôi nghĩ đây chắc chắn là cánh cửa tôi phải mở ra. Thêm vào đó, khóa tu còn được tổ chức ở Key West, Floria, một nơi tôi đang muốn đến thăm. Vậy là tôi đăng ký liền lập tức.

Khóa tu diễn ra dưới một cái lều lớn trong sân gôn. Khi các vị xuất sĩ bước vào, tôi rất ngạc nhiên khi thấy họ không phải người gốc Á châu như những gì mình tưởng sau những trải nghiệm về đạo Bụt từ thuở nhỏ. Rồi từ từ, tôi nhận ra và thực sự trân quý tinh thần bao dung, không kì thị trong những lời Thầy dạy. Nhờ vậy, những lời dạy ấy đã đến được với tất cả các tín ngưỡng, tôn giáo, màu da và quốc tịch trên khắp thế giới.

Thầy xuất hiện trên khán đài, bình thản bước tới tọa cụ của mình. Chưa cần nghe tiếng Thầy nói, chỉ cần thấy sự hiện diện của Thầy, tôi đã có cảm giác đây là một vị thánh. Trong khi nghe Thầy dạy, tôi bắt đầu cảm thấy trong mình có một sự biến chuyển. Trong một bài pháp thoại, Thầy giảng rằng khổ đau luôn có mặt ở đó. “Ta cần phải nhìn sâu vào khổ đau để tìm thấy con đường thoát khổ. Ta không thể trốn chạy khổ đau. Hạnh phúc và an lạc chỉ có thể tìm thấy ngay trong lòng khổ đau”. Là một người suốt đời sống trong sự lo âu, thường xuyên không cảm nhận được hạnh phúc, tôi rất xúc động khi nghe lời dạy đó. Cũng trong buổi chiều hôm ấy, Thầy mời đại chúng quán chiếu về năm câu hỏi:

  1. Mình nghĩ là mình cần thêm những điều kiện nào thì mới có thể hạnh phúc?
  2. Nếu những điều kiện đó không thể nào có thể thực hiện được, mình sẽ đau khổ cả đời sao? Nếu vậy, mình cần làm gì?
  3. Điều gì mang lại hạnh phúc cho mình ngay thời điểm hiện tại? Viết xuống những yếu tố hạnh phúc đang có mặt cho mình trong hiện tại.
  4. Mình cần sắp xếp đời sống của mình như thế nào để có thể nhận diện và được nuôi dưỡng bởi những yếu tố này trong đời sống hàng ngày?
  5. Đối với những điều mà hiện giờ mình chưa thích, mình có thể làm gì để dễ dàng chấp nhận những điều ấy hơn?

Khóa tu đã đem lại sự chuyển hóa hoàn toàn cho tôi và có lẽ cũng trị liệu cho nhiều người khác nữa. Tôi chứng kiến một thiền sinh bật khóc trong buổi pháp đàm đầu tiên. Khi chúng tôi hỏi thăm, anh kể rằng vợ anh đã bỏ đi không một lời giải thích. Đến ngày thứ ba của khóa tu, anh thôi không khóc trong pháp đàm nữa và khi ngồi ăn trưa với nhau trước ngày chia tay, anh đã cười cùng chúng tôi. Chỉ trong bảy ngày mà đã có sự chuyển hóa không thể ngờ được như thế!

Giờ chia tay kết thúc khóa tu ở Key West, Thầy có một lời nhắn nhủ đặc biệt: “Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã nếm được một chút an lạc trong khóa tu này, nhưng nếu về nhà ta không giữ sự thực tập thì những an lạc đó sẽ tan biến hết”. Thông điệp này đã ghi sâu vào lòng tôi và tôi quyết tâm sẽ áp dụng những lời Thầy dạy vào đời sống của mình. Tôi bắt đầu thực tập chánh niệm mỗi ngày, dù có lúc tôi chỉ làm được nhiều nhất là 3% thời gian mình có. Vậy mà dần dà thói quen mới đã được hình thành, và tôi thấy mức độ chánh niệm của mình tăng lên theo năm tháng.

Những nhân duyên đưa đến cuốn sách
“Ăn trong chánh niệm, sống trong tỉnh thức”

Trong tuần lễ ở Key West, Thầy đã dạy chúng tôi thực tập về hơi thở, bước chân và ăn trong chánh niệm.

 

 

Ăn trong chánh niệm? Suốt chặng đường nghiên cứu và học thuật trong ngành dinh dưỡng học, tôi chưa bao giờ gặp khái niệm này. Ta ăn trong chánh niệm không phải chỉ để có đủ sức khỏe mà còn để duy trì nguồn lương thực lâu dài cho các thế hệ tương lai. Đối với tôi, đó là một tuệ giác thật thâm sâu.

Về lại Boston, tôi hào hứng tìm hiểu xem khái niệm ăn trong chánh niệm đã từng được áp dụng ra sao trong vấn đề sức khỏe cá nhân và sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu các tài liệu khoa học, tôi thấy ăn trong chánh niệm đã được sử dụng trong cơ sở y tế để giúp chữa trị các chứng rối loạn ăn uống và xu hướng ăn uống vô độ. Dầu vậy, chưa từng có nghiên cứu nào tập trung đồng thời vào sức khoẻ của mỗi cá nhân và sức khoẻ của cả hành tinh. Vẫn tiếp tục thực tập chánh niệm và quán chiếu những lời dạy của Thầy về chủ đề này, năm 2008 tôi quyết định viết một cuốn sách về thực tập ăn trong chánh niệm, kết hợp các khía cạnh khoa học với triết lý đạo Bụt.

Trong quá trình tìm đọc tài liệu về chủ đề này, tôi nhận ra Thầy đã viết lời mở đầu cho nhiều cuốn sách của các tác giả khác viết về chánh niệm. Tôi quyết định thử thỉnh cầu Thầy viết lời tựa cho cuốn sách của mình. Buổi chiều hôm ấy, tôi gặp Thầy, sư cô Chân Không và sư cô Chân Đức tại tu viện Rừng Phong ở Vermont để trình bày dàn ý cuốn sách. Một câu hỏi chợt đi lên ngay lúc đó và không hề dự tính trước, tôi đột nhiên hỏi Thầy: “Đằng nào trong sách con cũng sẽ trích dẫn tên Thầy hết trang này qua trang khác… sao Thầy không làm đồng tác giả với con luôn ạ?”. Tôi thấy nét mặt ngạc nhiên của sư cô Chân Không và sư cô Chân Đức, còn chồng tôi thì thúc cùi chỏ vào tôi, ngầm nhắc là hỏi như vậy không đúng chút nào. Sau một hồi lâu im lặng, Thầy quay sang tôi và nói: “Sao lại không được?”. Tôi kinh ngạc trước câu trả lời của Thầy và thế là hành trình cùng viết sách với Thầy bắt đầu!

Quyển Savor – Mindful Eating, Mindful Life (Ăn trong chánh niệm, sống trong tỉnh thức) xuất bản năm 2010, được dịch ra 17 thứ tiếng và năm 2012 còn được đăng trên thời báo The New York Times trong một bài dài ba trang viết về ăn uống chánh niệm. Tôi quá ấn tượng khi thấy tác giả bài báo Jeff Gordinier thậm chí còn dành cả ngày ở tu viện Bích Nham để tự mình trải nghiệm thực tập chánh niệm nói chung và ăn trong chánh niệm nói riêng.

Điều rất đáng mừng là quyển sách ấy và những giáo lý của Thầy vẫn tiếp tục gây thêm tiếng vang. Gần đây, thông điệp Ăn trong chánh niệm để giữ gìn sức khoẻ cho ta và sức khỏe cho hành tinh này vừa được chọn cho một chiến dịch trong mười năm có tên là Our Planet Our Future (“Hành tinh của chúng ta, Tương lai của chúng ta”) hướng đến tiếp cận 1.5 tỷ người trên toàn thế giới. Các nhà tổ chức rất có cảm hứng với cuốn sách Ăn trong chánh niệm, sống trong tỉnh thức với cách tiếp cận rất cởi mở của Thầy – tín ngưỡng, tôn giáo nào cũng có thể đón nhận. Họ nói với tôi rằng ai cũng cần ăn. Vậy nên ăn chánh niệm chính là con đường lý tưởng có thể giúp mọi người trên thế giới thay đổi thói quen ăn uống vì sức khỏe của bản thân cũng như của cả hành tinh này. Hơn nữa, giải pháp ăn trong chánh niệm còn giúp đảm bảo đủ thực phẩm cho thế hệ tương lai. Đây là bài học Bụt đã tiên đoán và dạy ta trong kinh Tử Nhục.

Dạy nhân viên Google ăn trong chánh niệm

Trong nhiều năm, Tiến sĩ Walter Willett – Giáo sư và cựu Chủ nhiệm khoa Dinh dưỡng học tại trường Y tế Công cộng T.H. Chan thuộc đại học Harvard, đã tư vấn cho Google về chế độ dinh dưỡng cho nhân viên. Năm 2011, tôi nhận được một cú điện thoại của Olivia Wu, đầu bếp chính tại trụ sở Google ở Mountain View, tiểu bang California. Cô muốn tìm cách giúp các nhân viên Google giảm lượng đồ ăn tráng miệng trong bữa ăn. Tôi gợi ý cho cô nhiều cách để cải thiện chất lượng món tráng miệng và giảm khẩu phần nhưng Olivia báo cô từng áp dụng những cách đó mà tình hình không tiến triển gì mấy, bởi vì ở Google thức ăn được miễn phí cho nhân viên. Lúc đó tôi mới hỏi cô đã từng nghe tư vấn về phương pháp ăn có chánh niệm như đã giới thiệu trong quyển sách Ăn trong chánh niệm, sống trong tỉnh thứcchưa? Cô bảo chưa và hỏi liệu tôi có thể mời Thầy đến nói chuyện ở Google không. Tôi trả lời rằng tôi sẽ thử nhưng không chắc là mời được, vì Thầy chưa từng tổ chức khóa tu nào ở thung lũng Silicon. May mắn là đề nghị của Olivia đưa ra cùng với thời điểm Thầy đang hướng dẫn khóa tu ở tu viện Bích Nham. Thầy có vẻ thích thú với đề nghị đó. Thầy trả lời Thầy sẽ cho pháp thoại nếu như Google đồng ý để Thầy và tăng thân hướng dẫn nửa ngày thực tập chánh niệm ở đó.

Sự kiện này đã làm thay đổi hẳn văn hoá công sở ở Google. Nhân viên Google thực tập thiền, nghe pháp thoại của Thầy, hát thiền ca, rồi cùng thiền hành khắp khuôn viên của Google và ăn cơm im lặng trong chánh niệm. Những phép màu trong khóa tu tại Google được ghi lại qua đoạn video này: youtube.com/watch?v=Ijnt-eXukwk

Thầy vẫn tiếp tục biểu hiện

Tôi rất biết ơn vì đã có cơ duyên được tiếp nhận những lời dạy từ Thầy và tăng thân. Thầy là một vị thầy tuyệt vời, người đã hiện đại hóa những giáo lý đạo Bụt vốn tồn tại hơn 2500 năm qua. Nhờ những lời giảng của Người, chúng ta có thể thừa hưởng được lợi lạc từ sự thực tập chánh niệm và thấy được tầm quan trọng của bản chất tương quan, tương tức của vạn vật. Tuy sắc thân đã ẩn tàng nhưng Thầy vẫn còn sống mãi với chúng ta! Thế giới của chúng ta thực sự có phước lắm mới được tiếp nhận giáo lý và năng lượng của Thầy.

Ngôi chùa xưa trên đỉnh núi

(Sư cô Chân Trăng Mai Thôn)

Bạch Thầy kính thương,

Thấm thoát mà đã hơn một năm từ khi hai chị em con về tu viện Nhập Lưu để nương chúng tu học và phụng sự. Thời gian tuy không dài, nhưng cũng có thật nhiều chuyện để kể Thầy nghe, cũng như là một chút đóng góp vào ấn bản Lá thư Làng Mai mừng xuân Quý Mão.

Bây giờ, mỗi khi chắp tay lên thưa chuyện với đại chúng, ai cũng nói: “Kính bạch giác linh Thầy (Sư Ông)”, nhưng không hiểu sao, đối với con và một vài chị em, chúng con vẫn thường thưa: “Kính bạch Thầy (Sư Ông)”. Chúng con vẫn thấy Thầy luôn còn đó với chúng con, gần gũi và rất thật trong mỗi hành động, nói năng, tư duy và hành xử. Trong con, không hề có một sự gián đoạn nào trong mối liên hệ thầy trò. Vì vậy, viết thư cho Thầy là một điều gì đó thật tự nhiên, cần thiết và nuôi dưỡng cho con.

Buổi đầu mùa dịch Covid, khoảng ba năm trước, một sáng thức dậy con bỗng nảy ra ý tưởng viết cuốn “Nẻo về của chúng con”, như Thầy từng viết Nẻo về của ývậy. “Tại sao không nhỉ?”, con thì thầm, dù biết mình hơi tham vọng một tí. Dù lớn hay nhỏ, đó sẽ là những lời tâm tình với Thầy về những gì mà con đã và đang đi qua.

Sau đây là một vài điều nho nhỏ mà con đã ghi chép vào “Nẻo về của chúng con”, giống như mỗi dịp cuối năm người ta thường dâng lên Ngọc Hoàng sớ Táo Quân vậy. “Sớ” này con cũng chỉ xin tổng kết năm 2022 để dâng lên Thầy với hy vọng là Thầy sẽ mỉm cười thật vui.

Điệu nào cũng múa

Khi hai chị em con về Nhập Lưu, số lượng thường trú ở đây từ bốn đã lên sáu. Vì vậy, chúng con có được sáu đội luân phiên. Ai cũng thấy hạnh phúc và thảnh thơi hẳn ra.

Sau những ngày Tâm tang, chị em con bảo nhau rằng có lẽ Sư Ông muốn mình tiếp tục làm những công việc cần làm. Vì vậy, ban ngày chúng con vẫn có mặt với cư sĩ hết lòng nhưng khi trở về phòng, nằm trên đơn mà nước mắt cứ chảy dài khi nghĩ về Thầy.

Tuy ít người nhưng những chương trình sinh hoạt vẫn được duy trì đầy đủ. Chúng con đi tặng chả giò, tổ chức ngày Mở cửa để làm quen với hàng xóm xung quanh nơi ở mới, rồi lên thời khóa cho ngày Giáng sinh, Tết tây với những bài pháp thoại, đốt lời khấn nguyện đầu năm và cùng làm lễ đón năm mới vào nửa đêm. Vào dịp Tết Nguyên đán, chúng con vẫn gói bánh chưng, bánh tét, cúng đại thí thực, tổ chức tất niên, thơ nhạc thiền và có cả chuông trống Bát Nhã đón Giao thừa. Sáng mồng Một Tết, chúng con cùng có mặt để chúc Tết Thầy, bói Kiều và thăm phòng quý sư cô. Chúng con còn mở hội chợ Xuân đón khoảng 200 người đến tham dự. Gian hàng bói Kiều trong hội chợ Xuân làm ăn rất khấm khá. Hai sư cô thay phiên nhau giải Kiều cho đến ba giờ chiều mới xong đó, thưa Thầy.

 

 

Sau Tết, mấy chị em mệt nhoài nhìn nhau nói: “Mình ít người mà đúng là điệu nào cũng múa”. Thì quà Tết của chúng con dâng Thầy có gì ngoài mấy điệu múa đó đâu!

Mở ra một chương mới

Tháng Sáu năm ngoái, khi nhân duyên hội tụ đầy đủ, tu viện Nhập Lưu đã được dời về Porcupine Ridge. Chúng con nghe nói nhiều người buồn và tiếc, vì dù sao Nhập Lưu cũng đã có mặt tại vùng đất cũ Beaufort mười năm và đã làm chỗ nương tựa cho rất nhiều người.

Tuy nhiên, khi về địa điểm mới này, quý sư cô và các vị cư sĩ đỡ phải lo lắng hơn vào mùa cháy rừng. Ngoài ra, việc di chuyển tới tu viện đã thuận tiện hơn cho cư sĩ từ Melbourne và các vùng lân cận. Từ thị trấn Daylesford khoảng tám tới mười phút lái xe là có đầy đủ siêu thị, bệnh viện và các dịch vụ cần thiết. Nơi đây, có những ngôi nhà gỗ xinh xắn dùng làm cư xá cho quý sư cô và cư sĩ. Mỗi khi có khóa tu hay mùa lễ hội, mình có thể đón khoảng sáu mươi thiền sinh cùng tới tu tập với chỗ ở khá tươm tất, tuy có hơi lạnh vào mùa đông.

Đặc biệt vào mùa thu, những hàng cây thay lá đẹp như cảnh thần tiên. Thị trấn Daylesford cũng khoác lên mình một chiếc áo đẹp huy hoàng không kém gì cảnh mùa thu mà Thầy đã tả trong Nẻo về của ý. Con đã thưởng thức mùa thu ấy bằng đôi mắt của Thầy. Năm nay thầy trò mình lại cùng nhau thưởng thức tiếp, Thầy nhé!

Kính ngưỡng

Hôm đó, trong khi đi thiền hành, đôi mắt con bỗng dừng lại nơi một cây khuynh diệp. Tuy đã già cỗi, vỏ đã bị mọt ăn khá nhiều nhưng dáng cây rất vững chãi và cành lá vẫn còn đang xanh tốt. Con chợt nhớ đến Bồ tát Thường Bất Khinh, với hạnh nguyện của mình, chắc hẳn Ngài sẽ chắp tay xá cây và nói: “Tôi không dám coi thường bạn, bạn là một nhiệm mầu của vũ trụ. Bạn đã có mặt ở đây rất lâu rồi. Ai mà biết được bạn đã đi qua những khó khăn nào, mà vẫn đứng vững sau bao nhiêu cơn bão. Biết bao thế hệ chim muông, côn trùng đã xem bạn là nhà, là thức ăn, là nơi nương tựa? Rễ của bạn đã vươn đến đâu? Bao nhiêu cành lá của bạn đã rơi rụng trở về với đất và biến chuyển thành bao hình thái của sự sống? Bạn thật sự là một biểu hiện mầu nhiệm của vũ trụ, làm sao tôi dám coi thường bạn!”.

Sau khi ngắm nhìn cội cây khuynh diệp với đôi mắt của một vị bồ tát, con tiếp tục buổi thiền hành cùng đại chúng. Lạ thay, mọi thứ dưới mỗi bước chân con dường như đang đổi thay. Lòng con dâng lên niềm kính trọng khi tiếp xúc với từng hòn sỏi, chiếc lá hay một cọng cỏ non. Tất cả, dù chỉ là những hiện hữu nhỏ nhoi, nhưng ai mà biết được chúng đã đi qua những cung bậc nào, đã là chứng nhân cho những điều gì.

Và con liên tưởng đến các sư anh, sư chị, sư em của con, đến các bạn thiền sinh, đến tất cả mọi người. Ai mà biết mỗi người đã đi qua những gì, đã chứng kiến những gì, đã vượt qua những gì. Thi thoảng họ hé mở cho ta đi vào thế giới của họ một chút. Ta đâu thể thấy hết được phải không, thưa Thầy?

Mỗi người là một bài thơ
Say mê đọc hoài đọc mãi
Vẫn không hết những bất ngờ

Trích thơ Vui giấc đại đồng
Sư cô Uyển Nghiêm

Mỗi người không những chỉ là một bài thơ mà còn là những bí mật của vũ trụ, là nhiệm mầu của sự sống.

Con xin nghiêng mình kính ngưỡng.

 

Vướng dù

Đi thiền hành dưới mưa lâm râm với cây dù là thực tập mà con rất thích. Đi như thế con có cảm giác thích thú như một con ốc sên hay một căn nhà di động. Chắc là khi con ốc sên bò chậm rãi dưới mưa, nó cũng có cảm giác tương tự như vậy. Mưa rơi trên vỏ nó như đang rơi trên chiếc dù con cầm trên tay.

Buổi thiền hành hôm đó, con đi phía sau một sư cô. Con bỗng thấy dù của sư cô vướng vào một cành cây khuynh diệp trụi lá phía trên đầu. Sư cô phải nghiêng dù và né qua một bên. Thấy vậy, con bèn đi tránh qua bên khác để khỏi bị vướng dù. “Nếu sư cô không đi trước thì có lẽ dù của con cũng sẽ bị vướng. Đầu óc con vẫn còn đang quẩn quanh trong chiếc vỏ ốc, vậy nên không thể nào thấy cành cây đó được”, con thầm nghĩ.

Con luôn muốn cảm ơn những người đi trước. Cảm ơn những va vấp, vụng về của họ và của cả chính mình. Tập tha thứ, chấp nhận những vụng về của mình và tìm đường đi tới. Biết đâu cũng có ai đó đang ở sau lưng mình quan sát và họ không chìm đắm trong chiếc vỏ ốc. Nhờ vậy, họ cũng sẽ tránh được chuyện chiếc dù bị vướng, như con.

 

Chuyện con vịt

Một hôm đi thiền hành bên hồ nước, chúng con phát hiện ra một con vịt con đang bơi một mình giữa hồ. Thông thường vịt đi có đôi, có đàn. Lâu lâu bị lạc đàn, chúng kêu cạc cạc cạc rồi nghiêng đầu lắng nghe xem có tiếng đáp lại hay không. Rồi những con vịt khác theo hướng của tiếng gọi mà bay đến bên cạnh. Vịt mà hạ cánh thì không thanh tao lắm đâu. Nó làm một cái “đụi” nếu ở trên mặt đất, còn nếu trên nước thì sẽ làm nước văng tung tóe. Đứng ngắm con vịt, con đoán nó mới chỉ đang tuổi lỡ nhỡ, mới lớn nên chưa có đôi. Chắc rồi nó cũng sẽ tìm ra đàn của nó thôi.

Cứ ngỡ là như vậy cho đến hôm sau, khi đi thiền hành ngang qua bờ hồ con vẫn thấy nó, một mình đang rỉa cánh với vẻ cam chịu. “Hay bố mẹ nó để lại một cái trứng bên hồ này trong một chuyến du lịch ngang Nhập Lưu, rồi cất cánh bay đi, để lại em vịt tự nở, tự lo thân này? Có trời mới biết!”. Quý sư cô tự hỏi nhau và đưa ra rất nhiều giả định.

Ngày nào các sư cô cũng cố ý đi thiền hành ngang qua hồ, dừng lại ngắm nó một hồi rồi đi tiếp. Riết rồi thành thói quen. Đôi khi đại chúng chấp tác bên bờ hồ vài ba ngày liên tiếp đều thấy nó bơi thong dong, không sợ hãi mà cũng không thân thiện. Lâu lâu, con dừng tay ngắm nó, thấy lòng vui vui.

Bỗng một buổi sáng đi thiền hành, chúng con không thấy nó đâu nữa. Dường như không tin vào mắt mình, chúng con dừng lại, quan sát thật lâu. Vài ngày sau, con vịt cũng không xuất hiện. Có lẽ nó đã đi thật rồi hoặc gặp một điều không may nào đó. Chạnh lòng, con nhớ đến con thằn lằn của chú Tâm Quán trong cuốn sách Tình Người. Một kiếp sống hiện lên ngắn ngủi trên biển hiện tượng, rồi biến mất. Lòng con chợt thấy thương thương và man mác buồn.

Con tự hỏi: “Tại sao mình lại có cái tâm trạng buồn thương như vậy cho một con vịt trời, nay đi mai ở?”. Rồi chợt nhận ra hình ảnh con vịt lẻ loi đã chạm tới nỗi cô đơn, tủi thân nằm thật sâu trong lòng. Có lẽ nỗi cô đơn này đã được truyền từ đời này sang đời khác. Vậy nên mới có một quyển sách có tựa đề là Trăm năm cô đơn. Mình đến trong đời này một mình thì khi ra đi cũng sẽ là một chuyến độc hành. Mình tự thương cho sự cô đơn, lẻ loi của mình cho nên nỗi niềm đó cũng lan tỏa đến với con vịt. Nhưng thật ra, tự thân con vịt đâu có thấy vậy. Nó được sinh ra, lớn lên và sống cuộc đời của nó như một lẽ thường tình. Vậy nên, có gì đâu mà nó phải buồn, phải hờn hay phải trách.

Khi nhận diện và gọi tên được những cảm xúc tủi thân, cô đơn và lẻ loi, lòng con bỗng thấy nhẹ nhõm. Cái man mác buồn thương cũng tự dưng biến mất. Con mỉm một nụ cười, thấy thấm thía lời Thầy: “Gọi được tên thật của nó rồi thì mình sẽ tự do”. May mắn cho con, bây giờ đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ nữa. Con có thể cô đơn nhưng không cô độc.

Chuông đại hồng

Thầy kính thương,

Hiện tại, những hàng xóm xung quanh đang ở khá gần trung tâm mới. Cho nên hy vọng trong vài năm nữa, khi họ đã quen biết và chấp nhận mình hơn, chúng con mới có thể thỉnh chuông đại hồng được.

Với con, mảnh đất này chính là ngôi chùa xưa trên đỉnh núi, nơi có chuông đại hồng là Thầy của chúng con. Thầy đã khua vang mở đầu cho một bình minh mới của đạo Bụt. Chẳng phải nhờ nghe được tiếng Thầy gọi, mà biết bao người đã có thể nở lại được nụ cười, đã biết đem mắt thương nhìn cuộc đời, đã biết thở vào tĩnh lặng, thở ra mỉm cười hay sao?

Khi trong lòng đã có tiếng chuông đại hồng sớm tối rồi, dù ở đâu đi chăng nữa thì theo thời gian, mình cũng sẽ thương được đất, thương được người. Để rồi, đất và người ở đó cũng sẽ thương lại ta. Khi đó, chắc hẳn con sẽ có nhiều điều để viết thư cho Thầy lắm. Con xin hẹn Thầy thư sau.

Kính thương,
Con của Thầy
Chân Trăng Mai Thôn.

 

Khúc nhạc buổi sáng

(Trích từ sách Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Buổi sáng thức dậy, tôi thấy đây là một buổi sáng duy nhất không giống với buổi sáng nào. Người ta thường nghĩ rằng có nhiều buổi sáng có thể để dành, nhưng không ai để dành được bất cứ một buổi sáng nào, bởi vì mỗi buổi sáng là một buổi sáng đặc biệt. Em thấy buổi sáng hôm nay thế nào? Có phải nó tới lần đầu trong đời ta, có phải nó không lặp lại bất cứ một buổi sáng nào trong quá khứ? Chỉ khi nào ta không có mặt, thì mới có thể có sự lặp lại của mỗi buổi sáng. Còn nếu ta có mặt trong sự sống thì mỗi buổi sáng là một không gian mới, một thời gian mới. Mặt trời chiếu soi trên những cảnh tượng khác nhau vào những giờ giấc khác nhau. Ý thức em như mặt trăng tắm trong hàng trăm lòng sông: sông chảy, nước chảy, trăng đi ngang vòm thái hư xanh ngát. Em hãy nhìn mầu xanh da trời và mỉm cười, khiến cho ý thức em tuôn chảy như ánh sáng trong veo của mặt trời buổi sớm mơn man cành lá.

 

 

Buổi sáng không giống như một trang sách em ghi vào chữ nghĩa, có thể lật lại bất cứ lúc nào. Cuốn sách là con đường một chiều, hoặc cuốn sách là con đường hai chiều; buổi sáng không phải là một con đường, dù đó là con đường bay của chim không dấu tích. Buổi sáng là một nhạc khúc đánh lên, và nhạc khúc có mặt hay không là do em có mặt hay không.

Đại giới đàn Nước Tĩnh 23-28/03/2025

Trong tiết trời xuân ấm áp của năm Ất Tỵ, Đạo Tràng Mai Thôn Quốc Tế đã trang trọng tổ chức Đại Giới Đàn Nước Tĩnh từ ngày 23/03 đến ngày 28/03/2025 tại Làng Mai, Pháp Quốc và diễn ra cùng ngày tại Tu viện Vườn Ươm, Thái Lan.   

Lễ rước Giới bản khất sĩ

Sáng ngày 23/03, Chư Tôn Đức cùng Tứ chúng Làng Mai đã vân tập tại thiền đường Chuyển Hoá – xóm Thượng để thực hiện nghi lễ Rước Giới Bản về Giới Trường – thiền đường Nước Tĩnh. Trong không khí trang nghiêm và thanh tịnh, từng bước chân chậm rãi của các vị xuất sĩ trong y vàng rực rỡ hoà cùng tiếng chuông, tiếng trống bát nhã vang vọng khắp núi đồi xóm Thượng. Đất trời như rung động, hoan hỷ trước sự thành kính của các giới tử và đại chúng, những người một lòng cầu thỉnh giới pháp của Bụt –  là ánh sáng soi đường cho sự thực tập, chuyển hoá và phụng sự.

 

Lễ truyền Giới Lớn

Sáng ngày 23.03 Chư Tôn Đức và Tứ chúng Làng Mai đã vân tập tại thiền đường Chuyển Hoá – xóm Thượng để thực hiện nghi lễ Rước Giới Bản về Giới Trường – thiền đường Nước Tĩnh. Trong không khí trang nghiêm và thanh tịnh, hình ảnh của các vị xuất sĩ đắp y vàng rực từng bước chân chậm rãi giữa tiếng chuông trống bát nhã hùng lực vang khắp núi đồi xóm Thượng. Cả đất trời như rúng động, hoan hỷ với sự thành kính của các giới tử và đại chúng, một lòng xin cầu thỉnh giới pháp của Bụt; để soi sáng, đưa đường dẫn lối cho các vị xuất sĩ trên con đường thực tập, chuyển hoá và giúp người.

Trong Đại Giới Đàn này, Tăng Thân đã cung thỉnh Chư Tôn Đức vào Hội đồng Truyền Giới Khất sĩ nam:
  • Hòa thượng Thích Phước Tịnh – Tu viện Lộc Uyển (Hoa Kỳ) làm Thầy Truyền Giới
  • Hòa thượng Thích Minh Nghĩa – Viện chủ Tổ đình Giác Nguyên (Đồng Nai) làm Thầy Yết Ma
  • Thượng tọa Thích Chân Pháp Ấn – Viện trưởng Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (EIAB) làm Thầy Giáo Thọ
  • Cùng với quý Thầy Giáo thọ Đạo tràng Mai Thôn làm Thầy Tôn Chứng
Hội đồng Truyền Giới Khất sĩ nữ:
  • Ni trưởng Thích nữ Lưu Phong – Chùa Kiều Đàm (TP.HCM) làm Thầy Chứng Minh Đạo Sư Nữ
  • Ni trưởng Thích nữ Như Ngọc – Trụ trì chùa Linh Bửu (TP.HCM) làm Thầy Tôn Đức Chứng Minh Nữ
  • Ni sư Thích nữ Trung Chính – Tu viện Lộc Uyển (Hoa Kỳ) làm Thầy Truyền Giới Nữ thứ nhất
  • Ni trưởng Thích nữ Chân Không làm Thầy Truyền Giới Nữ thứ hai
  • Cùng với quý Sư cô Giáo thọ Đạo tràng Mai Thôn làm Thầy Tôn Chứng Nữ

 

Chư Tôn Đức dâng hương làm lễ Khai mạc Đại Giới Đàn

Trong mỗi Đại giới đàn do Làng Mai tổ chức đều sẽ có Lễ truyền 14 giới Tiếp Hiện, Lễ truyền giới Khất sĩ nam, Lễ truyền giới Khất sĩ nữ và Lễ truyền đăng. Năm nay, Tăng thân Làng Mai may mắn được cung thỉnh chư Tôn đức về thăm Làng. Với tình thương lớn với Sư Ông chúng con và đàn hậu học ở nơi phương xa mà chư Tôn đức đã không ngại đường xá xa xôi, đã dành thì giờ đến dự Đại giới đàn. Đó thật là một phúc đức lớn cho chúng con và cho cả những thiền sinh phương Tây về dự Đại giới đàn được lắng nghe những lời sách tấn cũng như được chiêm ngưỡng đạo phong uy nghiêm của chư Tôn thiền đức. 

Ngày 24/03/2025, vào lúc 9h30 sáng tại thiền đường Nước Tĩnh, Xóm Thượng, đã khai mạc lễ truyền giới Khất sĩ nam; cùng ngày vào buổi chiều, lúc 15h00 lễ truyền giới Khất sĩ nữ cũng được diễn ra. Các buổi lễ này đều được truyền trực tuyến đến Thiền đường Voi Trắng, Tu viện Vườn Ươm cho các giới tử khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Với khoa học kỹ thuật hiện đại, các buổi lễ đã diễn ra rất suôn sẻ. Dù là ở thiền đường Nước Tĩnh hay thiền đường Voi Trắng thì Đại chúng vẫn cảm nhận được sự có mặt của nhau. Sự có mặt chứng minh và hộ niệm của hai Hội đồng truyền giới và hơn 300 chư Tôn đức khất sĩ nam và nữ của hai giới trường đã tạo nên một năng lượng hùng hậu, trợ niệm cho các giới tử trong giây phút tiếp nhận giới pháp.

Trong Giới trường thanh tịnh và trang nghiêm, các giới tử thành kính trình diện trước Tam Bảo để tiếp nhận giới pháp từ Chư tôn đức. Kể từ giây phút thiêng liêng này, các sư chú, sư cô chính thức trở thành người con trai, con gái của Bụt. Tiếp nhận bình bát và khoác lên mình chiếc y của Bụt là niềm vinh dự lớn lao trong đời người xuất gia. Chư tôn đức đã đưa các giới tử lên một vị trí cao quý: trở thành Khất sĩ nam (Tỳ kheo) – Khất sĩ nữ (Tỳ kheo ni), chính thức gia nhập vào Tăng đoàn của Bụt. Đây là một dấu mốc quan trọng, là hành trang vững chắc cho các vị Khất sĩ trên con đường tu học và độ đời.

 

Lễ truyền Giới khất sĩ nam

 

Lễ truyền Giới khất sĩ nữ

Trong kỳ Đại Giới Đàn này, Tăng thân hân hoan chào đón 19 vị Khất sĩ nam và 21 vị Khất sĩ nữ. Có thêm những vị xuất gia trẻ phát nguyện tiếp nhận giới pháp, tinh tấn tu tập, chuyển hóa thân tâm là niềm vui lớn của Tăng thân. Với sự tin tưởng, gửi gắm từ đại chúng, các vị Khất sĩ mới nguyện luôn thắp sáng ngọn lửa Bồ Đề Tâm, dành trọn tuổi trẻ cho con đường tu học, thúc liễm thân tâm, vun bồi gốc rễ tâm linh, gieo trồng hạt giống thiện lành cho tự thân và cho mọi người.

Lễ truyền đăng phó pháp

Một trong những niềm vui lớn lao của đại chúng trong Đại Giới Đàn chính là Lễ truyền đăng. Đó là giây phút hân hoan, khi đại chúng cùng nhau đón chào những vị tân giáo thọ – những cánh tay nối dài của chư Bụt, chư Bồ Tát, các vị Tổ sư và Thầy, mang ánh sáng chánh pháp đi vào cuộc đời.

 

 

Quý Thầy, quý Sư Cô lớn đã thay mặt chư Tổ và Thầy, trao truyền niềm tin và tình thương cho các vị tân giáo thọ qua những bài kệ truyền đăng thiêng liêng. Tăng thân hân hoan chào đón thêm 64 vị tân giáo thọ xuất sĩ và cư sĩ, đánh dấu một cột mốc quan trọng trên con đường tu học và hoằng pháp của quý thầy, quý sư cô và các vị cư sĩ.

Đại giới đàn Nước Tĩnh đã kết thúc trong niềm hạnh phúc và hoan hỷ của tất cả mọi người. Các vị khất sĩ mới cùng tăng thân đã bày tỏ lòng biết ơn, tri ân đến Chư Tôn Đức, quý Hoà thượng, quý Sư Bà trong hội đồng truyền Giới. Sự có mặt của tất cả mọi người trong đại chúng đã yểm trợ và góp phần cho đại Giới đàn được thành công viên mãn.

 

 


Xem thêm hình ảnh Đại Giới Đàn Nước Tĩnh

Buổi lễ đặt tên đường “Thích Nhất Hạnh way” tại thành phố New York, Mỹ

Vào ngày 11/04/2025 thành phố New York chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way”. Đây là một sự kiện lịch sử và đầy ý nghĩa nhằm tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh—một nhà lãnh đạo tâm linh, nhà thơ, nhà hoạt động hòa bình, và là người khai sáng pháp môn Đạo Bụt Dấn Thân của Làng Mai.

Buổi lễ đã quy tụ các nhà lãnh đạo thành phố, quý thầy, quý sư cô thuộc tăng thân Làng Mai quốc tế, cũng như quý thân hữu tại New York để cùng tưởng niệm và tri ân vị Thầy kính yêu của chúng ta.

 

 

Vào đầu những năm 1960, Thiền sư đã sống tại số 306 West 109th Street khi đang giảng dạy và học tập tại Union Theological Seminary và Đại học Columbia—một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của Thầy với vai trò là một học giả, giáo thọ và nhà hoạt động xã hội. Việc đặt tên con đường này là sự ghi nhận những đóng góp sâu sắc của Thầy đối với sự thực tập chánh niệm, hòa bình, và chuyển hóa xã hội trên toàn thế giới.

Sau buổi lễ, quý thầy quý sư cô và đại chúng đã thiền hành đến Union Theological Seminary—nơi Thầy đã từng học và giảng dạy—để cùng chiêm ngưỡng thư pháp và sách của Thầy tại thư viện Burke.

Sự kiện trọng đại này không chỉ là một sự tôn vinh di sản của Thiền sư Thích Nhất Hạnh mà còn là cơ hội để mỗi chúng ta thực tập chánh niệm, lòng từ bi và hòa bình. Việc đồng đặt tên đường “Thích Nhất Hạnh Way” là một sự công nhận đối với những ảnh hưởng sâu sắc của Thầy trong phong trào chánh niệm toàn cầu, cũng như trong việc thúc đẩy sự hòa hợp liên tôn và chuyển hóa xã hội.

Chuyến hành hương “Theo dấu chân Thầy” tại Pháp 2025

 

Kính thưa quý vị thân hữu gần xa, quý sư cô xóm Mới rất vui được chia sẻ với quý vị về thông tin của chuyến hành hương “Theo Dấu Chân Thầy” được tổ chức từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 5 năm 2025. Chuyến đi là một cơ hội cho mọi người đến thăm các địa điểm mà ngày xưa Thầy đã từng giảng dạy, hướng dẫn tu học và làm việc, mang phương pháp thực tập chánh niệm lan tỏa khắp mọi nơi.

Chương trình ca khoá tu theo d kiến:

                *  Thứ 7, 17/5: Di chuyển đến Paris                    

               *  Chủ Nhật, 18/5: Ngày quán niệm tại Tu viện Suối Tuệ, một trung tâm của Làng ở vùng lân cận Paris                          

                *  Thứ Hai, 19/5: Thăm văn phòng Hòa bình ngày xưa nơi Sư Ông làm việc trong những năm 70  và lớp học Sư Ông dạy ở Ecole des Hautes Etudes à la Sorbonne      

               *  Thứ Ba, 20/5:  Thăm Phương Vân Am và thiền đường Xương Rồng, tiền thân của Tu viện Suối Tuệ và Hơi Thở Nhẹ.                        

                *  Thứ Tư, 21/5:  Chia tay

Thông tin ghi danh:

  *  Để biết thêm chi tiết và ghi danh cho chuyến đi, mời quý vị vào link này

  *  Mọi thắc mắc xin liên lạc về văn phòng theo địa chỉ:                                                                    nh-office@plumvillage.org (Sư cô Sắc Nghiêm)