Thông Bạch Ngày Tiếp Nối 2012

Hôm 11 -10- 2012 vừa qua, Đại chúng bốn chùa Làng Mai đã tập họp tại thiền đường Hội Ngàn Sao ở Xóm Hạ Làng Mai để mừng ngày sinh của Thầy, mừng Ngày Tiếp Nối của Thầy. Đường dây trực tuyến đã được nối kết với Tu Viện Bích Nham ở Hoa Kỳ, Thiền Đường Hơi Thở Nhẹ ở Paris; Nhóm Tăng thân Wakeup đang tổ chức khóa tu ở Anh Quốc và Tổ Đình Từ Hiếu ở tận quê hương. Buổi sinh hoạt rất vui, nhất là khi các Xóm Hạ và Xóm Mới chiếu lên màn ảnh những cuộn phim do các thầy và các sư cô thực hiện để mừng Ngày Tiếp Nối của Thầy.

Thông điệp bốn phương gửi về rất nhiều. Trên Facebook cũng có gần cả ngàn người từ bốn phương gửi thông điệp về. Cảm động nhất  là những thông điệp trong đó thân hữu và thiền sinh nói lên những câu phát nguyện thực tập để mừng sinh nhật Thầy một cách có ý nghĩa, hơn là gửi quà về. Chúng ta có thể đọc được trên www.facebook.com/thichnhathanhfoundation hàng trăm câu tạ ơn như: “Những lời dạy của Thầy đã cứu mạng sống của con nhiều lần…” hay là “Nhờ Thầy mà con đã biết mỉm cười với tập khí tiêu cực của con và chấp nhận với lòng từ bi những người không dễ thương và từ từ giúp họ gỡ ra những khúc mắc trong lòng họ…”

Tăng thân Dòng Tu Tiếp Hiện tại Anh quốc (The UK Order of Interbeing) đã gửi về Làng một hộp quà lớn trong đó có một bản vẽ một cây đại thụ với rất nhiều hoa trái làm bằng những kết quả thực tập và những lời hứa tiếp tục thực tập của các thiền sinh tự xem là những người con tâm linh của Thầy. Ví dụ: “Con nguyện thực tập thở, mỉm cười và đi trong chánh niệm để có mặt cho con và cho những người con thương” – Sharon, True Flower of Faith. Hoặc “Con nguyện đi đủ ba mươi hai bước và có hạnh phúc mỗi khi con đi ra vườn rau” – Lesly True Lotus of Joy. Hoặc “Con nguyện thực tập lắng nghe nhà con, nhất là khi ông ấy có những ý kiến khác với ý kiến của con” –  Allison True Essential Virtue v.v…

Đại chúng bốn chùa Làng Mai ngồi chơi với Thầy

Chúng con là sự tiếp nối của Thầy

Và sau đây là những lời dạy của Thầy
khi tăng thân Tổ Đình Từ Hiếu tỏ ý muốn được nghe những lời Thầy sách tấn.

Các con đã tiếp nối Thầy được bao nhiêu?

Ở Làng Mai, chúng ta không nói “Mừng ngày sinh nhật” mà nói “Mừng ngày tiếp nối” (Continuation Day). Tiếp nối cái gì? Và ai tiếp nối ai? Hôm nay chúng ta quán chiếu về sự tiếp nối của Thầy trong Thầy và trong các con của Thầy, xuất sĩ cũng như cư sĩ. Các con tiếp nối Thầy nghĩa là sao? Sự tiếp nối có hai phần, nơi thân tâm mình và nơi thân tâm những người được tiếp nhận những gì mình truyền trao. Bụt có dạy về trao truyền như sau: người trao truyền, người nhận trao truyềnvật được trao truyền là một. Tam luân không tịch. Không có chủ thể trao truyền, không có người nhận trao truyền, chỉ có sự trao truyền, thế thôi.

Trao cái gì? Trước nhất là trao bước chân. Các con đã đặt được trên mặt đất từng bước chân chánh niệm hay chưa? Thầy muốn nói đến chùa Tổ Từ Hiếu là nơi Thầy được Sư Cố là Hòa Thượng Chân Thật giao cho trách nhiệm Trụ Trì. Thầy mong rằng quý thầy và quý sư cô bên chùa Tổ thực hiện ngay được sự tiếp nối của Thầy trong từng bước chân và hơi thở của mình. Các con hãy đặt từng bước chân chánh niệm từ phòng ngủ đến nhà vệ sinh, từ nhà vệ sinh đến nhà trà, từ nhà trà lên thiền đường. Các con phải thực sự tiếp nối Thầy trong từng hơi thở và từng bước chân. Suốt sáu mươi năm qua Thầy đã liên tục trao truyền những kinh nghiệm, những thao thức và những hoài vọng của Thầy cho bao nhiêu người qua cách Thầy nói năng, đi đứng, ăn uống và chấp tác trong chánh niệm, qua những cuốn sách Thầy đã viết, qua những lời Thầy thuyết giảng, hoặc trước quần chúng đông đảo, hoặc cho từng nhóm nhỏ hoặc cho từng người. Các con đã tiếp nối Thầy được đến bao nhiêu rồi?

Thiền đi trong Tịnh độ

Thầy đã trao truyền Tịnh Độ Hiện Tiền. Thiền đi trong Tịnh Độ. Xin chùa Tổ đừng xao nhãng sự thực tập Thiền Đi trong Tịnh Độ mỗi ngày. Mọi người cùng đi trong chánh niệm ngoài trời, mỗi ngày một lần, đó là buổi thực tập thiền hành chung. Ngoài ra còn đi riêng từ phòng mình đến nhà ăn, từ nơi này đến nơi kia, từ tăng xá đến nơi chấp tác… Trong giờ Thiền Đi Trong Tịnh Độ xin không nên vắng mặt bất cứ ai. Trong giờ thiền tọa cũng thế. Xin ghi lý do vắng mặt khi phải vắng mặt. Thầy đã trao truyền chánh niệm, năm phép thực tập chánh niệm và hơi thở ý thức mỗi khi có cảm xúc mạnh hay có cảm thọ buồn tủi hay đau đớn phát hiện để mà ôm ấp, nhìn sâu, làm phát khởi lòng từ bi và chuyển hoá.

Vào ngày chánh niệm khi các vị cư sĩ  đến tham dự thì mình cùng đi Tịnh Độ với các vị ấy. Để mọi người có thể thấy được là cõi Tịnh Độ nói trong kinh không phải là một mơ ước xa vời mà là cái có thể đạt được ngay trong giây phút hiện tại. Sau pháp thoại ngày Chủ nhật, xin đề nghị mọi người nghỉ ngơi chừng mười lăm phút rồi tập họp trước chánh điện để cùng Đi Tịnh Độ. Chúng ta có thể đi ngang hồ Sao Hôm, hồ Sao Mai rồi lên đồi Dương Xuân để cùng ngồi xuống trên Tịnh Độ, thở và thấy được sự có mặt của cõi Tịnh Độ bây giờ và nơi đây. Mình cũng ý thức và cảm nhận được sự có mặt của nhau, đó là mình đang thật sự ngồi chơi với nhau trong Tịnh Độ. Chúng ta đã làm được điều này trong các chuyến về của Thầy vào những năm 2005, 2007 và 2008. Mỗi người trong chúng ta đều đã có kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta phải tiếp tục, phải hướng dẫn cho kỹ lưỡng mỗi khi có người Phật tử cư sĩ tới chùa. Phải có một tập sách hướng dẫn để mọi người đọc, hiểu và đi được trong Tịnh Độ. Người xuất sĩ hay người cư sĩ nào tới chùa Tổ cũng có thể làm được việc đó, đi trong Tịnh Độ bây giờ và ở đây.

Không cần xây tháp cho Thầy

Thầy không muốn sau này quý vị xây cho Thầy một ngôi tháp ở Tổ Đình. Xây tháp như thế sẽ không có ý nghĩa gì nếu ngày hôm nay quý vị không nối tiếp được những gì Thầy đang trao truyền. Thầy rất không thích chuyện lấy một mớ tro từ hình hài của Thầy rồi bỏ vào trong một cái hũ, rồi đặt vào trong tháp. Thầy không phải là cái nắm tro đó. Không có lý Thầy chỉ là cái nắm tro ấy hay sao? Thầy nhiều hơn cái nắm tro đó. Thầy là một thực tại linh động, đang sống, đang có mặt khắp nơi. Trong các sư chú và các sư cô đều có Thầy, trong các vị cư sĩ quen biết đều có Thầy. Ở chỗ nào mà có thiền hành, thiền tọa, có pháp đàm, có ăn cơm yên lặng, có Sám Pháp Địa Xúc là có Thầy. Không được nhốt Thầy, bỏ Thầy vào trong một cái hũ nhỏ rồi đặt Thầy vào trong một cái tháp. Thầy không muốn Thầy có một cái tháp. Tốn đất chùa vô ích. Sư Thầy Đàm Nguyện đã xây cho Thầy một cái tháp ở chùa Đình Quán. Đã lỡ xây rồi thì phải ghi lên trước tháp mấy chữ: “Trong này không có gì.” Thầy không nằm trong tháp ấy đâu. “There is nothing inside”. Nếu người ta vẫn chưa hiểu thì ghi thêm một câu nữa “Ngoài kia cũng không có gì.” Và nếu vẫn còn chưa hiểu thì ghi thêm một câu chót là “Nếu có gì thì nó có trong bước chân và hơi thở của bạn.” Đó là điều Thầy căn dặn các Thầy các sư cô ở chùa Đình Quán Hà Nội và ở Tổ Đình. Đừng phí thì giờ nghĩ đến chuyện tìm đất xây tháp cho Thầy. Đó không phải là điều Thầy nghĩ tới. Nếu có một tảng đá có sẵn thì để vào trong hốc đá bản thảo của một cuốn sách của Thầy như cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức thì tảng đá đó có Thầy nhiều hơn là một cái tháp trong đó có một nắm tro. Đem tro mà rải hết ra ngoài để nuôi cây nuôi cỏ, cho cỏ cho cây lớn lên. Đừng có ngăn ngừa sự tiếp nối của nắm tro ấy.

Tổ Đình cần tu học theo pháp môn Làng Mai một trăm phần trăm

Đứng về phương diện tu học, Thầy muốn Tổ Đình phải theo pháp môn Làng Mai một trăm phần trăm. Pháp môn ấy là công trình của Thầy đã xây dựng nên. Có nhiều tôn túc đã xây nên những ngôi phạm vũ thật huy hoàng. Đó là công trình lớn lao của quý ngài. Nhưng công trình của Thầy không phải là một tòa phạm vũ nguy nga mà là những pháp môn tu học có công năng chuyển hoá và trị liệu được cho người đương thời.

Ngôi tháp của Thầy: các pháp môn tu tập

Các pháp môn tu tập ấy chính là cái tháp của Thầy. Ở Pháp Vân hay ở Tổ Đình đều phải có cái Tháp ấy. Không phải một cái tháp bằng gạch, bằng xi măng mà là một cái tháp của sự thực tập. Tất cả các thầy, các sư cô, các sư chú và các vị Phật tử cư sĩ tới, ai cũng được mời đi vào cái tháp đó. Nghĩa là phải học đi trong chánh niệm, uống trà trong chánh niệm, biết nói năng cho từ ái và biết lắng nghe nhau.

Phương cách quản trị

Thầy không muốn Tổ Đình được quản trị theo phương cách cổ điển. Thầy muốn Tổ Đình được chăm sóc, quản trị theo tinh thần mới, trẻ và dân chủ. Và sau này chức vụ Trụ Trì sẽ được hội đồng tỳ kheo công cử mỗi ba hoặc năm năm. Công cử người nào có khả năng sống chung hạnh phúc với cả chúng, có khả năng tiếp xúc và đến được với mọi người. Công cử một vị nào mà cả chúng tin cậy và thương yêu, dù vị đó còn trẻ tuổi như Thầy Pháp Hữu ở Xóm Thượng. Thầy muốn Tổ Đình sẽ tổ chức theo mô thức của Làng Mai. Phải có một Hội Đồng Tỳ Kheo để quyết định tất cả những gì cần quyết định ở Tổ Đình. Đó là cơ quan lập pháp tối cao của Tổ Đình. Mọi quyết định đều phải do Hội Đồng Tỳ Kheo đưa ra. Bất cứ một vị tỳ kheo nào cũng phải nói lên tiếng nói về cái thấy của mình trong Hội Đồng Tỳ Kheo. Đồng ý và quyết định xong thì là vị tỳ kheo  đã làm xong nhiệm vụ. Cái quyết định tối hậu là do Tác Pháp Yết Ma của Hội Đồng Tỳ Kheo làm ra. Thầy muốn Tổ Đình bắt đầu tổ chức như vậy ngay từ bây giờ. Tổ Đình cử ngay một Ban Chăm Sóc (Care Taking Council – CTC) hoặc gọi cách khác là Ban Điều Hành.

Nhân dịp này, Thầy muốn công cử Thầy Từ Hải đứng ra thành lập ban ấy, tức là Ban Chăm Sóc của Tổ Đình. Thầy Từ Hải tuy còn trẻ nhưng được các Thầy trong chúng tin tưởng và yêu mến. Xin Thầy Từ Hải đứng ra lập ngay một Ban Điều Hành trong đó có nhiều chức vụ. Và ban ấy sẽ làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội Đồng Tỳ Kheo. Hội Đồng Tỳ Kheo quyết định cái gì thì Ban ấy chấp hành và làm theo quyết định đó. Các Thầy lớn, các sư anh lớn, các sư chị lớn đều sẽ đứng sau lưng để yểm trợ. Đó là cơ quan hành pháp của Tổ Đình, chung cho cả Từ Hiếu và Diệu Trạm. Nếu cần phải tiếp một vị Tôn Túc hoặc chủ tọa một buổi lễ lớn thì Ban Chăm Sóc có thể thỉnh mời các vị lớn tuổi như Hòa Thượng Chí Mãn hay Thượng Tọa Từ Đạo v.v… Thầy muốn Tổ Đình đi theo mô thức đó. Lâu lâu nếu cần thì phải ngồi lại để bổ túc và thay đổi nhân sự của Ban Điều Hành. Sau ba, bốn năm hoặc năm năm thì Hội Đồng Tỳ Kheo có thể đề nghị một vị khác thay thế. Nếu vị trưởng ban làm việc giỏi quá thì có thể lưu lại thêm một nhiệm kỳ nữa. Tuy Thầy chưa viết xuống những điều này thành văn bản, tuy đây không phải là lời di chúc nhưng đó là tuệ giác của Thầy, là những ước muốn đích thực của Thầy khi Thầy còn sống. Nếu quý vị có thương Thầy, có tin Thầy thì phải lập tức làm theo. Còn nếu không làm theo thì sau này việc xây tháp, cúng giỗ, kỷ niệm, đọc điếu văn v.v… đều là những điều vô nghĩa. Thầy nghĩ rằng cách thức này là cách thức hay nhất để mình tổ chức một tu viện.

Ở Tây phương, các tu viện lớn của Cơ Đốc Giáo cũng đã bắt đầu tổ chức như vậy. Chính họ bầu lên vị lãnh đạo của họ và cứ  ba năm hay năm năm thì bầu lại một lần. Những thầy nào, những sư cô nào, những sư chú nào không thực hành theo quy chế và mệnh lệnh của Đại tăng, không chịu đi theo quy luật của tu viện thì sẽ không được ở lại Tổ Đình. Bởi vì nếu để họ ở lại thêm ở Tổ Đình thì sẽ làm hư những người khác. Đó là những điều Thầy muốn chia sẻ chiều nay. Nếu muốn tiếp nối Thầy thì đó là cách tiếp nối hay nhất. Còn nếu không làm được những cái đó thì đừng có chúc thọ, đừng hát Happy Continuation Day, vì như thế thì không có nghĩa gì hết. Thầy muốn Tổ Đình đi theo pháp môn của Làng Mai. Đó là công trình xây dựng của Thầy sau sáu mươi năm tìm tòi và phát triển, đó là một cái tháp mà Thầy đã dựng lên.

Hôm nay chúng ta hãy sống với nhau cho có hạnh phúc, hãy đi đứng, nói cười và tiếp xử với nhau cho có hạnh phúc thì đó mới chính là good continuation. Điều đó phải xảy ra từng ngày. Đám mây sẽ không có đau buồn gì khi nó không còn mang hình tướng của đám mây tại vì nó biết rằng nó đã thành mưa, mà thành mưa thì nó vẫn tiếp tục đời sống phụng sự của nó. Và khi đám mưa không còn nữa thì mình lại thấy có dòng suối và dòng suối lại tiếp tục sứ mạng của cơn mưa. Và vì vậy cho nên không có cái gì chết, không có cái gì mất đi cả.

Tiếp nối vô tướng

Chúng ta thường kẹt vào hình tướng quen thuộc. Vì vậy cho nên ta hay khóc thương khi thấy cái hình thức quen thuộc ấy không còn nữa. Khoa học bây giờ có thể dùng phép cloning để có thể tạo ra một ngàn đứa bé giống hệt như  hồi Thầy còn bé. Chỉ cần lấy ra vài ngàn tế bào của Thầy là làm được chuyện này. Một ngàn đứa bé ấy sẽ giống nhau như đúc và giống như Thầy hồi còn bé. Cũng giống như hai chị em sinh đôi của sư cô Thi Nghiêm là Thuận với Thảo. Các vị có thể thích thú nhìn các cậu bé ấy chơi đùa, nói cười rất giống Thầy hồi còn bé. Nhưng những cậu bé ấy không phải đích thực là Thầy, dù trong mỗi đứa cũng có những hạt giống tốt và những hạt giống không tốt của Thầy. Nếu chúng không gặp minh sư, không có môi trường tu học, không đi qua những thử thách như Thầy thì chúng cũng không phải là sự tiếp nối đích thực của Thầy. Nhưng nếu quý vị, trong mỗi bước chân, trong mỗi hơi thở mà có pháp lạc của Thầy thì quý vị trên hình thức tuy mặt mũi không giống Thầy mà trong nội dung lại là sự tiếp nối đích thực của Thầy. Cho nên pháp môn vô tướng trong tam giải thoát môn là rất quan trọng để ta chúng ta nhận diện được thế nào là sự tiếp nối đích thực.

Hình bìa hộp quà và cây chúc mừng sinh nhật với những lời phát nguyện thực tập
của Tăng thân Dòng Tu Tiếp Hiện tại Anh quốc (The UK Order of Interbeing)

Những đóng góp của đạo Bụt cho một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh

Thiền sư Nhất Hạnh

Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc lần thứ năm là dịp để tất cả chúng ta tới với nhau như một đại gia đình, như một cộng đồng cùng thừa hưởng nguồn tuệ giác của Đức Bổn Sư. Chúng ta hãy cùng đón mừng niềm vui sum họp và ý thức rằng nếu chúng ta biết cách nuôi dưỡng mình bằng nguồn tuệ giác vĩ đại đó, chúng ta sẽ có khả năng thay đổi xã hội hiện nay và cải thiện chất lượng cuộc sống trên hành tinh này. Với sức mạnh cộng đồng, chúng ta có thể làm được điều đó.

Chủ đề cho sự quán chiếu của chúng ta năm nay là Những cống hiến của đạo Bụt cho một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta không nên để Đại Lễ này đơn giản chỉ là một diễn đàn của những ý tưởng tốt đẹp như bao diễn đàn khác, mà chúng ta nên làm sao để thực thi chúng ngay trong cuộc sống hằng ngày và áp dụng vào xã hội những quyết định đã được cùng nhau thông qua cũng như những tuệ giác tập thể đạt được trong Đại lễ này. Với sự yểm trợ của tăng thân, và sự thực tập Niệm – Định – Tuệ miên mật, chúng ta có thể chia sẻ tuệ giác của chúng ta, chỉ rõ con đường hành động và cam kết sống trong ánh sáng của nguồn tuệ giác này, từ mức độ cá nhân tới cộng đồng, từ thôn xóm, thành phố tới toàn quốc. Điều này cũng giống như một thầy, một sư cô không thể chỉ học và nghiên cứu về giới bản Ba-la-đề-mộc-xoa mà còn phải thực hành giới bản đó, hay một người cư sĩ không chỉ nhận năm giới mà còn phải áp dụng giới trong đời sống hằng ngày. Bản Tuyên Cáo 2000 về một nền văn hóa hòa bình và bất bạo động do UNESCO đưa ra đã được hơn 75 triệu người (trong đó bao gồm rất nhiều các vị lãnh đạo quốc gia) ký tên hưởng ứng, nhưng chúng ta đã không tổ chức để những người đã đặt bút ký vào bản Tuyên Cáo được yểm trợ và có điều kiện áp dụng sáu điểm của Tuyên Cáo vào thực tế cuộc sống. Chỉ cùng đồng ý với nhau rằng có con đường rất đẹp thì chưa đủ, chúng ta cần phải thực sự lên đường.

Chúng ta biết rằng để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, ta không thể chỉ hành động mà phải nỗ lực tự chuyển hóa bản thân. Chúng ta phải thay đổi bản thân trước khi muốn thay đổi xã hội. An lạc là nền tảng tạo nên hòa bình. Nếu không có sự chuyển hóa và trị liệu trong từng cá nhân, chúng ta không thể giúp thay đổi xã hội. Vì vậy, sự thực tập của từng cá nhân và sự thực tập của tăng thân rất cần thiết cho việc thay đổi thế giới theo hướng chúng ta mong muốn.

Chiến tranh, xung đột và hàn gắn

Gốc rễ của chiến tranh và xung đột nằm ngay trong chúng ta. Chúng ta cần phải nhận ra, ôm ấp và chuyển hóa những phiền não trong tự thân như giận hờn, thù hận, tuyệt vọng, kỳ thị, ngã mạn. Sự thực tập là phải nhìn sâu vào gốc rễ của những phiền não đó, hiểu thấu và học cách chuyển hóa chúng. Chúng ta cần lắng nghe những niềm đau nỗi khổ của bản thân, của gia đình, của cộng đồng và của đất nước. Chúng ta cần có khả năng giúp những người khác nhận ra rằng phiền não có mặt trong mỗi con người và cách sống của chúng ta đã tạo điều kiện cho những phiền não đó lớn mạnh. Và mỗi người chúng ta phải cam kết không tưới tẩm những hạt giống của bạo lực, hận thù, kỳ thị và tuyệt vọng có sẵn trong mình. Trong các mối quan hệ, với người bạn đời, với cha mẹ hay con cái, với anh chị em, chúng ta phải có khả năng giúp đỡ lẫn nhau trong sự thực tập, phải luôn học cách lắng nghe nhau với tâm từ bi, luôn sử dụng lời ái ngữ để giúp người đó nhận diện những phiền não trong bản thân họ. Chúng ta cũng nên dùng lời ái ngữ để tưới tẩm những hạt giống của hiểu biết, từ bi, hỷ lạc, của tình huynh đệ đang tiềm ẩn trong mỗi người. Chúng ta cần giúp nhau hàn gắn cho được các mối quan hệ cá nhân trước khi giúp hàn gắn nhân loại và trái đất. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi ý tưởng, mỗi lời nói và mỗi nụ cười đều có khả năng trị liệu. Trái đất đang rên xiết, xã hội đang than van, quá nhiều bạo động và tuyệt vọng. Sự thực tập tư duy chân chính (là tư duy đúng, tư duy theo hướng không kỳ thị, từ bi, hiểu biết), lời nói chân chính, hành động chân chính và nghề nghiệp chân chính của đạo Bụt là những điều rất thiết yếu cho sự chữa trị mà tất cả chúng ta đang cần đến. Các bạn trẻ nên học và thực tập con đường của tám sự hành trì chân chính (Bát chánh đạo) trong phạm vi gia đình, trường học. Những cuộc đàm phán hòa bình chỉ thành công khi cả hai phía xung đột hiểu được tình trạng của nhau và biết cách thực tập lắng nghe và ái ngữ. Phương pháp thực tập này nên được giảng dạy ngay từ những bậc học sơ đẳng nhất. Ta có thể gọi đó là giáo dục hòa bình và chính là con đường giúp thoát khỏi chiến tranh và bạo lực.

Đóng góp của đạo Bụt cho một xã hội công bằng

Tuyên Cáo 2000 đã đưa ra sáu điểm tương đương với nội dung của năm phép thực tập chánh niệm (Năm Giới). Cả sáu điểm và năm giới đều cùng chung mục đích là tạo nền tảng cơ bản nhất cho hòa bình và công bằng xã hội. Trong truyền thống Phật giáo, sau khi tiếp nhận Năm giới, người thọ giới phải ôn tụng lại giới mỗi hai tuần một lần và tham dự các buổi thảo luận (pháp đàm) về giới để càng ngày cái thấy về giới luật càng sâu cũng như tìm ra những phương pháp áp dụng giới luật hay hơn vào thực tiễn cuộc sống gia đình và xã hội. Năm phép thực tập chánh niệm chỉ cho chúng ta cách sống đơn giản hơn, biết tận dụng thời gian và năng lượng, bảo hộ sự sống và giúp đỡ những ai đang thật sự cần giúp đỡ. Sống đơn giản mà vẫn có hạnh phúc, có thời giờ chăm sóc bản thân và chăm sóc gia đình, giúp đỡ người khốn khó và giúp làm cho xã hội công bằng hơn, đó là điều chúng ta có thể làm được. Rất nhiều người trong chúng ta cả đời chỉ biết chạy theo danh vọng, quyền hành, sắc dục và tiền bạc, nhưng ngay cả những người đã dư thừa bốn thứ trên vẫn không tránh khỏi bất hạnh, khổ đau nếu họ không có vốn liếng của hiểu biết và thương yêu.

Khi thực tập giới thứ hai, nguyện chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật với những kẻ đang thật sự thiếu thốn, cuộc sống của chúng ta trở nên đầy ý nghĩa và ta thấy mãn nguyện. Có rất nhiều phương cách mà đạo Bụt và sự thực tập Năm giới có thể đem tới thêm nhiều từ bi và công bằng cho xã  hội. Khi trong ta có chánh niệm, từ bi và hiểu biết, những hành xử của ta sẽ tự nhiên trở thành nguồn trị liệu cho các mối quan hệ cá nhân, cho cộng đồng và cho xã hội. Chúng ta có ý thức trước những tình trạng bất công như kỳ thị giới tính, coi thường người phụ nữ, đàn áp thiểu số, lạm dụng trẻ em và người nghèo. Chúng ta có rất nhiều cách nói lên trình trạng bất công và lên tiếng cho những ai đang khổ đau mà bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng ta có thể tổ chức những buổi thiền hành cho hòa bình, từng bước chân bước trong bình an. Đó sẽ không phải là những cuộc biểu tình hay để phản đối một ai, đó là cách thức chân chính nhất để thực tập thể hiện hòa bình, thể hiện tình huynh đệ. Chúng ta cũng có thể viết những lá thư cho các vị dân biểu. Tăng thân Làng Mai đã từng tổ chức những khóa tu chánh niệm cho giới công an cảnh sát, cho các đại biểu quốc hội, cho giới nghệ sĩ trong ngành công nghiệp phim ảnh, cho các nhà bảo vệ môi trường, cho các bác sĩ tâm lý trị liệu, giới doanh thương, và cả cho những người Do Thái và Palestin. Năm giới của đạo Bụt và sáu điểm của bản cam kết 2000 là sự thực tập hiểu biết và thương yêu đích thực. Đó là con đường đưa tới một xã hội công bằng.

Đạo Bụt nhập thế với vấn đề phát triển

Đạo Bụt nhập thế trước tiên là một đạo Bụt được thực tập không gián đoạn suốt cả ngày. Ta sống trong chánh niệm và tập trung tâm ý khi đi, khi nấu ăn, khi lái xe, khi vào nhà vệ sinh, v.v… Đạo Bụt nhập thế cũng là sự thực tập Năm giới trong cuộc sống xã hội. Chúng ta thực tập tình thương và sự hiểu biết trong gia đình, trường học, công sở, bệnh viện, nhà tù, nhà máy, trong quân đội, trong hội đồng nhân dân và cả trong guồng máy chính phủ. Sự hiện diện của chánh niệm, chánh định và tuệ giác, tinh thần tương tức, không kỳ thị, hiểu biết và từ bi chính là sự có mặt của Phật giáo. Chúng ta đâu cần phải buộc tất cả mọi người trở thành Phật tử. Chúng ta có thể truyền cho họ nguồn cảm hứng để họ cũng sống và làm việc trên tinh thần Bát Chánh Đạo. Chúng ta có thể tìm được hạnh phúc trong khi thực tập phát triển hiểu biết và từ bi. Hạnh phúc, thành công và sự tiến bộ của một quốc gia không phải là chỉ số tổng sản lượng quốc nội hay khả năng tiêu thụ mà phải được đo bằng mức độ hiểu biết và từ bi.

Bốn Tâm Vô Lượng (Từ – Bi – Hỷ – Xả) là những nguồn năng lượng vô biên mà chúng ta có thể thực tập và phát triển để nuôi lớn hạnh phúc của chúng ta và của thế giới. Những nguồn năng lượng ấy không bao giờ là dư thừa cả. Thực tập chánh niệm trong sản xuất và tiêu thụ (giới thứ năm) sẽ đảm bảo cho chúng ta không đi lệch hướng phát triển bền vững. Hạnh phúc chân thực phải là nền tảng, là nguyên lý cho mọi chính sách sản xuất, tiêu thụ và phát triển. Tuệ giác của đạo Bụt là tuệ giác tương tức, là Chánh Kiến – cái thấy đúng về thế giới, rằng vạn vật nương nhau mà biểu hiện. Nếu những loài khác không còn tồn tại thì loài người cũng không thể tồn tại được. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ loài người. Chúng ta không chỉ là thân, là tâm mà còn chính là môi trường. Môi trường của chúng ta là y báo của cộng nghiệp. Sống đơn giản hơn, tập thương yêu và hiểu biết, chăm sóc môi trường, cùng nhau cam kết hành động cho một sự phát triển bền vững, đó là chúng ta đang đi theo con đường của Bụt vậy.

Đạo Bụt với vấn đề khí hậu thay đổi

Khai thác và đốt những nguồn nhiên liệu như dầu hỏa, than đá, chặt phá rừng để cung cấp cho các phương tiện giao thông, cũng như tiêu thụ thịt và những sản phẩm từ động vật là những nguyên nhân chính của tình trạng trái đất nóng lên. Theo một công bố của Liên Hiệp Quốc năm 2007, giải pháp cho tình trạng này là giảm mức tiêu thụ thịt xuống 50%, sử dụng những nguồn nhiêu liệu sạch cho xe hơi và chỉ sử dụng xe hơi khi nào thật sự cần thiết. Rất nhiều Phật tử không ăn thịt. Giảm bớt hay ngưng lại hoàn toàn sự ăn thịt và sử dụng các thức uống có cồn không phải là điều khó thực hiện. Những ai đã thức tỉnh trước mức độ nghiêm trọng của tình trạng hiện nay sẽ thấy cần phải hành động tức thì. Chúng ta có thể thực tập “ngày không xe hơi” hay “ngày không xe gắn máy” mỗi tuần. Chúng ta có thể sử dụng xe hơi dùng cả xăng và điện. Chúng ta có thể chuyển đổi xe hơi của mình sang loại chạy bằng dầu thực vật. Chúng ta có thể đi bộ hay đi xe đạp đến trường hay tới công sở. Chúng ta có thể thưởng thức những món ăn chay rất ngon. Có rất nhiều cách chúng ta có thể tiến hành ngay nhằm cứu lấy hành tinh này. Nền văn minh của chúng ta sẽ tự hủy diệt nếu chúng ta không kịp thời thức tỉnh.

Đạo Bụt với các vấn đề trong gia đình

Hạnh phúc của cha mẹ là món quà quý giá nhất mà các bậc làm cha mẹ có thể dành tặng cho con cái mình. Cha mẹ rất cần có thời gian để chăm sóc cho nhau và chăm sóc con cái. Đừng để công việc hay những dự án cuốn mình đi. Câu trả lời là một cuộc sống đơn giản, bởi vì sống đơn giản chúng ta sẽ không chạy theo danh lợi và sẽ đầu tư vào những gì quan trọng nhất, đó là hạnh phúc và bình an của bản thân, của gia đình và của cộng đồng. Sự thực tập lắng nghe và ái ngữ giúp chúng ta duy trì và tái lập truyền thông. Con cái sẽ tự nhiên học được từ cha mẹ cách thương yêu và chăm sóc nhau. Nếu cha mẹ nghiện ngập, hút xách, con cái cũng sẽ làm y như vậy. Năm phép thực tập chánh niệm đúng là nền tảng đạo đức cho một đời sống gia đình. Tại rất nhiều quốc gia Phật giáo hiện nay, vẫn còn rất nhiều gia đình duy trì được truyền thống đi chùa mỗi nửa tháng để tụng đọc Năm Giới và thực tập Làm Mới (1).Nếu không thực tập Làm Mới, sự thực tập tưới tẩm những hạt giống lành trong mỗi người, nghệ thuật lắng nghe và ái ngữ thì cha mẹ, vợ chồng không thể nuôi dưỡng tình yêu thương và khó mà truyền thông với nhau. Sự chuyển hóa và trị liệu là điều có thể thực hiện được khi ta thực tập chánh niệm, và những cặp vợ chồng có thể tránh được nạn ly hôn và trở thành xa lạ đối với chính con cái mình.

Giáo dục Phật giáo: tiếp nối và phát triển

Ngày nay, nghiên cứu Phật giáo đã trở thành lý thuyết suông. Chúng ta lấy được bằng tiến sĩ Phật học nhưng vẫn không biết cách chuyển hóa khổ đau và phiền não của bản thân. Chúng ta không biết nghệ thuật xây dựng tăng thân, không biết cách giúp hòa giải xung đột trong gia đình và trong cộng đồng, không biết thực tập giới, định, tuệ. Kiến thức về đạo Bụt chỉ cho phép chúng ta viết ra những cuốn sách về đạo Bụt và giảng dạy về đạo Bụt. Chúng ta phải tổ chức lại việc nghiên cứu Phật học để Viện nghiên cứu Phật học cũng phải đồng thời là một Trung tâm thực tập. Thầy giáo và học viên phải cùng nhau thực tập và người thầy phải tự thân thực tập và kinh nghiệm sự chuyển hóa và trị liệu trước khi được phép đứng trên bục giảng. Chúng ta nên cùng thành lập những Viện Phật Học Ứng Dụng, mở những khóa học và những khóa thực tập với mục đích chuyển hóa và trị liệu. Trong các trường học, con em chúng ta cần có cơ hội học cách làm chủ cơn giận hay năng lượng bạo lực trong các em, học cách lắng nghe với tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ.
Môn học Giáo dục công dân và đạo đức Phật giáo cần được giảng dạy như thế nào để ngay cả những em còn rất nhỏ cũng có thể thực tập được.

Đạo Bụt trong kỷ nguyên kỹ thuật số

Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, giáo pháp có khả năng tới được với đông đảo quần chúng. Chúng ta có thể ngồi nhà cách xa Thầy và tăng thân hàng trăm cây số mà vẫn được nghe pháp thoại trực tiếp, dự pháp đàm hay thậm chí ngồi thiền cùng Thầy và tăng thân. Chúng ta vẫn có thể được hưởng lợi lạc từ tăng thân dù tăng thân rất xa. Chúng ta có thể tải xuống những tài liệu về giáo lý để nghiên cứu. Nhưng không gì có thể thay thế được mối liên hệ gắn bó thân thiết giữa thầy và trò, giữa một thành viên của tăng thân với tăng thân. Vì vậy, sự thực tập xây dựng tăng thân, giữa cá nhân với cá nhân là một bước rất quan trọng. Để xây dựng tăng thân, chúng ta cần phải biết phép lắng nghe, ái ngữ, hiểu biết, thương yêu và yểm trợ. Một tăng thân qua liên lạc thư từ thì chưa đủ. Một tăng thân thực tập giỏi luôn luôn chuyên chở được Pháp sống và Phật sống. Vậy, nên học cách xây dựng một tăng thân vững mạnh là một thực tập rất thiết yếu. Một tăng thân vững mạnh sẽ là chỗ nương tựa cho rất nhiều người. Trong các Viện Phật học, môn học dựng tăng phải là một môn quan trọng cần được học và thực hành.
Một việc khác quan trọng không kém là làm mới lại truyền thống để có thể phù hợp với con người thời đại ngày nay. Internet, kỹ thuật hiện đại có thể trở thành những phương tiện thiện xảo giúp phổ biến giáo lý đạo Bụt và giúp làm vơi khổ đau của con người. Chúng ta có thể tải về máy tính âm thanh của tiếng chuông và cài đặt chương trình để mỗi nửa giờ hay một giờ lại được nghe tiếng chuông, giúp chúng ta dừng lại, thở và quay về với chánh niệm. Mạng internet hiện nay đang hỗ trợ rất nhiều người tiếp cận được với giáo Pháp, điều này rất quan trọng, đặc biệt đối với các bạn trẻ. Chúng ta cũng cần ứng dụng tuệ giác đạo Bụt để tự bảo hộ trước những nguy hiểm do công nghệ hiện đại gây ra. Trong giới bản Ba-la-đề-mộc-xoa tân tu có những giới luật về sử dụng internet, các thầy, các sư cô phải lên mạng lưới internet cùng với một thầy hay sư cô khác để không bị vướng vào những trang web không lành mạnh.

Đức Bổn Sư đã hiến tặng cho chúng ta một công cụ chẩn đoán rất tốt, đó là Tứ Diệu Đế – bốn sự thật mầu nhiệm: Khổ, gốc rễ của Khổ, sự vắng mặt của Khổ và sự thực tập nhổ rễ cái Khổ. Đạo Bụt phải được thực tập dưới ánh sáng của Tứ Diệu Đế, và sự chuyển hóa và trị liệu mà chúng ta đang cần phải được diễn ra ngay ở đây và bây giờ, không thể đợi tới sau này hay ở một thế giới khác. Chúng ta trình bày những lý thuyết đạo Bụt rất giỏi nhưng chúng ta chưa giỏi mấy khi đưa những giáo lý mầu nhiệm ấy vào thực hành ngay ở đây và bây giờ. Sự thực tập, còn gọi là Pháp sống, phải tốt đẹp ngay ở đây và bây giờ. Cùng được xum họp với nhau trong Đại Lễ Phật Đản, chúng ta hãy nhân cơ hội này, cùng nhau chia sẻ tuệ giác và sự tỉnh thức, cùng nhau cam kết sống cuộc sống hằng ngày trong ánh sáng của sự thức tỉnh và tuệ giác ấy, và cùng yểm trợ nhau cùng thực hiện. Những đóng góp của đạo Bụt cho việc tạo dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh phải được thấy trong sự thực tập của chính chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Sống có ý thức, tỉnh thức và thực hiện những cam kết, chúng ta có thể chứng kiến sự chuyển biến của xã hội từ chính sự thay đổi bản thân chúng ta.

sư cô Chân Khiết Nghiêm chuyển ngữ

_______________
(1) Một thực tập nhằm thiết lập lại truyền thông bằng cách chia sẻ những điểm mà ta trân quý ở người kia, xin lỗi những vụng về mà ta đã gây ra, và khéo léo bày tỏ cho người kia biết cảm giác bị tổn thương hay bị hiểu nhầm để có thể giải quyết mâu thuẫn.

________
Buddhist Contributions to building a Just, Democratic and Civil Society
Thich Nhat Hanh

The Fifth United Nations Day of Vesak is an opportunity for all of us to come together as a family, as a community that is nourished by the wisdom of the Buddha. Let us feel the joy of togetherness and be aware that if we know how to be nourished by this source of great wisdom, we will be able to change our society and improve the quality of life on our planet. And we can do this as a community.
The main theme of our reflection this year is: Buddhist Contributions to building a Just, Democratic and Civil Society. This gathering should not become just another conference where we only offer beautiful ideas. The collective insights we arrive at and the decisions we make together at this gathering should be implemented in our daily life and applied in our society. With the sangha’s continuous support, with the practice of mindfulness, concentration and insight, we can share our wisdom, articulate our path of action as clearly as we can, and make a commitment to live our daily life in the light of this wisdom, as individuals, a community, a village, a city and a country. It is just like monks and nuns who should not only learn the Pratimoksha, but also put it into practice; and lay practitioners who should not only receive the five precepts, but practice them in their daily life. UNESCO’s Manifesto 2000 for a Culture of Peace and Nonviolence was signed by more than seventy-five million people, among them many heads of state, but we did not organize it so that those who have signed it are supported to put the six points of the Manifesto into practice. To agree that the path is beautiful is not enough. We need to walk on the path.
We all know that building a just, democratic and civil society cannot rely only on our effort to do but first of all on our effort to be. We have to be the change ourselves before we can make the change happen in our society. Being peace is the foundation of making peace. Without personal transformation and healing we are not calm and compassionate enough to use loving speech and deep listening, and our efforts will not help change our society. Therefore, our personal practice and the practice of our sangha are essential for the change we want to see in the world.

1. War, Conflict and Healing
The roots of war and conflict are in us. There are afflictions in us to be recognized, embraced, and transformed: anger, hate, discrimination, pride, despair… The practice is to look deeply into their roots, to understand them and learn how to transform them. We need to listen to our own suffering and the suffering of our family, community, and nation. We should be able to help each other in our relationships to recognize that these afflictions are there in each of us and we have lived in such a way that has allowed these afflictions to grow, and each of us have to make the commitment not to water the seeds of violence, hate, discrimination and despair that are in us. In our relationship like partner/partner, father/son, mother/daughter, brother/sister, for instance, we should be able to help each other to practice, always learn to listen to each other with compassion, always use loving speech to help the other to recognize the afflictions him/her. We should also use loving speech to water the seeds of understanding, compassion, joy, sisterhood and brotherhood that are inherent in the other person. We should help each other to heal in the context of our personal relationships before we can expect to help heal humanity and the Earth. Healing is possible with each breath, with each step, with each thought, with each word and the simplest act of smiling to someone.
The Earth is ailing, our society is ailing and there is so much despair and violence. The Buddhist practice of Right Thinking (thinking in the line of non-discrimination, compassion, and understanding), Right Speech, Right Action, Right Livelihood is so crucial for the healing that we all need. The young people should learn to practice the Noble Eight-Fold  Path in the context of their family and their school, and the use of non-sectarian language to teach, this is always possible. Peace negotiations will be successful if both parties in the conflict have mutual understanding and know how to use deep listening and loving speech. And this kind of training should start at the earliest levels of education. This is peace education and it is the way out of war and violence.

2. Buddhist contribution to social justice
UNESCO’s Manifesto 2000 with its six points is equivalent to the practice of the Five Mindfulness Trainings (Five Precepts). Both the six points and the Five Trainings address the issues of Peace and Social Justice at the fundamental level. In the Buddhist tradition, after having received the Five Mindfulness Trainings one has to recite them every two weeks and participate in sessions of learning and Dharma discussion to go more deeply into their meaning and to find better ways to apply them into daily life, both in the context of family life and society. The Five Trainings guide us to live more simply, so that we have time and energy and to protect life and to help those who are in real need. It is possible to be happy with simple living, to have time to take care of ourselves, our family and those who suffer, and to promote greater social justice. Many of us run after Fame, Power, Sex, and Wealth our whole life, but people who have plenty of these four things continue to suffer a lot if they do not have understanding and love.
When we practice he second training of generosity, to offer our time, energy and material resources to those in real need, our life is full of meaning and fulfillment. There are many ways that Buddhism and the practice of the Five Mindfulness Trainings can bring more justice and compassion to society. With mindfulness, compassion and understanding in us, we naturally act in a healing way, in our relationships, community and in our society. We should be awake to situations of injustice, like gender inequality and the exclusion of women, the oppression of minorities, the exploitation of children and of the poor. There are many ways we can speak out about injustice and call attention to the voiceless who suffer. We can organize peace walks, where every step is peaceful. This is not a demonstration or a protest, but a true manifestation of peace, of brotherhood and sisterhood. We can write love letters to our political representatives. Our Plum Village sangha has offered mindfulness retreats for police officers, for members of  Congress, for artists in the film industry, environmentalists, psychotherapists, business leaders, as well as for Israelis and Palestinians. The Buddhist Five Mindfulness Trainings and the six points of the Manifesto 2000 are the true practice of understanding and love. They are the path to a just society.

3. Engaged Buddhism and development
Engaged Buddhism is first of all the kind of Buddhism that is practiced all day long without interruption, living in Mindfulness and Concentration, even when we walk, drive, cook, go to the toilet…  Engaged Buddhism is also our practice of the Five Mindfulness Trainings within our social environment. We practice understanding and love in our family, in school, in the workplace, in the hospital, with our work team, in the city council, in the marketplace, the National Assembly, in correctional centers, in the factories, and business meetings. We do not necessarily need to use Buddhist terms to bring the practice into every walk of life in education, economics, culture, medicine, police forces, army, political parties, war, peace, etc… The presence of Mindfulness, Concentration, and the Insight of inter-being, non-discrimination, understanding and compassion is the very presence of Buddhism. We do not have to convert people to Buddhism, but we can inspire them to live and work according to this noble path. We can find happiness in the development of understanding and compassion. Our index for measuring happiness, success and the progress of our nation cannot be the Gross National Product or our power to consume but rather must be our level of Understanding and Compassion.
The Four Brahmavihara (loving kindness, compassion, joy and equanimity) are unlimited energies that can be developed for our happiness and that of the world. We can never have too much of these energies. The practice of mindful production and consumption (the 5th Mindfulness Training) will guarantee that we will always follow the path of sustainable development. True happiness should be the foundation of our policy of production, consumption and development. Our wisdom is inter-being; the Buddhist Right View of the world that everything relies on everything else to manifest. If other species cannot survive, humans are not going to survive either. Protecting the environment is to protect ourselves… We are not only our body and spirit, we are also our environment. Our environment is the retribution of our collective action (karma). To live more simply, to develop understanding and love, taking care of our environment, committing with each other to a path of sustainable development that is to follow the Buddha’s path.

4. Buddhist response to climate change
Burning fossil fuels and clearing forests in the quest to supply our means of transportation, as well as our consumption of meat and dairy products, are the main causes of global warming. According to a United Nation study published in 2007, the solution is reducing the production of meat by 50% and driving cars that run on cleaner fuel and only using them when truly necessary. Many Buddhists do not eat meat. Reducing the eating of meat and the drinking of alcohol by 50 % is not something too difficult to do. People who are really awake to the gravity of this situation should take action immediately. We can practice one car-free-day or one motorcycle-free-day every week. We can use a hybrid car. We can convert our car to run on vegetable oil. We can bike to workplace or to school. We can enjoy delicious vegetarian and vegan food. There are many things we can do right away to save the planet. Our civilization will destroy itself if we do not wake up in time.

5. Family problems and the Buddhist response
The most precious gift that parents can make to their children is the happiness of the parents themselves. It is crucial that parents should have time to take care of each other, not to allow themselves to be carried away by too much work and too many projects. Again simple living is the answer because we stop running after fame, profit and success and we invest in what is most important, our own peace and happiness and that of our family and community. The practice of deep listening and loving kindness help preserve and restore communication. Children naturally learn from their parents how to love and to take care of themselves. If parents smoke and get drunk, children will smoke and get drunk. The Five Mindfulness Trainings should be the code of ethics for family life. Going to the temple to recite the Five Mindfulness Trainings every two weeks and to practice Beginning Anew (a formal practice of restoring communication through sharing our appreciation of the others, our apologies for our un-skillfulness, and lovingly, constructively speaking out about our hurt or misunderstanding to resolve any conflicts) are still alive as a tradition in many Buddhist countries. Family is the soil from which the tree of children grow. Without the practice of Beginning Anew, the practice of watering good seeds in each other, the skill of deep listening and loving speech, a couple cannot nourish their love and keep their communication alive. With the practice of mindfulness, transformation and healing are possible, and parents can avoid divorce and estrangement from their children.

6. Buddhist education: continuity and progress
Buddhist Studies have become too theoretical in our times. We get PhD degrees in Buddhist studies but we do not know how to transform our own suffering and afflictions. We do not have the skill to build a Sangha, to help reconcile conflict in our family or community, to practice the Mindfulness trainings, Concentration and Insight. Nowadays, our knowledge of Buddhism only allows us to write books on Buddhism and to teach Buddhism in schools. We have to reorganize our Buddhist studies and make our learning institutions into practice centers at the same time. Teachers and students should practice together and teachers should have the lived experience of transformation and healing before they are allowed to teach. Let us set up institutes of Applied Buddhism, and offer courses and practices aimed at transformation and healing. In schools, our children should have the chance to learn how to deal with the anger and violence within themselves, how to listen with compassion, and to use loving speech, to say “I am sorry” every time they commit an unskillful act. Civic instructions and Buddhist ethics should be taught in such a way that all young children can practice them.

7. Buddhism in the digital age
The Dharma becomes available to so many people in the Digital Age. People can participate in a live Dharma talk, Dharma discussion or even a sitting session with a Master and a Sangha even if they are in their own home miles away from the Teacher and the Sangha. It is possible to profit from the Sangha’s energy at great distance. It is possible to download materials for learning the Dharma. Yet nothing can replace the intimacy between the teacher and a disciple, a Sangha member and the Sangha. The practice of Sangha-building, person-to-person, is therefore an important step. Sangha building needs deep listening, loving speech, understanding, love and support. A Sangha by correspondence is not enough. A Sangha with good practice always carries with it the living Buddha and living Dharma. Therefore, learning ways to build strong Sangha is an essential practice. A good Sangha can be a refuge for so many people. In our Buddhist institutions, Sangha-building should be an important subject of learning and training.

And it is also very important to modernize and update our traditions so that they remain relevant to the people of our time. The internet, modern technology can be a real skillful means to transmit the Buddha’s teaching and help relieve people’s suffering. We can download the sound of the bell and program our computer to play it every half hour or every hour, helping us to stop and to breathe and return to mindfulness. The internet is helping huge numbers of people access the Dharma and this is so crucial, especially for young people. We also need to apply the wisdom of Buddhism to protect ourselves from the dangers of technology. In our revised version of the Pratimoska, monastics now have precepts about using the internet with another person, so they will not get caught in unwholesome websites.

The Buddha has offered us a very good diagnostic tool in the form of the Four Noble Truths: ill-being, the roots of ill-being, the cessation of ill-being and the practice of uprooting ill-being. Buddhism should be practiced in the light of the Four Noble Truths, and the transformation and healing we need should happen in the here and the now, not later in another world. We are quite good in presenting Buddhist theories, but we are not good enough at putting the beautiful teachings into practice in the here and the now. The practice, namely the living Dharma, should be lovely in the here and the now. Let us take this opportunity to share our insight and awakening, let us commit ourselves to living our daily life in the light of that insight and awakening, and let us support each other in living this way. The Buddhist contributions to building a just, democratic and civil society should be seen in our practice, namely in our daily way of life. With our awareness, with our awakening, with our commitment, we can be the change that we want to see in our society and our green planet Earth.

Phát triển trong chánh niệm

Comatchonhauedit.jpg

 

Những pháp môn tu tập của đạo Bụt vì sự phát triển kinh tế – xã hội

Thông điệp cho  Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế, 2011 tổ chức tại Thái Lan

 

Thân kính gửi chư tôn Hoà Thượng và các bậc chức sắc trong các Phái Đoàn đại diện tham dự Ngày Phật Đản QuốcTế,

Chúng tôi xin chúc mừng Hội Đồng Tăng Già tối cao Thái Lan cũng như tất cả những thành viên tham dự và tổ chức Đại Hội Phật Đản Quốc Tế lần thứ tám, 2011. Quý vị đã tập họp ngày hôm nay thành một cộng đồng để cảm nhận tình thân hữu, sự có mặt cho nhau, và để cùng nhau xây đắp tình huynh đệ. Chúng tôi thật sự tin tưởng rằng sự thực tập chân thực những lời dạy của đức Thế Tôn có thể đóng góp lớn cho một nền tâm linh và đạo đức toàn cầu, có thể dẫn dắt nhân loại trong thời điểm khó khăn, cấp bách hiện nay.

Chứng kiến các cuộc khủng hoảng khác nhau đang diễn ra trên khắp toàn cầu, trong chúng ta ai cũng thấy rõ kỷ nguyên của những quốc gia sống hoàn toàn độc lập, với đường biên giới ngăn cách và với những mối quan tâm riêng rẽ đã đi đến hồi kết thúc. Chúng ta cũng ý thức được rằng nỗi khổ niềm đau của một dân tộc có liên hệ mật thiết và được chia sẻ bởi người dân của nhiều dân tộc khác trên thế giới; rằng sự bất ổn và khủng hoảng trầm trọng của một quốc gia ảnh hưởng đến sự phồn thịnh và an ninh của rất nhiều quốc gia khác trên toàn cầu. Lúc này và ở đây, trong phút giây hiện tại, chúng ta đều thấy rõ rằng sự  phát triển kinh tế-xã hội cũng như những thách thức đi kèm không còn là vấn đề của một cá nhân hay của riêng một quốc gia nào.

Tuy nhiên, chúng ta không tuyệt vọng. Những vấn đề mà địa cầu và toàn thể nhân loại đang phải đối diện – khủng hoảng sinh thái toàn cầu, thiếu hòa hợp trong gia đình và xã hội, bất ổn về kinh tế và chính trị – cũng đồng thời cho chúng ta cơ hội để dừng lại, nhận diện và xem xét lại nguồn gốc của những khổ đau mà chúng ta đang phải gánh chịu và tìm ra con đường có thể đưa đến một tương lai tươi sáng hơn và ngay cả một hiện tại tươi sáng hơn. Đây là công thức căn bản mà Bụt đã sử dụng trong suốt cuộc đời Ngài để hướng dẫn hàng đệ tử và vô số người vượt thoát khổ đau của họ. Và giờ đây, công thức căn bản này có thể dẫn lối cho chúng ta đến sự giải thoát khỏi những khổ đau hiện tại. Ba phẩm chất đặc thù, ba cách thực tập từng giai đoạn rõ ràng mà Bụt đã dạy là Niệm, Định và Tuệ sẽ đưa chúng ta đến chỗ giải thoát khỏi những bế tắc đó. Với ba cách thực tập này, nếu áp dụng đúng mức và khéo léo, chúng ta có thể khám phá ra một nền đạo đức toàn cầu và một lối sống chánh niệm giúp định hướng cho sự phát triển của xã hội chúng ta ngày nay theo một đường hướng  thanh bạch và lành mạnh hơn.

Chúng ta phải tìm ra cách thức phù hợp để áp dụng những điều Bụt dạy – như phương pháp thực tập chánh niệm, giáo lý về khổ đau và hạnh phúc, tuệ giác tương tức và vô phân biệt (về sự tương tức, liên hệ mật thiết trong nhau và không kỳ thị, không loại trừ những người có cái thấy, cách hành xử khác mình), Năm Phép Tu Tập Chánh Niệm (tức là Năm giới) và những lời Bụt dạy về Bốn Loại Thực Phẩm. Những điều này sẽ giúp cho xã hội chúng ta trở nên chánh niệm hơn trong cách sản xuất và tiêu thụ; những công ty và những cá nhân sẽ bớt sản xuất những sản phẩm có thể làm tổn hại tâm thức của đại đa số cộng đồng và làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Chúng ta có thể tiêu thụ ít lại, tiêu thụ làm sao để nuôi dưỡng được thân và tâm ta. Chúng ta, với tư cách cá nhân và với tư cách một dân tộc, cần áp dụng những điều Bụt dạy về thiểu dục tri túc, nghĩa là biết đủ.

Trong mối liên hệ thân thiết thuộc phạm vi gia đình, cha và con nên áp dụng những điều Bụt dạy để có nhiều thời gian cho nhau, có mặt cho nhau nhiều hơn (thay vì chỉ dành thời gian ngồi trước màn hình máy tính) và có thể phục hồi được sự truyền thông bằng cách cùng nhau thực  tập lắng nghe sâu và nói với nhau những lời hòa ái.

Trong lớp học khô khan và trong những giảng đường lạnh lẽo, thầy cô giáo và học viên nên giúp đỡ nhau để tạo nên không khí  ấm áp của một gia đình, giúp giảm bớt căng thẳng, thư thả hơn, biết xử lý những cảm thọ và cảm xúc mạnh của mình và áp dụng những cách xử lý đó để đưa mọi người đi về hướng lành mạnh hơn, đó là đào tạo ra một thế hệ trẻ hiền thiện, có tự do, mong muốn hợp tác hơn là cạnh tranh, thay vì chỉ tạo ra một lực lượng lao động để cung cấp cho guồng máy tư bản.

Trong các văn phòng của công ty hay các công sở của nhà nước – nơi bị thúc đẩy nhiều bởi quyền lực, những người đồng nghiệp nên làm việc và cư xử chánh niệm với nhau hơn, cùng nhau xây dựng tình anh chị em, nuôi dưỡng lòng từ bi và bao dung hơn, để từ đó có thể đưa xã hội ta đi về hướng hạnh phúc và hòa hợp chân thật.

Trong thế giới hiện đại ngày nay, trước bối cảnh các nước đang cố gắng tìm kiếm những mô hình phát triển thì những mô hình phát triển tự do được đánh giá cao và được mọi người chạy theo. Tuy nhiên, cái giá mà thế hệ trẻ và nền sinh thái mong manh của chúng ta phải trả cũng như những chi phí mà thân tâm ta và toàn nhân loại đang gánh chịu là bao nhiêu? .

Không bao giờ quá muộn để dừng lại và suy ngẩm, để tìm ra những phương pháp thực tập có thể khôi phục lại tinh thần trách nhiệm, phục hồi lại các giá trị đạo đức cho xã hội ta, cho các chính quyền, cho gia đình  và cho chính bản thân chúng ta .

 

Với tất cả tình thương và tin cậy,

TS. Thích Nhất Hạnh


(chuyển từ Anh ngữ: sư cô Tại Nghiêm)

 

 

Bethereforeach.jpg


Mindful Development

A message for VESAK 2011 Thailand–“Buddhist Virtues For Socio-Economic Development”

 

(In which way should our society develop, economically and socially, so that we can touch interbeing, the interconnectedness of all on this planet – cultures and governments, continents and nations, earth and sky, plants and animals, students and teachers, and fathers and sons?

How can we guide the next generation of young people to a world that is more sane and healthy – bodily, emotionally, and spiritually?

What teachings and practices of Buddhism can help us find true happiness and freedom, and handle and deal with our current social and economical state?)

 

With the various crises we are witnessing in different parts of the world, it is clear that the era of independent nations with borders and separate interests is gradually coming to a close; that the suffering and pain of one nation is fundamentally linked to and is shared by the hearts of people of all nations; that the instability and depression of another nation affects the prosperity and security of peoples all over the planet.  In our present time and place, it is clear that social and economic development and all the challenges that come with it are no longer individual matters.

But we are not without hope. The problems that confront our planet and our humanity – environmental tension, social and family dysfunction, economic instability, and political unrest – give us an opportunity to pause, recognize, re-examine the sources of our suffering, and find a path that can lead us towards a brighter future and to an even brighter present.  This is the basic formula that the Buddha used during his own lifetime to guide his fellow beings to tend to their suffering.  This basic formula can help guide us now, to our own salvation.  The three distinctively Buddhist virtues of mindfulness, concentration, and insight can lead us to this salvation.  Applied appropriately and skillfully, they can help us discover a global ethic and a mindful way of living that can guide the development of our society towards a more sane and healthy direction.

We must find ways to apply the Buddhist teachings – namely, the practice of mindfulness, the teachings on suffering and well-being, the wisdom of inter-being and non-discrimination, the Five Mindfulness Trainings (5 Precepts-see attached), and the teachings on the Four Nutriments – so that our society can become more mindful in its production and consumption; so that companies and individuals can produce less toxic waste that harms our collective minds and the environment, and can consume less and in a way that nourishes our body and heart.  We as individuals and as nations should apply the Buddhist teachings of moderation, of knowing that we already have enough.

In the intimacy of our homes, fathers and sons apply the teachings so they can have more time and be more present for one another (rather than for their computer screens), and can restore communication by learning to listen deeply and speak more lovingly.

In the sterile classrooms and cold halls of our institutions, teachers and students can learn ways to support one another as in the warm atmosphere of the family, to be less stressful, to relax and handle their feelings and emotions, and to apply themselves in a direction that is meaningful and wholesome – graduating young people not just for the work-force of a capitalistic machine, but for a kinder and freer generation who cooperate more than compete.

In power oriented offices of companies and governmental workplaces, colleagues and fellow workers can serve more mindfully, building brotherhood and sisterhood, nourishing their compassion and generosity, and guiding our society in the direction of true happiness and reconciliation.

In our modern times, as we look for models of development in the ten directions, freedom to develop is highly prized and sought after, but at what price to our young ones and our fragile environment and at what cost to our individual and collective body and consciousness.

It is never too late to pause and reflect and to find practices that can bring responsibility and ethical behaviors back into our society, our governments, into our families, and our lives.

 

With love and trust,

Thich Nhat Hanh

Tiếng Chuông và bước Chân

Kính gửi các vị Tôn Túc, các vị Sư Trưởng và đại chúng xuất gia trong các tổ đình và tự viện thuộc môn phái Từ Hiếu.

Kính thưa liệt vị, Hàng ngàn Phật tử xuất gia cũng như tại gia, trong cũng như ngoài nước, đã tỏ lộ sự hân hoan và vui mừng khi nhận thấy tứ chúng trong môn phái Từ Hiếu đã tiếp nhận, tán trợ và hành trì thật nghiêm túc thông bạch ngày 1.1.1996 về việc tổ chức lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập tổ đình Từ Hiếu và sự áp dụng Năm Giới Quý Báu trong công phu tu tập cũng như trong phương thức tiếp xử với các đạo tràng khác trong sơn môn. Phẩm chất tu học và niềm an lạc trong môn phái đã tăng tiến một cách lớn lao chỉ trong vòng một năm trời, và sự chấn chỉnh của tông phong đã được mọi người bên trong và bên ngoài môn phái thừa nhận một cách đích xác.

Xin quý vị tôn túc, sư trưởng và toàn thể đại chúng cùng chúng tôi nhất tâm hồi hướng công đức ấy cho các thế hệ tương lai. Trong thông bạch này, tôi xin kính lưu tâm các vị tôn đức và sư trưởng về sự hành trì tiếng chuông và bước chân chánh niệm của người xuất gia. Tôi tin tưởng nếu giới xuất gia trong môn phái thực tập được vững chãi hai pháp môn này, chúng ta sẽ đem lại được rất nhiều năng lượng tu chứng cho sơn môn và gây niềm tin lớn cho các giới Phật tử. Tiếng Chuông chánh niệm là phương pháp thực tập đã có từ thời Bụt còn tại thế. Mỗi khi nghe tiếng chuông, tất cả mọi người đều ngưng hết suy tư, ngưng hết nói năng, và lắng nghe tiếng chuông với hơi thở chánh niệm. Tiếng chuông được tiếp nhận như tiếng của đức Thế Tôn gọi chúng ta về với chánh niệm. Trong thiền môn chúng ta vẫn có truyền thống thực tập này, vì vậy trong sách Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu chúng ta thấy có những bài kệ thỉnh chuông và nghe chuông như bài ”Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới” và bài ”Văn chung thanh phiền não khinh”. Những bài này đã được các tổ sáng chế để thực tập tiếng chuông chứ không phải để xướng tán. Vậy thì thực tập trở về hơi thở chánh niệm mỗi khi nghe chuông chỉ là sự tiếp nối tự nhiên của truyền thống thiền tập. Người tu thiền khi nghe chuông thì trở về nhiếp niệm an ban hay quán chiếu, người tu tịnh độ khi nghe chuông thì trở về nắm lấy vững chãi phép niệm bụt trì danh hay quán tưởng. Trong khi thực tập, người hành giả có định, có tuệ và có an lạc. Theo phép thực tập này, vị tri chung trước khi thỉnh chuông phải chắp tay xá chuông và quán niệm theo bài kệ thỉnh chuông, mỗi câu kệ đi theo một hơi thở vào hoặc thở ra; và khi tiếng chuông vọng lên, tất cả mọi người, kể cả vị tri chung, phải dừng lại mọi suy tư và nói năng để trở về chánh niệm, cùng thực tập với nhau ít nhất là trong ba hơi thở. Trong giờ phút thực tập ấy, năng lượng của niệm, định và tuệ của đại chúng có mặt rất rõ ràng, và người đến chùa sẽ cảm thấy năng lượng ấy đi vào trong con người của họ và sẽ tiếp nhận được rất nhiều lợi lạc. Buổi khuya, đại chúng có thể thực tập im lặng trong tư thế ngồi, suốt trong thời gian thỉnh đại hồng chung, hoặc thiền quán, hoặc niệm Bụt, ngồi chung trong thiền đường, Phật đường hoặc trên đơn của mình. Những vị có trách vụ như hương đăng, trà giả, trị nhật, v.v… có thể tiếp tục chấp tác trong im lặng, cùng theo dõi hơi thở và thực tập thiền quán hay niệm Bụt trong khi làm việc. Sau khi chuông nhập, tất cả đại chúng mới vân tập trên Phật đường để tụng niệm. Tụng niệm, như vậy, chỉ là một phần của công phu buổi sáng và buổi tối. Buổi tối, trong thời gian thỉnh đại hồng chung , chúng ta cũng thực tập giống như buổi khuya, và khung cảnh thiền môn sẽ có sự im lặng tuyệt đối trong những giờ giấc ấy. Bước chân thiền hành cũng là một pháp môn thực tập có từ hồi Bụt còn tại thế. Người xuất gia khi đi, đứng, nằm và ngồi đều có uy nghi và chánh niệm. Bước chân nào cũng có chánh niệm, vì thế nên từ người xuất gia tỏa chiếu ra năng lượng của sự vững chãi và sự thảnh thơi. Người xuất gia không thể đi đứng vụt chạc và hấp tấp. Bước chân vững chãi và thảnh thơi giúp cho người xuất gia an trú được trong chánh niệm, trong giây phút hiện tại, và gây niềm tin lớn cho mọi người. Ði kinh hành trong thiền đường hay Phật đường chưa đủ. Trong đời sống hàng ngày, mỗi khi cần di chuyển, ta phải sử dụng phép thiền hành, nghĩa là đi từng bước có chánh niệm, dù khoảng cách di chuyển chỉ là dăm bảy bước. Ði trong khuôn viên chùa cũng thế, mà đi vào thành phố cũng thế. Mỗi ngày ta thực tập thiền hành với đại chúng một lần và có thể thực tập thiền hành riêng nhiều lần. Ði thiền hành là một pháp môn nhiệm mầu có thể tập cho chúng ta biết an trú trong giây phút hiện tại, biết sống sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày và giúp giải tỏa và chuyển hóa những buồn giận và lo lắng của ta. Ðể thực tập thành công, ta nên học cách phối hợp hơi thở với bước chân và sử dụng những bài thi kệ chánh niệm.

Kính thưa các vị tôn đức, các vị sư trưởng, trong ba mươi năm qua, tại đạo tràng Phương Vân và tại đạo tràng Mai Thôn, các pháp thực tập tiếng chuông và bước chân đã đem lại rất nhiều vững chãi và niềm tin trong giới Phật tử Tây phương. Hiện giờ đã có trên năm trăm đoàn thể tu học rải rác trên thế giới đang thực tập theo các pháp môn này và tất cả đều đã tiếp nhận nguồn cảm hứng từ tu viện Phương Vân và đạo tràng Mai Thôn. Thỉnh thoảng tại các chùa viện thuộc môn phái trong nước, vẫn có những vị Phật tử gốc Tây phương về hành hương và chiêm bái. Nhìn họ đi, đứng, và quán sát họ khi họ nghe chuông, chúng ta có thể nhận diện ra họ là con cháu của môn phái. Nếu có người không thực tập tiếng chuông và bước chân, ta biết ngay rằng họ chỉ là du khách. Rất mong liệt vị tôn túc và sư trưởng từ bi ra công giảng dạy và hướng dẫn pháp đàm để tất cả giới xuất gia của chúng ta có thể thực tập nghiêm chỉnh hai pháp môn này, bắt đầu từ Tết Nguyên Ðán Ðinh Sửu (1997). Ðạo tràng của chúng ta sẽ trang nghiêm lên gấp trăm lần với công phu tu tập này. Các giới tại gia tới chùa cũng sẽ được khuyến thỉnh thực tập để chúng ta có thể làm sống dậy năng lượng tu tập ngày xưa ở tu viện Cấp Cô Ðộc cũng như trên núi Linh Thứu.

Hôm nay là ngày đánh dấu 150 năm công cuộc khai sơn Tổ đình Từ Hiếu và cũng là ngày tất cả tứ chúng của môn phái tập hợp lại để tưởng nhớ công ơn của sư tổ Nhất Ðịnh và của các thế hệ tổ sư kế tiếp. Vượng khí của tổ đình đã khiến cho các cao tăng xuất phát từ môn phái Từ Hiếu có mặt tại nhiều đạo tràng khắp nơi, và con cháu của môn phái đã trở nên rất đông đúc, không những trên đất nước thân yêu mà còn trên ba mươi quốc gia trên thế giới. Tất cả hôm nay đều vọng về chùa Tổ. Nếu chúng ta khởi sự thực tập bước chân và tiếng chuông một cách vững chãi thì năm Ðinh Sửu sẽ đem lại cho sơn môn và đất nước rất nhiều hạnh phúc và thảnh thơi. Kèm theo thông bạch này xin gửi đến liệt vị một bản phụ lục có những bài thi kệ có thể được sử dụng vào việc thực tập tiếng chuông và bước chân chánh niệm.

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni,
Nam mô đức bồ tát Nhất Ðịnh, tổ khai sơn am An Dưỡng và chùa Từ Hiếu.

 

Đạo tràng Mai Thôn ngày 16.11.1996
Nay kính thông bạch,

khuondauTNH.png

Trừng Quang Nhất Hạnh


Thông bạch kỉ niệm 150 năm khai sơn tổ đình Từ Hiếu

Mai Thôn Đạo Tràng 1-1-1996
Kính gởi các vị Tôn đức và Sư trưởng các chùa thuộc môn phái Từ Hiếu


Kính thưa liệt vị,

Từ ngày sư tổ Tánh Thiên Nhất Định khai sơn chùa Từ Hiếu đến nay, một trăm năm mươi năm đã đi qua và con cháu của môn phái từ hiếu bây giờ đã trở nên thật đông đảo, xuất gia cũng như tại gia. Trong một trăm năm mươi năm ấy, môn phái đã cống hiến cho đất nước nhiều vị cao tăng, đóng góp không nhỏ cho công trình phục hưng nền phật giáo dân tộc. Nhân dịp năm mới Bính tí, cũng là năm kỉ niệm một trăm năm mươi năm khai sơn chùa Từ Hiếu, với tất cả lòng thành kính và thương yêu, tôi trân trọng kính gởi đến chư tôn đức, sư trưởng và tất cả liệt vị lời cầu chúc một năm mới an lành, thanh tịnh, vững chãi và thảnh thơi, Tôi kính cẩn cầu nguyện Tam Bảo gia hộ liệt vị pháp thể khinh an, thành tựu được hiểu biết lớn và tình thương lớn để có thể chia sẻ thật nhiều hạnh phúc cho những người chung quanh.

Tôi xin trân trọng đề nghị trong năm Bính Tí, tất cả các chùa thuộc môn phái Từ Hiếu đều tổ chức ba ngày kị tổ liên tiếp (ngày mồng 4, mồng 5 và mồng 6 tháng 10 âm lịch, tức ngày 14, 15 và 16 tháng 11 năm 1996) để trong ba ngày ấy, chúng ta từ nhỏ đến lớn, có dịp học hỏi và nhắc nhở đến công nghiệp của sư tổ Nhất Định và của các vị cao tăng khác trong môn phái.

Trong gần ba mươi năm hành đạo tại tây phương, tôi đã truyền Năm Giới cho hàng trăm ngàn người Âu, Mĩ, Nga, Úc, Trung Hoa, Nhật… người nào cũng có pháp danh bắt đầu bằng chữ Tâm, thế hệ thứ 43 của phái Lâm Tế và cũng là thế hệ thứ 9 của dòng Liễu Quán. Năm giới của Bụt đã được trình bày một cách tỏ tường và cụ thể để có thể đáp ứng với những nhu cầu đích thực của con người trong xã hội mới. Hành trì năm giới này, ta thấy Năm Giới có bản chất của giới bồ tát, và rất nhiều những người tho giới ở tây phương đã cho biết sự hành trì Năm Giới đa thay đổi cuộc đời của họ và của gia đình họ, đã chuyển hóa được khổ đau và đem lại nhiều hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. Năm Giới này cùng nghi thức tụng giới đã được in trong Nghi Thức Tụng Niệm của nhà xuất bản Lá Bối năm 1994 tại hải ngoại và cả trong nước. Nghi thức này cũng đã được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng khác như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Hà Lan, tiếng Na Uy, tiếng Đan Mạch, tiếng Đức, tiếng Y Pha Nho, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ba Lan, tiếng Tiệp, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Đại Hàn, và tiếng Trung Hoa.

Hiện trên thế giới có hơn năm trăm tăng thân tu tập theo pháp môn của Làng Mai tại Pháp và năm giới là căn bản cho sự hành trì. Người nào thọ giới cũng phải tham dự các buổi tụng giới mỗi tháng hai lần. Nếu không tụng giới trong ba tháng liền thì tự động lễ truyền giới không còn hiệu lực. Tất cả những vị xin thọ giới khác như Sa Di, Tỳ Kheo, Tiếp Hiện và Bồ Tát đều phải tiếp nhận và thọ trì Năm Giới này trước.

Tại tu viện chùa Làng Mai Pháp Quốc, đại chúng thường trú tu học có khoảng 100 vị, phần chủ lực là giới xuất gia. Mỗi năm chùa Làng Mai tổ chức những khóa tu cho hàng ngàn người, tới từ khoảng 24 nước trên thế giới. Tại chùa Làng Mai và các trung tâm tu học địa phương, Năm Giới được chấp hành nghiêm chỉnh. Lễ tụng giới và các buổi pháp đàm để học hỏi thêm về Năm Giới được tổ chức ít ra là hàng tháng. Về giới thứ năm, không ai uống một giọt rượu , dù là rượu bia, rượu vang, không ai hút thuốc và sử dụng các chất ma túy. Về giới thứ tư, học hạnh lắng nghe và ai ngữ, chùa Làng Mai cũng như các trung tâm con cháu môn phái Từ Hiếu như Làng Cây Phong (Gia Nã Đại), Làng Manzanita (Hoa Kì), Làng Sen Búp (Úc) đều chấp hành nghiêm chỉnh, không bao giờ nói một lời có tính cách lên án, buộc tội hay bêu xấu một đạo tràng khác, hay một tông phái khác trong khi mình có thể bị xuyên tạc, chỉ trích, hay nói xấu bởi những người ganh tỵ. Có thể nói đây là một trong những nét đẹp rạng rỡ nhất của sự hành trì chúng ta.

Để xứng đáng với sư tổ Nhất Định và các vị tổ sư khác của môn phái, tôi thiết tha khẩn cầu liệt vị tôn túc nhắc nhở tứ chúng trong môn phái Từ Hiếu, trước hết là giới xuất gia thực tập nghiêm chỉnh Năm Giới. Các vị xuất gia tuyệt đối không hút thuốc, không uống rượu, dù là rượu bia, và nhất thiết không lên án chỉ trích hay nói xấu một đạo tràng nào hay một cá nhân nào, mặc cho ai nói xấu hay chỉ trích xuyên tạc mình. Có thực tập như thế chúng ta mới hàn gắn được những nứt rạn sẵn có vì sự vụng về của nội bộ và vì chủ tâm chia rẽ của những kẻ đứng ngoài sơn môn, và mới xây dựng lại được nền tảng cho một nền phật giáo dân tộc để phụng sự đất nước và mọi loài.

Riêng tôi, tôi cũng có những khuyết điểm và yếu kém cần được chuyển hóa, và viết lời này, tôi cũng ý thức rằng tôi đang tự nhắc nhở mình để khỏi phụ lòng của liệt vị tổ sư đã dày công xây dựng đạo tràng, tiếp độ đồ chúng. Mong liệt vị hiểu cho rằng đây chỉ là những lời nhắc nhở chung. Tôi cảm thấy hân hạnh được làm một phần tử của môn phái Từ Hiếu và luôn thiết tha cầu Tam Bảo gia hộ cho tông phong vĩnh chứng để cho hạnh phúc của sự tu tập trong môn phái được lan truyền ra tới ngoài dân gian. Đó là mong ước sâu sắc nhất của tôi kính gởi tới liệt vị trong ngày đầu năm.

Tôi nhớ ngày nào còn là chú điệu ngồi nhổ cỏ bên bờ hồ bán nguyệt trước chùa, vậy mà bây giờ đã phải đứng lên thay mặt cho các vị tôn túc nói tiếng nói của môn phái. Thời giờ qua rất mau, vô thường tấn tốc, kính mong đại chúng tu học tinh chuyên để sớm thành tựu đạo nghiệp và báo ân sư tổ cùng tất cả các bậc tôn trưởng trong môn phái.

 

Nay thông bạch
Mai Thôn Đạo Tràng, ngày 1 tháng 1 năm 1996

khuondauTNH.png

Thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh

Phật giáo dân tộc – Đạo Bụt hiện đại

Kính gửi liệt vị tôn đức, các vị sư trưởng và toàn thể đại chúng,

Năm mới tôi kính cẩn cầu chư Bụt, chư Bồ Tát và liệt vị Tổ Sư nhiếp thọ và bảo hộ cho liệt vị tôn đức, sư trưởng và toàn thể đại chúng được an vui suốt năm và gặt hái được nhiều hoa trái của sự thực tập giáo pháp mầu nhiệm của đức Thế Tôn.

Rất mong trong năm nay tất cả các Chùa, Viện, Niệm Phật Đường và tư gia thuộc môn phái thực hiện được những bước tiến sau đây trong đường hướng xây dựng một nền Phật giáo dân tộc và một đạo Bụt hiện đại.

Tại các tổ đường, cũng như tại tư gia, an trí tôn tượng của thiền sư Tăng Hội, sơ tổ Thiền Tông Việt Nam và cũng là sơ tổ Giáo Tông Việt Nam. Mỗi năm xin tổ chức giỗ tổ Tăng Hội long trọng vào ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày tổ thị tịch tại Chùa Kiến Sơ năm 280, cách đây 1722 năm. Cùng với thông điệp này xin gửi theo một tôn tượng của thiền sư Tăng Hội do hai họa sĩ Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp thực hiện. Xin các Phật tử nghệ nhân góp sức để tiếp tục cung hiến những hình và tượng khác của sơ tổ, cũng như của chư vị tổ sư lớn khác của Phật Giáo Việt Nam như tổ sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Trúc Lâm Điều Ngự.

Áp dụng ngay vào thời khóa công phu sáng chiều các nghi thức tụng niệm toàn bằng quốc văn, theo sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.

Phối hợp tuyệt hảo pháp môn Tịnh Độ và pháp môn Thiền Quán theo tinh thần tông phái Trúc Lâm, được diễn giải rõ ràng trong sách Thiết Lập Tịnh Độ, cất bỏ đi mọi sự ngăn ngại và những kẽ hở giữa hai truyền thống.

Đặt tất cả bốn uy nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) vào chánh niệm. Đại chúng thực tập thiền đi chung ngoài trời mỗi ngày một lần. Ngoài ra, mỗi khi cần di chuyển, ai nấy đều áp dụng phương pháp bước từng bước chân trong chánh niệm, phối hợp hơi thở với bước chân, sử dụng các bài kệ ‘đã về, đã tới…’ và ‘đây là tịnh độ…’.

Đem nội dung nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa vào sự thực tập. Đừng để sự thực tập hằng ngày rơi vào bẫy hình thức, dù là trong phép tọa thiền, thọ trai, niệm Bụt, chấp tác hay trì tụng. Thực tập theo nguyên tắc hiện pháp lạc trú mà Bụt đề ra.

Áp dụng pháp môn đệ nhị thân để săn sóc cho nhau.

Áp dụng pháp môn soi sáng để nâng đỡ nhau trong công phu thực tập chuyển hóa và đi tới.

Áp dụng pháp môn thiền lạy mỗi ngày để chuyển nghiệp và thiết lập lại truyền thông với thầy tổ, huynh đệ, và môn đồ. Mỗi vị xuất gia dù là sa di đều có ni-sư-đàn tùy thân mỗi khi lên Thiền Đường hoặc Phật Đường thực tập.

Y phục của người xuất gia, ngoài màu vàng cho ba y, đều được may bằng hoặc màu nâu sồng hoặc màu khói hương. Các vị ni sư và sư cô nên áp dụng chít khăn truyền thống Việt Nam và bỏ đi chiếc khăn đã bắt chước các bà sơ Tây phương từ 50 năm về trước.

Mỗi năm tổ chức và hướng dẫn các khóa tu cho các Phật tử tại gia (khóa tu một ngày, hai ngày cuối tuần, ba ngày, năm ngày, bảy ngày), giảng dạy và thực tập các pháp môn quán chiếu, điều phục cơn giận, ái ngữ, lắng nghe, làm mới, hòa giải, tụng giới, pháp đàm và tưới tẩm hạt giống tốt.

Xây cất chùa, viện và tăng xá, xin nhất thiết vâng theo kiến trúc truyền thống. Chúng ta có thể phát triển truyền thống, nhưng những nguyên tắc và đường nét chính cần được tôn trọng và duy trì.

Kính thưa các vị tôn đức và liệt vị trong đại chúng, xã hội hiện thời đang có những bước tiến rất nhanh, nhất là trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và giáo dục. Nếu chúng ta không hiện đại hóa được cách học hỏi và thực tập chánh pháp thì chúng ta sẽ không đáp ứng được kịp thời với những nhu cầu của xã hội mới. Xin liệt vị để tâm suy xét để chúng ta có thể cùng nhau đưa đạo Bụt thực sự vào đời sống hiện đại.

 

Kính thông bạch,

khuondauTNH.png

Thiền Sư Nhất Hạnh


Thông Bạch Đầu Thế Kỷ

 

Kính gửi liệt vị Tôn Túc, Sư Trưởng và Tứ Chúng thuộc môn phái Từ Hiếu
Kính thưa liệt vị,

 

Thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ bạo động và đẫm máu nhất của nhân loại từ trước đến nay.Nhờ sự phát triển của kỹ thuật, con người của thế kỷ hai mươi đã đạt tới nhiều quyền lực để chinh phục thiên nhiên và bắt đầu can thiệp được vào cơ cấu của tế bào sinh vật để lái thiên nhiên đi về hướng phục vụ ước muốn của mình. Đồng thời con người của thế kỷ hai mươi cũng trở nên rất cô đơn, bơ vơ, lạc lõng, không có niềm tin, không có nơi nương tựa tâm linh, chỉ biết sống để làm thỏa mãn những tư dục của một cái ta vị kỷ.

 

Thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ bạo động và đẫm máu nhất của nhân loại từ trước đến nay.Nhờ sự phát triển của kỹ thuật, con người của thế kỷ hai mươi đã đạt tới nhiều quyền lực để chinh phục thiên nhiên và bắt đầu can thiệp được vào cơ cấu của tế bào sinh vật để lái thiên nhiên đi về hướng phục vụ ước muốn của mình. Đồng thời con người của thế kỷ hai mươi cũng trở nên rất cô đơn, bơ vơ, lạc lõng, không có niềm tin, không có nơi nương tựa tâm linh, chỉ biết sống để làm thỏa mãn những tư dục của một cái ta vị kỷ.

Vào cuối thế kỷ, tuổi trẻ không còn tin vào một đấng tạo hóa, cũng không còn tin vào một chủ thuyết hay ý thức hệ nào. Không còn lý tưởng, không tìm ra được một ý nghĩa nào cho sự sống, mất gốc rễ nơi truyền thống tâm linh, tổ tiên, gia đình và xã hội, tuổi trẻ sống theo hướng tiêu thụ và tự tàn phá thân tâm . Mục đích của sự sống chỉ là để sống sót và đừng trở thành điên loạn. Chiến tranh ý thức hệ, ung thư , sida, bệnh tâm thần, rượu và ma túy là những gánh nặng lớn của thế kỷ. Hiện giờ những tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực điện tử và sinh vật đang hứa hẹn thêm những quyền lực mới cho con người. Trong thế kỷ tới, nếu con người không có khả năng làm chủ được thân tâm và chinh phục được chính mình thì những quyền lực mới ấy sẽ đưa con người và các loài chúng sinh khác đến chỗ hoại diệt.

Tuy nhiên trong thế kỷ thứ hai mươi, nhiều hạt giống tuệ giác cũng đã được nẩy mầm : khoa học cũng đã hé thấy được nguyên lý duyên sinh, tương tức và vô ngã trong các lĩnh vực vật lý và sinh vật ; cũng như tâm lý học và xã hôi học đã khám phá ra nguyên tắc đồng sinh cọng tử và thấy rõ rằng có hiểu biết mới thực sự có thương yêu. Từ những tuệ giác đó đã phát sinh các phong trào bảo vệ sinh môi, thương xót các loài thú vật, ưa thích ăn chay, bỏ rượu và bỏ thuốc hút, đi phục vụ thiện nguyện tại các nước nghèo đói, tranh đấu bất bạo cho hòa bình và nhân quyền, đề cao nếp sống đơn giản, không tiêu thụ những sản phẩm có độc tố để tàn hoại thân tâm, và mở lòng tiếp nhận giáo lý đạo Bụt như một nghệ thuật sống để chuyển hóa, trị liệu và thương yêu.

Điều sau này được chứng minh bằng sự lan rộng mau chóng kỳ lạ của đạo Bụt tại phương Tây trong hai thập niên chót của thế kỷ. Nếu chúng ta biết nhận diện những yếu tố tích cực này để yểm trợ và phát huy, thì những hạt giống tuệ giác mới này sẽ có thể trở thành một bó đuốc sáng soi đường cho nhân loại trong thế kỷ thứ hai mươi mốt. Khoa học và kỹ thuật có thể được hướng dẫn phục vụ cho nhu yếu xây dựng một niềm tin mới và một sức sống mới cho nhân loại theo chiều hướng của tuệ giác duyên sinh, tương tức và vô ngã này.

Nếu thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ trong đó con người chinh phục được thiên nhiên thì thế kỷ thứ hai mươi mốt phải là thế kỷ trong đó con người tự chinh phục được chính mình. Nếu thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ của chủ nghĩa cá nhân và ý hướng thỏa mãn tư dục thì thế kỷ thứ hai mươi mốt phải là thế kỷ của nếp sống vô ngã, trong đó con người biết sống hài hòa với cộng dồng xã hội và với thiên nhiên, cũng như những tế bào trong cùng một cơ thể hay là những con ong trong cùng một tổ ong, theo tinh thần thực sự dân chủ và bình đẳng. Tự do không còn là tự do tự hủy hoại thân tâm và hủy hoại sinh môi mà là sự thảnh thơi không bị tư dục, hận thù và tuyệt vọng trấn ngự. Nếp sống chánh niệm được biểu hiện cụ thể bằng năm giới quý báu là con đường thoát của nhân loại, là kim chỉ nam cho thế kỷ mới. Trở về truyền thống tâm linh của mình để khám phá ra tuệ giác và nếp sống tương đương với năm giới quý báu là công việc cấp thiết nhất của tất cả chúng ta.

Tôi kính cẩn đề nghị với tất cả các vị Tôn Túc, Sư Trưởng và toàn thể Tứ Chúng trong môn phái, xuất gia cũng như tại gia, trong nước cũng nhưngoài nước, quán chiếu và đóng góp tối đa phần mình cho hướng đi lên của nhân loại vào đầu thế kỷ thứ hai mươi mốt :

1- Xây dựng tu viện và các trung tâm tu tập chánh niệm để làm cơ sở thực tập cho tăng thân xuất gia và tại gia. Tổ chức các khóa tu một ngày, ba ngày, bảy ngày, ba tuần, ba tháng v…v ..cho người xuất gia và người tại gia , nhắm tới sự chuyển hóa phiền não, chế tác hiểu biết, thương yêu và khả năng xây dựng tăng thân. Chùa và tu viện được tổ chức như cơ sở của đời sống tâm linh của cả hai giới xuất gia và tại gia để tuổi trẻ có thể tiếp xúc được với tổ tiên tâm linh và cắm rễ được vào mảnh đất tâm linh ấy.Thực tập tinh thần phá chấp của giới luật Tiếp Hiện để mở lớn lượng bao dung và phòng hộ không cho đất nước và nhân loại đi vào những cuộc chiến tranh tôn giáo và ý thức hệ

2- Học hỏi và thực tập năm giới quý báu trong gia đình, biến gia đình thành một đơn vị tăng thân làm nền tảng cho những tăng thân lớn. Thực tập phép lắng nghe và ái ngữ để xây dựng nếp sống hòa thuận và hạnh phúc trong gia đình để cho con em lớn lên được cắm rễ vào gia đình. Trong nhà cần thiết lập bàn thờ tổ tiên tâm linh và huyết thống. Những ngày vía và ngày kỵ giỗ lớn, đại gia đình phải tập họp để thực tập vun bồi ý thức cội nguồn. Trong mỗi gia đình, ít nhất nên có một người phát nguyện lấy công trình tu học và hoằng pháp làm sự nghiệp duy nhất của đời mình, dưới hình thức xuất gia hay tại gia.

3- Buông bỏ nếp sống phục vụ tư dục và vị kỷ. Hồi hướng tất cả mọi hành động hằng ngày cho tăng thân. Thấy được hạnh phúc của tăng thân là hạnh phúc của chính mình. Hạnh phúc ấy được chế tác bằng hiểu biết, thương yêu và hòa thuận mà không phải bằng khả năng tiêu thụ.

4- Đầu tư thì giờ và năng lượng hằng ngày vào việc xây dựng tăng thân. Đừng mua sắm cho cá nhân những gì mình có thể sử dụng chung với tăng thân như nhà, xe, máy truyền hình và máy vi tính. Dứt khoát ly khai việc sử dụng rượu và các chất ma túy. Thực tập sống nếp sống giản dị để có thì giờ sống sâu sắc và thảnh thơi đời sống hằng ngày, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống để nuôi dưỡng và trị liệu và để thực hiện lý tưởng từ bi trong các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, tâm linh và xã hội.

Thế kỷ thứ hai mươi mốt có thể là một ngọn đồi xanh mát có bầu thái hư rộng thênh thang, có trăng sao và đủ mọi mầu nhiệm của sự sống. Ta hãy cùng leo lên đồi thế kỷ với tư cách của một tăng thân mà đừng đi với tư cách cá nhân. Ta cùng đi với tổ tiên tâm linh và huyết thống của ta và với con cháu ta trong niềm hân hoan, tay trong tay, với tiếng hát và nụ cười, mỗi bước chân đều chế tác được chất liệu thảnh thơi và hạnh phúc.

Kính chúc liệt vị cùng tăng thân một thế kỷ đầy niềm tin và sự an lạc.

Tổ Đình Từ Hiếu và Đạo Tràng Mai Thôn
Ngày 4 tháng 12 năm 1999

Nay thông bạch

khuondauTNH.png

Thiền Sư Trừng Quang Nhất Hạnh,
Niên Trưởng Tổ Đình Từ Hiếu.

Thông bạch về thiền sư Khương Tăng Hội

 

thien su Khuong Tang Hoi

Kính thưa liệt vị Hòa Thượng, chư vị Tôn Đức cùng bốn chúng thuộc các đạo tràng trong Môn Phái Từ Hiếu, trong và ngoài nước.

Nhân ngày giỗ tổ Thiền Sư Tăng Hội năm 2006, tôi xin kính gửi đến liệt vị Hòa Thượng, chư vị Tôn Đức và bốn chúng lời thăm hỏi ân cần, nguyện cầu Đức Thế Tôn và chư vị Tổ Sư bảo hộ cho tất cả được thân tâm khinh an, đạo nghiệp viên thành.

Truyền thống chúng ta có nguồn gốc nơi cả Thiền tông và Tịnh độ tông, vì vậy chúng ta hãy cố gắng để phục hồi và duy trì được nếp thực tập thiền tịnh song tu ấy.

Trong truyền thống chúng ta, từ Tổ Tăng Hội đến Tổ Liễu Quán, tất cả đều đã có thực tập thiền. Tại Tổ Đình Từ Hiếu và các Tổ đình khác của pháp phái Liễu Quán, chư tổ vẫn có truyền thống phó pháp truyền đăng, và chúng ta có bổn phận phải giữ gìn để cho sự thực tập này không bị gián đoạn.

Trong quá trình giảng dạy và thực tập trên 50 năm qua, tôi đã có cơ duyên biên soạn được nhiều tài liệu về thiền. Trước hết là bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (ba tập), đã được các nhà Lá Bối (Hoa Kỳ) và Văn Học (Hà Nội) ấn hành. Tôi cũng đã biên soạn sách Thiền Sư Tăng Hội, dịch Lâm Tế Lục, viết Lâm Tế Tinh Yếu, Con Đường Chuyển Hóa, Nẻo Vào Thiền Học, Kinh Quán Niệm Hơi Thở, biên soạn Lâm Tế Lục Đại Toàn và Truyền Thống Sinh Động của Thiền Tập Phật Giáo. Hai tác phẩm nói sau đã được biên tập xong, tất cả khoảng trên năm nghìn trang. Những tư liệu trên đều có thể được ấn hành trở lại, hoặc cho lên mạng lưới thông tin để các vị sư trưởng có thể sử dụng trong việc giảng dạy tại các trường Phật học, các tu viện và các đạo tràng để bốn chúng trong môn phái được có cơ duyên học hỏi và thực tập theo sự chỉ dẫn của các vị tổ sư.

Để tiếp tục bồi đắp gốc rễ và khai thông suối nguồn, nhân dịp này, tôi xin đưa ra những đề nghị sau đây để các Chùa, các Đạo tràng, các Niệm Phật Đường, các Phật Học Viện và các Tăng thân khắp nơi, trong cũng như ngoài nước, cùng thực tập:

1-         Tạc tượng và thờ Thiền Sư Tăng Hội, sơ Tổ của Thiền Tông Việt Nam. Tổ sinh ở Giao Châu vào đầu thế kỷ thứ ba, cha là người Khương Cư, mẹ là người Việt, xuất gia năm 10 tuổi, trở thành cao tăng, mở đạo tràng tu tập ở Luy Lâu, Bắc Ninh, thiết lập một trung tâm dịch thuật và sáng tác ở đó, và đến năm 255, qua Kiến Nghiệp (Nam Kinh bây giờ), thủ đô nước Đông Ngô thời Tam Quốc, lập ngôi chùa đầu tiên ở nước ấy là chùa Kiến Sơ, độ cho vua Ngô Tôn Quyền, truyền tam quy ngũ giới cho vua Ngô Tôn Hạo, tổ chức Đại Giới Đàn độ tăng đầu tiên cho người Trung Quốc, và tịch vào tháng chín năm 280.

2-         Trong những ngày Giỗ Tổ như ngày giỗ các tổ Tăng Hội, Lâm Tế, Liễu Quán, Nhất Định v.v… ngoài sự thực tập lễ bái và cúng dường để tỏ bày niềm biết ơn, ta nên tổ chức để bốn chúng có cơ hội học hỏi và ôn lại những công hạnh của vị tổ sư liên hệ, mục đích là để tự nhắc nhở và nhắc nhở giới hậu lai về công hạnh của Tổ. Ta có thể sử dụng những tư liệu có sẵn về Phật giáo sử nói trên để làm công việc này.

3-         Thực tập ngồi thiền, ít nhất là 20 phút trước giờ công phu sáng và chiều. Ta có thể sử dụng sách Sen Búp Từng Cánh Hé để hướng dẫn toàn chúng thực tập cho buổi ngồi thiền có nội dung tốt. Ta có thể gửi những vị giáo thọ trẻ về Tổ Đình Từ Hiếu (Huế), Tu Viện Bát Nhã (Bảo Lộc). Đạo Tràng Mai Thôn (Pháp), các Đạo Tràng Thanh Sơn và Lộc Uyển (Hoa Kỳ) để được đào tạo về khả năng hướng dẫn thiền tập có công dụng đưa tới chuyển hóa và trị liệu thân tâm. Ta nên sử dụng những kinh văn bằng tiếng Việt trong sách Nhật Tụng Thiền Môn 2000 để thay thế dần dần cho những kinh văn bằng chữ Hán trong các buổi công phu.

4-         Tiếp tục truyền thống Phó Pháp Truyền Đăng, đừng để cho đứt đoạn. Xin đề nghị các tổ đình và các chùa thuộc pháp phái Liễu Quán và môn phái Từ Hiếu sưu tập các bài kệ truyền đăng cùng danh sách các vị được truyền đăng trong quá khứ để gửi về cất giữ tại các Tổ Đình. Những tài liệu này sẽ được đưa lên mạng lưới thông tin để tứ chúng thuộc Tổ Đình có cơ duyên tham cứu. Hiện tại ở quốc ngoại đã có tới trên tám trăm tăng thân (những thành phố lớn như Nữu Ước và Luân Đôn đều có trên mười tăng thân) quy tụ tu học hằng tuần. Con cháu môn phái Từ Hiếu ở hải ngoại đã có cả triệu người, gồm 47 quốc gia. Đưa các tài liệu ấy lên mạng có thể giúp cho mọi người tiếp xúc được sâu sắc hơn với truyền thống của mình.

Nhân đây tôi cũng xin thông báo về chuyến viếng thăm và hoằng pháp của một Phái Đoàn Tăng Thân Quốc Tế Làng Mai tại Việt Nam từ ngày 21.02.2007 đến ngày 09.05.2007. Chuyến đi sẽ bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh qua Bảo Lộc, Đà Lạt, Nha Trang, đến Huế, Đà Nẵng và Hà Nội. Trong chuyến đi này sẽ có những buổi sinh hoạt giao lưu , những khóa tu cho người xuất gia và tại gia, và những buổi thuyết giảng công cộng. Các đạo bạn trong và ngoài nước sẽ lại có dịp cùng nhau tu tập trong tinh thần huynh đệ và tiếp xúc sâu sắc với cội nguồn. Trong thời gian ấy sẽ có những Trai Đàn Chẩn Tế cầu nguyện cho âm siêu dương thái, chữa lành được những thương tích chiến tranh trong lòng mọi người, Nam cũng như Bắc, xây dựng thêm được tình huynh đệ và nghĩa đồng bào. Chi tiết của chuyến đi sẽ được thông báo trên mạng lưới thông tin. Được gặp lại liệt vị Hòa Thượng, chư vị Tôn Đức và đại gia đình tâm linh trong bốn chúng là một niềm vui lớn. Chúng tôi đang tâm niệm đến chư vị với niềm biết ơn và tin cậy.

 

Viết tại Mai Thôn Đạo Tràng
ngày 18.08.2006

khuondauTNH.png

Thích Nhất Hạnh

Thông điệp xóa bỏ chế độ nô lệ hiện đại

Thông điệp tại Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới về
XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ HIỆN ĐẠI

 

Nhận lời mời của Đức Giáo Hoàng Francis, một phái đoàn gồm 22 quý thầy, quý sư cô Làng Mai, trong đó có sư cô Chân Không và thầy Pháp Ấn – Viện trưởng Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB), đã có mặt tại Rome từ ngày 1 – 2/12/2014 để đại diện và chuyển tải thông điệp của Thiền sư Nhất Hạnh đến Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới về xóa bỏ nạn buôn người, một hình thức “nô lệ hiện đại”.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử các nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới đã quy tụ tại Vatican để cùng lên tiếng chống lại chế độ nô lệ hiện đại. Buổi gặp gỡ đã diễn ra vào sáng ngày 2/12/2014, ngày Quốc tế xóa bỏ chế độ nô lệ, tại trụ sở của Hàn lâm viện Tòa thánh về các khoa học ở Nội thành Vatican.

Tại buổi gặp gỡ này, sư cô Chân Không – đệ tử lớn nhất của Thiền sư Nhất Hạnh – đã đại diện Thiền sư đọc thông điệp trước Hội nghị (thông điệp dưới đây đã được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh):

 

“Kính thưa chư vị Tôn Đức cùng toàn thể quý vị đại biểu!

Chúng ta may mắn có được cơ hội gặp gỡ ngày hôm nay để cùng tuyên bố với thế giới cam kết phối hợp hành động nhằm chấm dứt nạn buôn người – một hình thức “Nô lệ hiện đại” (Modern Slavery). Chúng ta lên tiếng kêu gọi những ai đang tham gia vào hoạt động buôn người hãy DỪNG LẠI hành động của mình; đồng thời kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới và các tổ chức quốc tế cùng hiệp lực để bảo vệ nhân phẩm của những thanh niên, thiếu nữ và trẻ em đang là nạn nhân của nạn buôn người. Những nạn nhân này cũng là con của chúng ta, là anh chị em của chúng ta.

Một điều rõ ràng là trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, chuyện xảy ra cho bất kỳ một ai trên trái đất này cũng đều tác động đến tất cả chúng ta. Chúng ta tương tức với nhau và cùng chịu trách nhiệm về nhau. Tuy nhiên, cho dù có thiện chí lớn lao đến đâu đi nữa, nếu chúng ta cứ đắm mình vào những mối quan tâm thường nhật, đi tìm kiếm những tiện nghi vật chất hay tình cảm thì chúng ta sẽ không có thì giờ để thực hiện ước nguyện lớn lao của mình.

Sự quán chiếu, nhìn sâu của chúng ta phải đi liền với hành động. Nếu không có sự thực tập tâm linh, chúng ta sẽ sớm từ bỏ giấc mơ của mình.

Mỗi người trong chúng ta, tùy theo truyền thống tâm linh của mình, cần thực tập để tiếp xúc một cách sâu sắc với những mầu nhiệm của thiên nhiên, của sự sống trong mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải tiếp xúc được với Nước Chúa hay cõi Tịnh Độ, Niết Bàn trong mỗi chúng ta. Có như vậy chúng ta mới tiếp nhận được những yếu tố nuôi dưỡng và trị liệu. Niềm vui, niềm hạnh phúc trong ta được phát sinh từ cái thấy: Nước Chúa hay cõi Tịnh Độ hiện đang có mặt ngay bây giờ và ở đây. Chính tình yêu và sự kính ngưỡng đối với thiên nhiên trong mỗi chúng ta có công năng nuôi dưỡng, gắn kết chúng ta lại với nhau và lấy đi tất cả những phân biệt, kỳ thị.

Bằng cách tiếp xúc với những yếu tố tươi mát và trị liệu, chúng ta có khả năng vượt thoát ra khỏi những quan tâm thường nhật về tiện nghi vật chất. Chúng ta sẽ có thêm rất nhiều thời gian và năng lượng để thực hiện lý tưởng đem tình thương và tự do lớn trang trải đến tất cả mọi người và mọi loài. Trong Kinh Thánh có đoạn: “Đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Trước hết hãy tìm kiếm nước Chúa, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ ban cho. Chớ nên lo lắng về ngày mai, chuyện của ngày mai cứ để ngày mai lo.”

Trong khi nỗ lực hành động để chấm dứt nạn buôn người, chúng ta phải dành thời giờ để chăm sóc cho chính mình, và chăm sóc cho phút giây hiện tại. Bằng cách đó, chúng ta có thể tìm thấy được phần nào sự bình an trong thân tâm để tiếp tục sự nghiệp của mình. Chúng ta cần nhận diện và ôm ấp những khổ đau, giận hờn, sợ hãi và tuyệt vọng trong ta, để cho năng lượng từ bi luôn còn mãi trong trái tim ta. Khi tâm trở nên định tĩnh, sáng suốt hơn, chúng ta không những thương những nạn nhân của nạn buôn người, mà còn thương được chính những kẻ có hành vi buôn người. Những người đó cũng có rất nhiều khổ đau trong lòng. Thấy được điều đó, chúng ta sẽ có thể giúp họ thức tỉnh và dừng lại được những hành động gây khổ đau của mình. Lòng từ bi trong chúng ta có khả năng biến họ trở thành những người bạn, những người sát cánh với chúng ta trong nỗ lực chấm dứt nạn buôn người.

Để có thể duy trì được công việc đầy từ bi này một cách lâu dài, tất cả chúng ta đều cần có một tăng thân (một đoàn thể tu học – a spiritual community) để bảo vệ và yểm trợ cho chúng ta. Đó phải là một đoàn thể chân chính, nơi có tình huynh đệ, có hiểu biết và thương yêu thực sự. Chúng ta không nên làm công việc này như một chiến binh đơn độc (lone warriors). Nạn buôn người có gốc rễ rất sâu dày và những mạng lưới, cơ cấu, những điều kiện làm phát sinh vấn đề này cũng rất phức tạp. Vì vậy chúng ta cần phải xây dựng một đoàn thể, một tăng thân có khả năng duy trì công việc bảo vệ sinh mạng này một cách lâu dài, không chỉ đến năm 2020 như mục tiêu đã đề ra mà thôi.

Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa, vì vậy hình thức nô lệ hiện đại này cũng có tính toàn cầu, nó liên hệ mật thiết đến các hệ thống kinh tế, chính trị và xã hội. Do đó, nền đạo đức của chúng ta cũng cần phải được toàn cầu hóa. Một trật tự thế giới mới đòi hỏi phải có một nền đạo đức toàn cầu mới. Các quốc gia, dân tộc, các truyền thống phải ngồi lại với nhau, như chúng ta đang làm trong hội nghị này, để tìm ra những nguyên nhân gây nên tình trạng nô lệ hiện đại này. Nếu chúng ta cùng nhau quán chiếu với sự bình an và định tĩnh, chúng ta sẽ hiểu được những nguyên nhân dẫn đến nạn nô lệ hiện đại, và như vậy chúng ta mới có thể tìm ra giải pháp rốt ráo cho vấn nạn này”.

 

Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Giáo Hoàng cùng với các nhà lãnh đạo tôn giáo (Anh Giáo, Chính Thống Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Hindu và Phật Giáo) đã ký kết một Tuyên bố chung bày tỏ quyết tâm hiệp lực với nhau để xoá bỏ vĩnh viễn chế độ nô lệ hiện đại trước năm 2020. Sáng kiến lịch sử này do tổ chức Mạng lưới tự do toàn cầu (Global Freedom Network) đề xướng. Tổ chức này hoạt động với mục tiêu xóa bỏ nạn buôn người và các hình thức nô lệ mới trên thế giới. Ước tính, có khoảng 35,8 triệu người trên khắp thế giới hiện đang sống cuộc sống như một “nô lệ thời hiện đại”, và mỗi năm con số này lại tăng thêm 3 triệu người (theo thống kê của tổ chức Walk Free Foundation).

Sự kiện các nhà lãnh đạo tôn giáo có thể đi đến một Tuyên bố chung lên án nạn buôn người này sẽ có tác dụng kêu gọi các chính phủ cũng như các tổ chức quốc tế quyết liệt hơn trong cuộc chiến chống buôn người trên quy mô toàn cầu. Sự kiện này có thể giúp mang lại sự yểm trợ cần thiết cho hàng trăm các tổ chức phi chính phủ hiện đang tích cực hoạt động nhằm giải cứu các nạn nhân của nạn buôn người, giúp thoa dịu nỗi đau về thể xác và tinh thần, đồng thời giúp các nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng.

Một ngày trước đó (ngày 1/12/2014), phái đoàn tăng thân Làng Mai đã phối hợp với Ban Tổ chức Hội nghị để tổ chức một ngày tu tập chung cho các đại biểu tại Vatican. Đây là sáng kiến do Thiền sư Nhất Hạnh đưa ra trước khi Người bị xuất huyết não. Ngày hôm đó, tất cả các đại biểu đại diện cho Anh Giáo, Chính Thống Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Hindu và Phật Giáo đã có cơ hội cùng đi thiền hành chung với nhau trong khuôn viên của Vatican, cùng ăn trong im lặng và cầu nguyện với nhau như là các huynh đệ trong cùng một gia đình tâm linh, cùng gắn kết và hòa điệu với nhau bằng lòng từ bi và hành động.

“Mỗi con người là một người tự do, dù đó là con gái hay con trai, phụ nữ hay đàn ông được tạo dựng vì thiện ích của mọi người trong sự bình đẳng và tình huynh đệ. Chế độ nô lệ mới, dưới những hình thức buôn người, cưỡng bức lao động, mại dâm, buôn bán nội tạng, bất kỳ mối tương quan nào không tôn trọng xác n căn bản rằng mọi người đều bình đẳng quyền tự do và phẩm giá như nhau, một tội ác chống lại nhân loại.”
(Trích: Tuyên ngôn chung chống nạn nô lệ mới)

Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo tôn giáo đối với chế độ nô lệ hiện đại đã được ký kết bởi:

Công giáo: Đức Giáo Hoàng Francis
Hindu: Her Holiness Mata Amritanandamayi (Amma)
Phật giáo: Thiền sư Thích Nhất Hạnh (được đại diện bởi Tỳ kheo ni Thích Nữ Chân Không Nghiêm)
Phật giáo: The Most Ven. Datuk K Sri Dhammaratana, Chief High Priest of Malaysia
Do thái: Rabbi Dr. Abraham Skorka
Do thái: Rabbi Dr. David Rosen
Chính thống giáo: His All-Holiness Ecumenical Patriarch Bartholomew (represented by His Eminence Metropolitan Emmanuel of France)
Hồi giáo: Mohamed Ahmed El-Tayeb, Grand Imam of Al-Azhar (represented by Dr. Abbas Abdalla Abbas Soliman, Undersecretary of State of Al Azhar Alsharif)
Hồi giáo: Grand Ayatollah Mohammad Taqi al-Modarresi
Hồi giáo: Grand Ayatollah Sheikh Basheer Hussain al Najafi (represented by Sheikh Naziyah Razzaq Jaafar, Special advisor of Grand Ayatollah)
Hồi giáo: Sheikh Omar Abboud
Anh giáo: Most Revd and Right Hon Justin Welby, Archbishop of Canterbury

Ngày tu tập chung cho các đại biểu tham dự Hội nghị tại Vatican

Ngày tu tập và hội thảo cho các đại biểu tham dự Hội nghị

Các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới tại buổi lễ

Buổi lễ kí Tuyên bố chung

Đức Giáo Hoàng Francis đọc lời khai mạc

Tuyên bố chung được ký kết

Các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới

_________________________________________________________

Xem video buổi lễ

_________________________________________________________

khoảng 35,8 triệu người đang sống cuộc sống như một “nô lệ thời hiện đại”

Chế độ nô lệ hiện đại phát triển mạnh trên mọi lục địa và trong hầu hết các quốc gia với nhiều hình thức, từ buôn người, cưỡng bức lao động, phụ nữ bị bắt mại dâm, buôn bán nội tạng, nô lệ trẻ em trong chuỗi cung ứng nông nghiệp hoặc cả gia đình làm việc để trả nợ các thế hệ.

Thông điệp Phật giáo về biến đổi khí hậu

Mười lăm nhà lãnh đạo Phật Giáo có uy tín trên thế giới, trong đó có Đức Đạt-lai Lạt-ma và Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đã cùng ký vào một thông điệp lịch sử kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị đi đến một thỏa thuận hiệu quả về biến đổi khí hậu tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu, bắt đầu từ ngày 30 tháng 11 tại Paris.

Sư cô Chân Không – đệ tử lớn nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – đã chia sẻ tại buổi họp báo: “Chúng ta gây tàn hại đối với trái đất cũng có nghĩa là chúng ta đang tàn hại chính mình. Trái đất không chỉ là môi trường sống của tất cả chúng ta, mà trái đất chính là Mẹ của chúng ta. Tất cả chúng ta đều là con của đất Mẹ, vì vậy chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong một đại gia đình. Chúng ta phải hành động, không phải vì trách nhiệm mà vì tình thương dành cho nhau và cho hành tinh này. Đức Bụt đã chỉ cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể sống đơn giản mà vẫn có thể có hạnh phúc.” Dưới đây là bản dịch nôi dung Thông điệp Phật giáo về biến đổi khí hậu:

Thông điệp Phật giáo về biến đổi khí hậu (ngày 29 tháng 10 năm 2015)

Chúng tôi, các nhà lãnh đạo Phật giáo ký tên dưới đây, cùng tập hợp lại trước thềm Hội nghị lần thứ 21 (COP21) các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) tại Paris, nhằm góp thêm tiếng nói của mình vào lời kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới hợp tác với nhau trong tình thương và tuệ giác để có thể đạt được một thỏa thuận đầy hoài bão và hiệu quả về biến đổi khí hậu.

Chúng ta đang ở vào một thời điểm quyết định, thời điểm mà sự sống còn của loài người chúng ta cũng như của các loài khác trên trái đất này đang bị đe dọa nghiêm trọng do những hành động của chính chúng ta. Vẫn còn thời gian để chúng ta giảm tốc độ và hạn chế những tác động của biến đổi khí hậu, nhưng để làm được như vậy, Hội nghị thượng đỉnh của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu được tổ chức tại Paris (COP21) cần đưa ra lộ trình cụ thể để chấm dứt việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Chúng ta cũng cần có các biện pháp toàn diện và lâu dài giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đối với những đối tượng dễ bị tổn thương nhất và tăng cường năng lực thích ứng của những đối tượng này.

Mối quan ngại của chúng tôi phát xuất từ cái thấy của Bụt Sakya Muni về tính tương duyên, tương tức của vạn vật trong vũ trụ. Thấu suốt được tính tương tức và ý thức về những hậu quả do hành động của mình gây ra là một bước vô cùng quan trọng giúp chúng ta giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với môi trường sống. Nuôi dưỡng tuệ giác tương tức và lòng từ bi, chúng ta sẽ hành động dựa trên tình thương, mà không phải là sự sợ hãi, để có thể bảo vệ hành tinh của chúng ta. Điều này đã được các nhà lãnh đạo Phật giáo nói đến trong nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, đời sống hằng ngày dễ khiến chúng ta quên đi rằng sự sống của chúng ta có mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời với thiên nhiên, thông qua không khí mà chúng ta thở, nguồn nước mà chúng ta uống và thức ăn mà chúng ta tiêu thụ. Vì thiếu tuệ giác, chúng ta đang phá hủy chính hệ sinh thái mà chúng ta và các loài khác cần nương vào để tồn tại.

Chúng tôi nghĩ rằng cộng đồng Phật giáo thế giới cần thấy rõ mối tương quan, phụ thuộc lẫn nhau giữa con người với con người, cũng như giữa con người với thiên nhiên. Đây là điều vô cùng quan trọng. Cùng với nhau, loài người chúng ta phải hành động để giải quyết những nguyên nhân gốc rễ gây nên cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay, đó là việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, những phương thức tiêu thụ không bền vững, sự thiếu ý thức và trách nhiệm về hậu quả của hành động do mình gây ra.

Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ “Thời điểm hành động là Bây giờ: Tuyên ngôn Phật giáo về Biến đổi khí hậu”, một thông điệp được đông đảo các nhà lãnh đạo Phật giáo và các Giáo hội Phật giáo các nước tán thành. Chúng tôi cũng hoan nghênh và ủng hộ các tuyên bố về biến đổi khí hậu của các truyền thống tôn giáo khác, như Thông điệp của Đức Giáo hoàng Francis về “Chăm sóc ngôi nhà chung” được công bố vào đầu năm nay (Laudato Si’: On Care for Our Common Home), Tuyên ngôn của đạo Hồi về Biến đổi khí hậu (Islamic Declaration on Climate Change), cũng như Tuyên ngôn sắp được công bố của đạo Hindu về Biến đổi khí hậu (Hindu Declaration on Climate Change). Chúng tôi và các truyền thống tôn giáo khác gắn kết với nhau bởi mối quan tâm chung về mục tiêu chấm dứt sử dụng nhiên liệu hóa thạch, giảm những phương thức tiêu thụ không bền vững, và những đòi hỏi về mặt đạo đức khi giải quyết những nguyên nhân cũng như tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là đối với những người nghèo nhất thế giới.

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, chúng tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới cùng nỗ lực bằng ý chí chính trị của mình để thu hẹp khoảng cách về mục tiêu khí thải mà các quốc gia đã cam kết và đảm bảo sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu được duy trì ở mức dưới 1.5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Chúng tôi cũng đồng thời kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới có một cam kết chung về tăng cường nguồn lực tài chính nhằm giúp các nước đang phát triển ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang phát thải carbon thấp trên toàn cầu.

Tin vui là chúng ta có cơ hội vô cùng quý báu để tạo ra một bước ngoặt lớn tại các cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu ở Paris. Các nhà khoa học đảm bảo rằng mục tiêu giới hạn sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức dưới 1.5 độ C là khả thi, cả về mặt công nghệ cũng như mặt kinh tế. Việc chấm dứt sử dụng nhiên liệu hóa thạch và chuyển qua 100% năng lượng sạch, có khả năng tái tạo sẽ không những thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang phát thải carbon thấp trên toàn cầu, mà còn giúp chúng ta khởi đầu con đường làm mới nếp sống tâm linh, một điều vô cùng cần thiết cho thế giới hiện nay. Ngoài những tiến bộ đã đạt được trong đời sống tâm linh, các cá nhân còn có thể đóng góp thêm bằng những hành động hiệu quả nhất như: bảo vệ rừng, chuyển sang ăn chay, giảm tiêu thụ, chuyển hóa rác, sử dụng năng lượng có khả năng tái tạo, hạn chế việc đi lại bằng máy bay, và sử dụng phương tiện công cộng. Mỗi người trong chúng ta đều có thể góp phần tạo nên sự thay đổi cho tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay.

Chúng tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới công nhận và công khai lên tiếng về trách nhiệm chung của tất cả mọi người trên hành tinh này trong việc bảo vệ môi trường sống vì lợi ích của tất cả chúng ta, cho hôm nay và cho cả mai sau.

Vì những lý do nêu trên, chúng tôi kêu gọi tất cả các Bên tham gia đàm phán tại Paris:

  1. Luôn lưu tâm đến các khía cạnh đạo đức liên quan đến biến đổi khí hậu, như đã nêu trong điều 3 của Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (UNFCCC).
  2. Đồng ý chấm dứt sử dụng nhiên liệu hóa thạch và chuyển sang hướng sử dụng 100% năng lượng sạch và có khả năng tái tạo.
  3. Quyết tâm thu hẹp khoảng cách về mục tiêu khí thải mà các quốc gia đã cam kết và đảm bảo sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu được duy trì ở mức dưới 1.5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
  4. Đi đến một cam kết chung về tăng cường nguồn lực tài chính trên mức 100 tỷ đô-la mà các nước phát triển đã cam kết đóng góp tại Copenhagen năm 2009, thông qua Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), nhằm giúp các nước đang phát triển ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang phát thải carbon thấp trên toàn cầu.

Thời điểm hành động là bây giờ.

Đồng ký tên:

Đức Đạt-lai Lạt-ma Tenzing Gyatso
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Vị thầy sáng lập Làng Mai (Pháp), nhiều tu viện và cộng đồng Phật Giáo Dấn thân toàn cầu
Đức Gyalwang Karmapa thứ 17
Người đứng đầu của dòng phái Karma Kagyu
Hòa thượng Dharmasen Mahathero
Đức Tăng thống, Giáo hội Phật giáo Bangladesh
Ngài Hakuga Murayama
Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo trẻ Nhật Bản (JYBA)
Ngài Jaseung Sunim
Trưởng Tông phái Tào Khê (Jogye Order) của Phật giáo Hàn Quốc
Hòa thượng Bhante B. Sri Saranankara Nayaka Maha Thera
Giáo hội Phật giáo Malaysia
Hòa thượng Khamba Lama Gabju Demberel
Chủ tịch Giáo hội Phật giáo Mông Cổ
Hòa thượng Bhaddanta Kumarabhivamsa
Đức Tăng thống, Chủ tịch Ủy ban Tăng đoàn Nhà nước Maha Nāyaka, Myanmar
Hòa thượng Agga Maha Panditha Dawuldena Gnanissara Maha Nayaka Thera
Đức Tăng Thống của Amarapura Maha Nikaya, Sri Lanka
Hòa thượng Thích Phổ Tuệ
Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Ngài Lama Lobzang, Tổng thư ký Liên đoàn Phật giáo Thế giới (IBC)
Ngài Olivier Reigen Wang-gen, Chủ tịch, Tổng hội Phật giáo Pháp (UBF)
Ngài Bhikku Bodhi
Chủ tịch Hội Phật giáo Hoa Kỳ
Công chúa Ashi Kesang Wangmo Wangchuk
Bhutan

Nguyên bản tiếng Anh: Buddhist Climate Change Statement to World Leaders

October 29th, 2015

We, the undersigned Buddhist leaders, come together prior to the 21st Session of the Conference of Parties (COP21) to the UN Framework Convention on Climate Change (UNFCCC) in Paris, in order to add our voices to the growing calls for world leaders to cooperate with compassion and wisdom and reach an ambitious and effective climate agreement.

We are at a crucial crossroads where our survival and that of other species is at stake as a result of our actions. There is still time to slow the pace of climate change and limit its impacts, but to do so, the Paris summit will need to put us on a path to phase out fossil fuels. We must ensure the protection of the most vulnerable, through visionary and comprehensive mitigation and adaptation measures.

Our concern is founded on the Buddha’s realization of dependent co-arising, which interconnects all things in the universe. Understanding this interconnected causality and the consequences of our actions are critical steps in reducing our environmental impact. Cultivating the insight of interbeing and compassion, we will be able to act out of love, not fear, to protect our planet. Buddhist leaders have been speaking about this for decades. However, everyday life can easily lead us to forget that our lives are inextricably interwoven with the natural world through every breath we take, the water we drink, and the food we eat. Through our lack of insight, we are destroying the very life support systems that we and all other living beings depend on for survival.

We believe it imperative that the global Buddhist community recognize both our dependence on one another as well as on the natural world. Together, humanity must act on the root causes of this environmental crisis, which is driven by our use of fossil fuels, unsustainable consumption patterns, lack of awareness, and lack of concern about the consequences of our actions.

We strongly support “The Time to Act is Now: A Buddhist Declaration on Climate Change,” which is endorsed by a diverse and global representation of Buddhist leaders and Buddhist sanghas. We also welcome and support the climate change statements of other religious traditions. These include Pope Francis’s encyclical earlier this year, Laudato Si’: On Care for Our Common Home, the Islamic Declaration on Climate Change, as well as the upcoming Hindu Declaration on Climate Change. We are united by our concern to phase out fossil fuels, to reduce our consumption patterns, and the ethical imperative to act against both the causes and the impacts of climate change, especially on the world’s poorest.

To this end, we urge world leaders to generate the political will to close the emissions gap left by country climate pledges and ensure that the global temperature increase remains below 1.5 degrees Celsius, relative to pre-industrial levels. We also ask for a common commitment to scale up climate finance, so as to help developing countries prepare for climate impacts and to help us all transition to a safe, low carbon future.

The good news is that there is a unique opportunity at the Paris climate negotiations to create a turning point. Scientists assure us that limiting the rise in the global average temperature to less than 1.5 degrees Celsius is technologically and economically feasible. Phasing out fossil fuels and moving toward 100 percent renewable and clean energy will not only spur a global, low-carbon transformation, it will also help us to embark on a much-needed path of spiritual renewal. In addition to our spiritual progression, in line with UN recommendations, some of the most effective actions individuals can take are to protect our forests, move toward a plant-based diet, reduce consumption, recycle, switch to renewables, fly less, and take public transport. We can all make a difference.

We call on world leaders to recognize and address our universal responsibility to protect the web of life for the benefit of all, now and for the future.

For these reasons, we call on all Parties in Paris:

  1. To be guided by the moral dimensions of climate change as indicated in Article 3 of the United Nations Framework Convention on Climate Change (UNFCCC).
  2. To agree to phase out fossil fuels and move towards 100 percent renewables and clean energy.
  3. To create the political will to close the emissions gap left by country climate pledges so as to ensure that the global temperature increase remains below 1.5 degrees Celsius, relative to pre-industrial levels.
  4. To make a common commitment to increase finance above the US$100 billion agreed in Copenhagen in 2009, including through the Green Climate Fund (GCF), to help vulnerable developing countries prepare for climate impacts and transition towards a low-carbon economy.

The time to act is now.

Yours sincerely,

His Holiness the Dalai Lama Tenzing Gyatso, 14th Dalai Lama

Zen Master Thich Nhat Hanh, Patriarch of the Plum Village International Community of Engaged Buddhists

His Holiness the 17th Gyalwang Karmapa, Head of the Karma Kagyu

His Holiness Dr. Dharmasen Mahathero, The Supreme Patriarch (Sangharaja) of the Bangladesh Sangha

Rev. Hakuga Murayama, President, All Japan Young Buddhist Association (JYBA)

His Eminence Jaseung Sunim, President, Jogye Order of Korean Buddhism

Bhante B. Sri Saranankara Nayaka Maha Thera, ​Chief Adhikarana Sangha Nayaka of Malaysia , Kuala Lumpur, Malaysia

His Eminence Rev. Khamba Lama Gabju Demberel, The Supreme Head of Mongolian Buddhists

His Holiness Dr. Bhaddanta Kumarabhivamsa, Sangharaja, and Chairman State Sangha Maha Nāyaka Committee, Myanmar

His Eminence Agga Maha Panditha Dawuldena Gnanissara Maha Nayaka Thera, Mahanayaka Thero, The Supreme Prelate of the Amarapura Maha Nikaya, Sri Lanka

His Holiness Thich Pho Tue, Supreme Patriarch of All Vietnam Buddhist Sangha

Venerable Lama Lobzang, Secretary General of the International Buddhist Confederation (IBC)

Venerable Olivier Reigen Wang-gen, President, Buddhist Union of France (UBF)

Venerable Bhikku Bodhi, President, Buddhist Association of the USA

Royal Highness Ashi Kesang Wangmo Wangchuk, Bhutan