Bờ bến lạ

buông bắt không gian, mầu chia ánh sáng

nệm trải dưới chân mây lung linh

ngõ vắng nhìn suốt linh hồn

mặt mũi tiền thân về hiện thế

cửa sổ thời gian bỏ ngỏ

để rèm nhớ thương bay

nắng và mầu xanh

ôi hằng hữu mùa xuân

trên Hy Mã Lạp Sơn

có cánh đồng hoang cỏ mượt

lấm tấm trời sao hoa vàng tím

người cắn trên ngón tay

cho tâm tư ngừng đọng

thuyền tôi vừa ghé vào bến lạ

im lặng dưới ánh đèn sao

tiếng nói trẻ thơ

thế giới nào quen thuộc? hãy lắng tai nghe

hồn cứ bay

ct cánh không chờ lệnh

v ì người phi hành kia

hai tay còn trói chặt

 

bỗng nghe gió thì thào

đại bàng vừa xòe đôi cánh rộng:

không gian là của Người!

đi đâu? một vì sao xa vẫy gọi

mênh mông, lạc lõng tinh cầu

vẫn thấy mây trời thân hữu.

y chiều, khói sóng:

đợi chờ, có mẹ có em

giờ trưa đói lòng:

phảng phất hương cau tiếng võng.

ng ghế mỏi,

giấc ngủ về

ngoài kia trăng cũng tựa đầu trên núi biếc

ngươi là ai? Buổi sáng tình cờ làm quen

giờ đây đã ngồi ngủ nghiêng đầu

suy tư kéo sợi tơ dài

con tằm tự giam mình trong chiếc kén

trời khuya lên cao

bên tai gió vẫn thì thào

chiếc bánh con, tách cà phê

tôi bàng hoàng:

trên mây, lao đao bước chân người chiêu đãi.

Bài này hình như cũng là được làm trên máy bay khi Thầy đang ngủ gà ngủ gật.

Sinh tử

sinh sinh, sinh tử sinh

tử sinh sinh tử sinh

tử sinh sinh, sinh tử

tử sinh tử, sinh sinh.

Bài thơ này gồm bốn câu mà chỉ có hai chữ sinh và tử. Chưa có bài dịch ra tiếng Việt. Thầy kể lại là bài thơ này được viết trong một buổi họp giữa các nhà tôn giáo về chuyện sống chung hòa bình. Hội nghị này được tổ chức năm 1974 tại Tích Lan. Trong suốt ba ngày đầu của hội nghị, Thầy không mở miệng phát biểu một lời nào, vì các đại biểu nói lý thuyết nhiều quá mà không chịu đề cập đến những vấn đề thực tế. Các nhà lãnh tụ tôn giáo, nhất là các “giáo sư thần học” phí rất nhiều thì giờ để nói về cái ngã của tôn giáo mình. Luôn ba ngày đêm ngồi nghe chán cả lỗ tai, Thầy ngồi làm thơ. Đây là một trong những bài thơ làm tại phòng hội nghị. Thầy có dịch bài thơ ra Anh văn chuyển cho hai đại biểu Thái Lan và Bỉ coi. Bản dịch đó đã mất. Tôi xin mạo muội dịch nghĩa bằng tiếng Việt như sau:

Từ bao nhiêu đời rồi, sinh tử đã phát sinh

sinh tử này kéo theo sự phát sinh của sinh tử khác

khi quan niệm về sinh tử phát sinh thì sinh tử cũng phát sinh

và khi quan niệm về sinh tử mất đi thì sự sống chân thực mới phát sinh ra được.

Các chữ sinh tử trong bài được phân phối như sau:

Từ bao nhiêu đời rồi (sinh sinh) sinh tử đã phát sinh (sinh tử sinh)

Sinh tử này (tử sinh) kéo theo sự phát sinh (sinh) của sinh tử khác (tử sinh)

Khi quan niệm về sinh tử phát sinh (tử sinh sinh) thì đó là sinh tử (sinh tử)

Và khi quan niệm về sinh tử mất (tử sinh tử) thì sự sống chân thực mới phát sinh ra được (sinh sinh).

Để tôi ráng làm lục bát xem, xin các bạn chớ cười:

tử sinh có tự bao đời

tử sinh lại cứ đón mời tử sinh

tử sinh do niệm tử sinh

niệm kia một dứt, vô sinh chứng liền.

Cẩn trọng

qua ngõ vắng

lá rụng đầy

i theo con đường nhỏ

đt hồng như môi son bé thơ

bỗng nhiên

tôi cẩn trọng

từng bước chân đi.

 

Những ai từng đọc Phép lạ của sự tỉnh thức của thầy Nhất Hạnh chắc đã biết về phép quán niệm trong khi bách bộ. Hồi ở Việt Nam, hay lúc đi ra ngoại quốc cũng thế, tôi thấy ngày nào Thầy cũng để ra ít nhất là một giờ để đi bách bộ và quán niệm. Tôi cũng thấy đi quán niệm là một phép thiền rất hay và rất dễ tập. Có những hôm công việc nhiều quá, Thầy đợi tới một giờ khuya mới khoác áo ra ngoài để đi quán niệm. Thầy viết trong phép là: “Tôi ưa đi bộ một mình trên những con đường quê hai bên có những bông lau vàng hay cỏ dại, và đặt từng bước chân ý thức trên đất, biết mình hiện tại đang đi trên hành tinh xanh kỳ diệu. Những lúc như thế, tôi thấy hiện hữu mầu nhiệm một cách lạ kỳ. Người ta thường nghĩ rằng đi trên mặt nước hay đi trên than hồng là thực hành phép lạ. Tôi nghĩ phép lạ không phải là đi trên mặt nước hay đi trên than hồng mà là đi trên mặt đất.” Cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức đã được Neige dịch ra Pháp văn và xuất bản lấy tên là Le Miracle, c’est de marcher sur terre cũng vì ý ấy.

Tôi học được phép quán niệm bách bộ hồi còn làm việc tại làng hoa tiêu Thảo Điền, một trong những làng thí nghiệm dẫn tới sự thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Hôm đó đi thăm Thảo Điền trên con đường đê xuyên ngang ruộng lúa, Thầy dạy chúng tôi phép quán niệm này. Hôm ấy chúng tôi đi năm người, trong số đó có hai anh sinh viên trường thuốc. Một anh vốn là “lính mới” trong việc làm làng nên cái mặt anh ta hết sức nghiêm nghị lúc tập thở và tập đi thiền trông rất buồn cười.

Kirsten và Thomas bên này thì học phép đó trong công viên Alkmaar. Neige và Pierre trong vườn Luxembourg. Còn Joe thì nằm ngửa ngay trong văn phòng ở Sceaux để học bài học đầu về cách thở. Joe theo học thiền quán luôn ba năm với thầy Nhất Hạnh tại một lớp thiền tổ chức ở Centre Quaker International Paris. Sau này thầy Nhất Hạnh rút về quê thì Joe được trao cho trách nhiệm hướng dẫn lớp thiền cho những người mới. Một thiền sinh khác mà Thầy tin tưởng và đã từng được giao cho sự hướng dẫn lớp thiền là anh Philippe Heully. Phần lớn những người ngoại quốc theo học thiền với Thầy đều không phải là Phật tử.

Bài thơ trên tuy đơn giản nhưng mang dáng dấp của Thầy một cách rõ rệt.

Và đây là bản dịch Anh văn của Mobi Quỳnh Hoa:

through the deserted gate

flooded with fallen leaves

I follow the small path

earth as red as a child’ slips

suddenly

I am aware

of each step

I take

Trời bên ấy sáng chưa

Tặng Huệ Liên

trước ngõ dòng sông cuồn cuộn

y trắng nhẹ hồn thơ ấu

sau vườn hoa cải rực vàng

bướm lạc quê hương

vầng mộng chàng trao

mặt trời là mặt trời chung

hoa bưởi tóc em phải nào hương xa lạ

đôi tay nhỏ thay chàng khuya sớm

hồn trên nét bút

mầu pha khói sóng

thương những giờ chàng buông bút dạy con

vai gánh lấy trọn vẹn giang sơn

đòn gánh trĩu hai đầu văn hóa

đông tây tiếng gà bồn chồn tấc dạ

nghiêng gối hỏi thầm: trời bên ấy sáng chưa?

trọn một mùa đông

lửa hồng ấp ủ tin yêu

tiếng ngâm thơ vang qua trời tuyết

rau dưa nuôi lấy tương lai

a xuân hoa nở thắm đồi

mắt xanh vì trời xanh

hoa phượng lên rồi

nửa trời tình yêu hé mở.

Huệ Liên là nữ sĩ Helen Coutant, phu nhân của anh họa sĩ Võ Đình. Chị hiền dịu và đảm đang không thua những người đàn bà Á Đông hiền dịu đảm đang nhất. Chị nấu cơm Việt Nam rất khéo. Có lần chị đã viết bài phát biểu về thực phổ Việt Nam trong tập san Chuông Việt, cơ quan ngôn luận của sinh viên Việt Nam tại Chicago. Khi thấy bài chị đăng trên Chuông Việt, anh Võ Đình nói “hoảng”, bèn viết cho báo Chuông Việt nói: “Nhà tôi là ai mà dám lên tiếng về môn nấu ăn Việt Nam?” Tôi chắc anh Võ Đình la át chị ấy như thế cho đẹp, chứ trong thâm tâm, anh cũng tự hào về người vợ hiền thục của mình lắm lắm. Huệ Liên (Bông Sen Trí Tuệ, tên của họa sĩ đặt cho phu nhân) khuyến khích anh rất nhiều trong việc sáng tạo và biên soạn. Một trong những tác phẩm của chị là First Snow được chồng minh họa rất đẹp, do nhà xuất bản Knopt ấn hành. Chị đã dịch nhiều bài thơ của thầy Nhất Hạnh và nhà xuất bản Unicorn Press đã cho in một tập lấy tên là The Cry of Vietnam. Anh chị có hai cháu: Katherine Phượng Nam và Hannah Linh Giang. Bài Tri bên y sáng chưa tác giả viết tặng Huệ Liên hồi hai vợ chồng nghệ sĩ này còn cư trú tại Matamoras bên dòng sông Delaware. Lúc ấy trời đã lạnh, hoa cải đã nở sau vườn, trước mặt nhà nước sông Delaware chảy mạnh. Sau buổi cơm chiều có dưa giá chấm tương gừng, Thầy ngồi uống trà, anh Võ Đình ngâm bài Trưng giang của Huy Cận, Huệ Liên ngồi bên hai mắt sáng trưng. Chị là người được hấp thụ cả hai nền văn hóa, và thương nước Việt Nam không khác gì thương Tổ quốc chị: chị ước ao chờ đêm dài chiến tranh được chấm dứt phía trời Đông.

vai gánh ly trn vn giang sơn

đòn gánh trĩu hai đu văn hóa

Đông Tây tiếng bn chn tc d

nghiêng gi hi thm: tri bên y sáng chưa?

Chị có dịch bài thơ Tri bên y sáng chưa ra Anh văn như sau:

East and West

                                    for Hue Lien

 

swiftly

past the front gate

the river flows,

like childhood memories

the clouds float,

in the backyard

mustard flowers ablaze

where the lost butterflies

hover

within his arms a firmament,

beneath the sun

his and mine,

grapefruit blossoms in my hair

are no strange fragance,

for him

my small hands, night and day,

trace the soul of the calligrapher

who rests his pen

to teach the child.

ancestral rivers and mountains

on my shoulders

two cultures: east and west

bend the carrying pole down,

a rooster crows,

and over pillows the hear throbs

whispers: is it dawn yet, over there?

all winter long

the red fire smolders

where our faith is warmed,

he sings poems and his voice rings clear

in snowy sky,

to keep alive the future

meals of pickles and rice,

when spring comes back to hills

the sky is blue for eyes are blue

and far away phuong buds burst forth

among the coconuts:

half a world of love

has half-way opened.

Tôi mới gặp lại Huệ Liên cách đây mấy tuần sau hơn mười năm xa cách. Vẫn người phụ nữ hiền thục ấy, vẫn đôi mắt sáng trưng ấy, lúc nào cũng lắng nghe những thao thức của người dân Việt khổ đau. Tôi biết rất rõ tiếng gà vẫn bồn chồn trong lòng chị và chắc hẳn đã nhiều lần chị nghiêng gối hỏi thầm: “Trời bên ấy sáng chưa?”

Lanka

ngàn năm sóng biếc mơn chân đảo

rào rạt thâm sâu lòng đại dương

đàn trẻ chân không trên cát mịn

da thơm biển mặn. Gió căng buồm…

dừa cao rợp bóng nuôi hương đất

chuối mít xoài thơm vẫn ngọt ngon

mưa dội đèo cao nghe gió gọi

du chân của Phật vẫn chưa mòn

 

nắng lên rực rỡ ngày khai hội

trống nhịp bàn chân sóng nhạc tuôn

tay mềm, nghiêng dáng nâu thôn nữ

gợi ý tiền thân Phật xuống trần.

Sri Lanka là một hòn đảo xanh mướt, phì nhiêu, có rất nhiều chuối, mít, xoài và khóm, thơm. Thầy Nhất Hạnh đến đây để dự một hội nghị các tôn giáo về vấn đề sống chung hòa bình vào khoảng tháng Tư 1974. Thầy kể cho chúng tôi nghe là một hôm Thầy đi xuống bãi biển miền quê gặp mấy chục em bé quê, chân đi trên cát, không có áo, em nào em nấy chỉ mặc quần đùi, da sạm nắng, mắt đen láy và khỏe mạnh. Ở miền này trẻ em chưa bị nhiễm cái nếp sống văn minh của Coca-cola, phim cao bồi và khách du lịch. Cát trắng, dừa cao và biển xanh vẫn còn che chở cho các em. Biển thì thơm, da các em cũng thơm mùi biển, Thầy tới gần ôm các em trong hai tay, nhưng bởi vì ngôn ngữ bất đồng nên không nói với các em lời nào. Bỗng dưng Thầy chợt nhớ là giữa Thầy và các em có sẵn một ngôn ngữ chung có thể dùng được. Thầy bèn chắp tay đọc:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa…

Tất cả các em đều chắp tay hướng về Thầy và đọc tiếp bài tam quy. Ở đây các em bé thuộc kinh tam quy bằng tiếng Pali cũng như các em bé ở Việt Nam thuộc bài Đệ tử kính lạy vậy. Cảnh tượng bãi biển lúc đó chắc là dễ thương lắm. Thầy đến Tích Lan nhằm mùa Phật đản nên đã được xem dân vũ mừng Phật đản. Dân Tích Lan tin rằng ngày xưa hồi tại thế, Phật Thích Ca có đến viếng Tích Lan tới ba lần. Các bộ sử Mahavamsa Dipavamsa cũng có nói như vậy. Theo các sách này thì chuyến viếng thăm thứ ba, vào năm 523, đức Phật có ghi dấu chân trên núi Sumanakuta và dấu chân ấy trải mấy nghìn năm vẫn còn rõ ràng trên núi đá.

Cao Phong

tin gọi đêm qua lòng đất ấm

châu khuya sữa ngọt bỗng tuôn trào

giờ phút nguy nga vừa chợt đến 

mặt trời ló dạng đỉnh non cao.

Cao Phong là tên một chú bé sinh vào lúc rạng đông một ngày năm 1974. Cha của chú bé có làm Phật sự với chúng tôi từ năm 1969 đến 1972. Trước ngày sinh chú bé, cha mẹ chú từng thỉnh cầu Thầy đặt cho nó một cái tên, một cái tên nói lên được kỳ vọng của cha mẹ nó vào tương lai của nó. Thầy nói ai biết đứa trẻ là con trai hay con gái mà đặt tên. Sáng hôm đó được tin một em bé trai ra đời, Thầy liền đặt cho nó tên Nguyễn Cao Phong và viết mấy câu thơ trên. Ước mong cho bé Cao Phong sau này được như hình ảnh mặt trời ló dạng trên đỉnh núi. Cao Phong là đỉnh núi cao.

Bướm lạc quê hương

lá tía tô

hương mùa thu mới chín

chim hót lá xanh

trời mây bình lặng

một buổi sáng hiền, chim câu xòe đôi cánh

hòa bình

trẻ thơ vươn tay ôm lấy

nụ cây mừng giọt nắng

hoe vàng sân cỏ rộng

mười năm

bướm lạc quê hương.

Ở Phương Vân am, tác giả trồng đủ các thứ rau thơm: húng, tía tô, kinh giới, ngò, quế, persil (mùi tây), céleri (cần tây), ciboulette (hành, hẹ)… cộng với các thứ rau tần ô, cải cay, cải ngọt, bí ngô… Vườn rau của Phương Vân am giống hệt một vườn rau của quê hương, nhất là khi hoa cải nở vàng và bươm bướm bay đầy vườn. Mỗi khi đi đâu xa hơi lâu là Thầy nhớ khu vườn. Ở xa, trời nóng, nâng cốc nước lọc trên tay giải khát Thầy cũng nhớ đến những luống rau thơm:

cốc nước lọc trên tay

nắng đã mấy hôm

ngoài trăm dặm

mấy luống rau thơm

đợi tôi về

tưới mát

Có một chú bé mười hai tuổi tên là Long và hai cô bé sáu tuổi và bảy tuổi là Minh Tâm và Thanh Thủy thường đến chơi và ở lại. Buổi sáng bốn ông cháu hay ra vườn. Thủy và Tâm chạy chơi trong nắng, còn Long thì giúp Sư ông nhổ cỏ, vun bón và tưới tẩm khu vườn. Thầy thường đặt bài hát mới cho chúng hát. Bài hát nào cũng có mặt của khu vườn: cây mướp, cây cà, con ốc, con sâu, trái bí, bông hồng.

Trong một bài hát Thầy viết riêng cho lũ “người lớn” của chúng tôi hát, có một bài mà trong đó có mặt nhiều thứ rau thơm:

đất mẹ cho em hương quế, tần ô,

tía tô, cây húng, cây ngò huyền diệu

mai đây xanh tươi núi đồi quê hương

mai đây lộc đời lên nhanh

ngt lời ca dao, toàn dân ca hát

ngọt lời ca dao, màu xanh đưa bước chân người… 

Tâm nguyệt

xôn xao, trời dậy hoàng hôn mới

mắt biếc, chim chuyền lá thủy tinh

thức giấc lãng quên

hồn rựng sáng

hồ Tâm lặng chiếu Nguyệt thanh bình

Đây là nụ cười của người ốm lâu ngày mới dậy. Đó là vào năm 1973 sau cái chết của thầy Thanh Văn. Thầy Nhất Hạnh thương mến thầy Thanh Văn hơn một người em ruột. Cái chết của thầy Thanh Văn khiến thầy Nhất Hạnh đóng cửa hơn hai tháng trời. Chúng tôi tôn trọng sự im lặng của Thầy, không dám nói chuyện, hủy bỏ tất cả mọi cuộc viếng thăm và gặp gỡ đã định trước giữa Thầy và các bạn trong những giáo hội và tổ chức thân hữu. Một buổi chiều nắng tốt, Thầy mở cửa và tự đi nấu trà. Lúc đó có anh Jim Forest và có Laura Hassler ghé tới thăm, Thầy liền mời họ uống trà và đi ra bờ sông. Ở bờ sông về Thầy viết bài Tâm nguyệt.

Tịch tĩnh

giấy thơm

thấp thoáng pho huyền sử

ly nước xanh

cười nét mắt thủy tinh

đã cao vươn từng lớp sóng bạc đầu

và tảng đá lạnh

gọi sương mù

đỉnh cao gió thét

tôi thức dậy

chót lưỡi tê

hạt sương ngọn cỏ trời khuya

 

bỗng ánh sáng xuyên ngang

lưỡi gươm lòe

chớp giật

nhng đám mây chạy mau

phương đông giục giã tiếng kèn

chiếc áo tơi năm nao

gió đuổi lá bay

nét bút anh

u nâu

trên cánh tay nám mầu sương gió

mầu nâu

trên ruộng đồng năm nao

mồ hôi tưới lúa

giờ phút này, tinh cầu luân lạc giữa trời cao

lay chuyển cánh chim bằng.

 

không gian từng vũng tóe tung

nổ vỡ.

một mặt trời đang ngụp lặn ngoài kia

kình ngư mắt đỏ

ống kính tôi

thu hình tiền sử

then cửa đã vừa bỏ lỏng

(vạn kiếp xưa từng gài nẻo tương lai)

sáng nay lối ra

bên rừng chim hót

em thoát về trên ngõ biếc

nhng chồi non, nụ hoa, đọt mướp níu không gian

bàn tay

bàn tay nâng chiếc đũa người nghệ sĩ tài ba

lừa vũ trụ âm thanh

về ngưng tụ

vào điểm không

tịch tĩnh

chói

(lần đầu tiên đôi mắt trẻ thơ vào đời)

tôi chợt thấy

bà mẹ quê củ hành búi tóc

lá tre chiều gom đốt

không gian un khói ấm

Pht cười sau mây hiền dịu:

đêm nay tròn trăng.

Những hình ảnh nối tiếp nhau như trong một cuốn phim phong cảnh, nhưng không phải là phong cảnh. Cuốn phim không hẳn là đang đi qua không gian mà thật là đang đi qua thời gian. Có lần tôi nghe anh Bính hỏi thầy Nhất Hạnh: “Bài thơ này nói gì thế?”, thì Thầy đáp: “Bài thơ nào có nói gì đâu.” Một lát sau, Thầy nhìn anh Bính, nói tiếp: “Bài này tôi vừa viết vừa ngủ gà ngủ gật trên máy bay. Máy bay bị hỏng máy ở một phi trường rất vắng, phải đợi gần tám tiếng đồng hồ. Ai nấy đều ngủ gà ngủ gật cho hết giờ. Tôi còn nhớ có lúc nhìn ra cửa sổ tôi thấy một vầng mặt trời đỏ như máu. Rồi khi máy bay sắp cất cánh, tôi thấy mặt trăng hiền dịu vừa ló ra khỏi đám mây.”

Padmapani

mười bông hoa trên trời

mười bông hoa dưới đất

sen nở trên mi Phật

sen nở trong tim người

bồ tát cầm đóa sen

dáng nghiêng trời nghệ thuật

trên cánh đồng sao mọc

nụ cười trăng mới lên

tàu lá dừa màu ngọc

vắt ngang lưng trời khuya

tâm đi trong tĩnh mặc

bắt gặp chân như về.

Chân dung bồ tát Padmapani mà tác giả thấy trên vách động Ajanta đã gây ấn tượng sâu đậm trong lòng Thầy. Bức họa chắc là đẹp lắm, bởi vì bài thơ cũng đẹp. Nghe Thầy nói động Ajanta gồm có hai mươi hai tu viện đục vào trong núi đá, tu viện xưa nhất được thực hiện vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch và tu viện mới nhất được thực hiện vào tiền bán thế kỷ thứ 7. Danh tích này đã bị rừng hoang xâm chiếm và mãi cho đến năm 1819 mới được phát kiến trở lại. Đây là một kho tàng nghệ thuật điêu khắc và hội họa Phật giáo rất phong phú, là nơi đã hấp dẫn hàng ngàn danh sư kiến trúc và hội họa quốc tế đến để nghiên cứu và tìm cảm hứng. Chân dung bồ tát Padmapani – Padma là hoa sen – được vẽ trên tường động số 1, một động được đục thành trong thượng bán thế kỷ thứ 7. Các động Ajanta ở sát nhau, gần làng Fardapur, cách thị trấn Aurangabad chừng một trăm cây số, thuộc tiểu bang Bombay, Ấn Độ.

Tác giả được viếng thăm các động Ajanta vào năm 1974 trên đường dự hội nghị Tôn giáo với sự sống chung hòa bình tổ chức tại Sri Lanka. Đó là vào mùa nực nhất của địa phương, cho nên rất vắng du khách. Thầy đã ở lại ba ngày ba đêm để ngồi rất lâu trong các động, chiêm nghiệm và chiêm ngưỡng. Thầy nói có lần Thầy đã nằm rất lâu trên một chiếc giường đá trong một cái liêu xá của động số 9, một động được đục từ thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, áp lòng bàn tay vào tường đá và quán tưởng rằng mình là vị tăng sĩ cư trú tại liêu xá này vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch.

Nghe Thầy kể chuyện, chúng tôi ai nấy đều ước ao có dịp đi viếng động Ajanta. Riêng tôi ngày xưa đã từng đi chiêm bái các Phật tích liên hệ đến đời sống đức Phật nhưng chưa từng nghe nói đến động Ajanta. Trong khi chờ đợi có dịp may hành hương thắng tích này, tôi đã giở Encyclopaedia of Buddhism ra để tìm chữ Ajanta, được thấy mấy mươi hình ảnh về nội dung các sơn động và may mắn thay được thấy chân dung Bồ tát Padmapani in màu. Nếu bạn có Tự điển bách khoa Phật học thì xin mở trang 302 tập 2, sẽ thấy chân dung Bồ tát và tàu lá dừa màu ngọc.