Tương lai của Làng Mai theo cái nhìn của Chân Không

Về phương diện vật chất

Chân Không sẽ không lo các sư cô, các thầy đệ tử Thầy không tiếp nối được sự nghiệp Thầy. Họ có thể làm hay hơn vì đã có “hào quang” của Thầy toả rạng dọn đường trước.

Có nhiều em sinh sau đẻ muộn mà giỏi một cách kỳ lạ, giống như là tuệ giác của ông bà tổ tiên họ đẩy họ tới dòng sông này để tuệ giác đó có cơ hội được dùng tới. Nếu họ đi vô dòng sông tham dục thì tuệ giác của ông bà tổ tiên sẽ không có cơ hội được sử dụng. Mình không mời, không năn nỉ mà tự nhiên có những sư em kéo tới xin làm đệ tử của Thầy. Nhiều em chưa bao giờ được nghe Thầy giảng trực tiếp mà chỉ nghe qua băng giảng thôi, vậy mà khi biểu hiện qua khoá tu thì rất xuất sắc. Vì vậy sự tiếp nối của Thầy là trùng trùng duyên khởi, rất nhiệm mầu mà mình không thể hiểu hết được. Có thể 300 năm sau khi Thầy tịch, có một cháu vừa nghe tiếng của Thầy thì đã biết mình phải tiếp nối như thế nào từ cái hay của tổ tiên, đất nước. Đất nước đó có thể không phải là Việt Nam mà là Pháp, Ý, Indonesia, là Thái Lan, là Trung Quốc, là Phi Châu. Tuệ giác của Thầy là sự tiếp nối dòng sinh mạng và tuệ giác của nhiều vị Tổ thật thâm sâu. Chân Không không thể thấy rõ Thầy tiếp nối ai, tiếp nối tổ tiên tâm linh nào. Thầy gặp Bụt Thích Ca sau khi Ngài đã nhập diệt hơn 2000 năm mà vẫn triển khai tuyệt vời được tuệ giác của Bụt. Biết đâu 1000 năm sau có một sư em theo học và phát triển được tuệ giác của Thầy. Bằng cớ là Thầy bị đột quỵ và rời Pháp đã ba năm nay vậy mà ở đó mỗi năm vẫn có vài chục em Âu Châu xuất gia, có mươi sư em xuất gia ở Hoa Kỳ, tuỳ theo mỗi trung tâm, các trung tâm ở Hoa Kỳ thì yếu hơn các trung tâm ở Pháp. Có những em rất giỏi, mới vào tu sau này mà có những cái thấy rất thâm sâu.

Chân Không không thể đoán được tương lai của Làng Mai sẽ như thế nào. Về phương diện vật chất, ngày trước Chân Không làm việc rất cực. Nhờ viết cuốn sách này Chân Không mới thấy là nhờ có chư Phật, chư Tổ thương nên mình mới xây được từ chuồng bò, từ chuồng thỏ, chuồng ngựa, chuồng heo thành ra một thiền đường, thành những phòng ốc như phòng Lá Tía Tô, phòng Rau Răm, phòng Rau Tần Ô… Đó là nhờ chất liệu tâm linh và thi ca của Thầy.

Sau khi đi vắng ba năm trở về, Chân Không thấy số thiền sinh tới Làng Mai, thay vì giảm đi thì lại tăng nhiều hơn. Có người không tha thiết gặp thầy Nhất Hạnh, họ còn không biết là Thầy bị đột quỵ nhưng tới tu học rất đàng hoàng, rất thuộc bài chi tiết những gì Thầy dạy. Những ngôi nhà cũng được tu sửa từ từ. Chân Không không cần đi lạc quyên, mấy thầy mấy sư cô cũng đủ sức lạc quyên và sửa lại nhà của ông Bonnamy ngày xưa. Lúc trước Chân Không đã sửa rồi, tưởng là đã hay lắm nhưng bây giờ họ sửa lại rất sang và đúng tiêu chuẩn. Đó là nhờ có mấy thầy trẻ. Xóm Mới, ngày xưa có mấy căn phòng nhỏ rất dễ thương, bây giờ họ phá bỏ và làm thành một nhà bếp sang trọng giống như nhà bếp của EIAB bên Đức, có phòng lạnh chứa rau, chứa nấm… Chân Không không thể tưởng tượng là không có Chân Không mà họ làm được. Mình có cái dở là cứ tưởng không có mình thì các em không làm nổi.

Hồi xưa, khoá tu Mùa Hè mỗi năm mở cửa trong ba bốn tuần lễ quan trọng nhất để các cha mẹ mang con về tu học. Phòng ốc thì chỉ có 600 chỗ nhưng mình tiếp được 800-1000 thiền sinh vì có người cắm lều bên ngoài hay mình mướn nhà khách cho họ. Sau này, Chân Không vừa về năm rồi thì thấy trong tuần đầu đã có 1350 người trong khi hồi thời còn có Thầy thì tuần đầu chỉ có khoảng 800-1000 người, tuần thứ hai lên 1100 người và tuần thứ ba lên tối đa là 1250 người. Thầy đi vắng ba, bốn năm nay nhưng trong tuần đầu có 1350 người, rồi tuần kế lên 1450 người.

Hay ở Paris, một số thầy đề nghị mở một trung tâm ở Paris rồi mua một tu viện cũ của các nữ tu Thiên Chúa giáo cho mấy sư cô. Chân Không nói:

“Hồi Phật còn tại thế, Ngài đi tới vườn Trúc Lâm xòe bàn tay ra nói với vua: ‘Nếu vua nghĩ tôi có thể giữ chỗ này để làm chỗ tu học cho các thầy thì đổ nước lên tay tôi.’ Vua đổ nước lên tay Phật và vườn Trúc Lâm trở thành tu viện. Chân Không cũng nói: ‘Tôi đưa tay ra nè! Ai có tiền thì đổ nước lên tay tôi và trả giùm tôi cái trung tâm đó.’”

Có một người tới đổ nước thiệt, đó là một người Pháp hoàn toàn không biết về đạo Phật. Ông tới tu với các thầy ở Xóm Thượng. Ông ly dị vợ và có con đã lớn, ông thấy đời nhạt nhẽo quá nên muốn tự tử chết cho rồi. Ông về Làng ở với các thầy được một tuần, hai tuần, ba tuần. Ông thấy cuộc đời vui quá, mình không cần phải chết, ông yêu đời trở lại nên muốn phụ mình mua trung tâm. Vì những thủ tục rắc rối nước Pháp nên ông đại thí chủ này không thể cho toàn bộ tiền mua Trung tâm Suối Trị Liệu ở Paris nhưng sự đóng góp của ông là nhân duyên để rồi mình cũng mua được. Thiền đường Hơi Thở Nhẹ thì quá nhỏ cho chỗ sinh hoạt, mình bán rồi lấy tiền mua một ngôi nhà khác cho quý sư cô ở gần chỗ của quý thầy.

Thầy dạy là theo nguyên tắc thì một trung tâm phải có âm và dương để nâng đỡ nhau, nhưng không nên ở gần nhau quá. Nếu ở gần nhau quá thì nhu yếu làm cha làm mẹ sẽ kéo mình đi mà người tu thì phải ở độc thân. Vì vậy tuy là có âm có dương nhưng phải ở cách xa nhau khoảng 3, 4 cây số. Những trung tâm mà âm dương sát nhau quá thì thường dễ rớt. Mình đã có trung tâm Suối Trị Liệu của quý thầy, bây giờ mình có thêm trung tâm Hơi Thở Nhẹ cách đó chừng 2,5 cây số.

Về phương diện tu học

Chân Không thấy mấy thầy, mấy sư cô trẻ rất thông minh và biết triển khai những điều Thầy mình dạy, nhất là những vị có đức độ như là thầy Pháp Ứng, Pháp Dung, Pháp Hữu… Thầy Pháp Ứng có điểm yếu, nhưng đối với Chân Không đó lại là điểm mạnh ví dụ như thầy đi tu nhưng không bỏ cha mẹ. Lúc đó ba thầy bị đột quỵ chết. Trong thời gian ba mẹ sống với nhau thì ba không dễ thương với mẹ. Thầy viết cho mẹ những lá thơ với nội dung giống như là thầy thay ba để xin lỗi mẹ, Chân Không đọc thơ của thầy mà chảy nước mắt. Thầy có một đứa em bị bệnh nên xin phép chúng về lo cho gia đình. Thầy Pháp Ứng về nhà mà không buông Xóm Thượng, cứ vài tuần thì thầy điện thoại báo cáo cho Thầy qua Sư cô Chân Không việc này, báo cáo với các thầy ở Xóm Thượng việc kia. Thầy Pháp Ứng tuy ở nhà lo cho em nhưng không rời tăng thân của mình. Bây giờ, cứ 12 tháng thì thầy về nhà hai tháng để giúp mẹ và em trai. Thầy Pháp Ứng rất chín chắn và sâu sắc.

Mỗi thầy, mỗi sư cô có những đặc thù rất hay. Cái hay nào Chân Không cũng học hỏi và phát triển được. Vì vậy trên con đường này mình phải đi chung với tăng thân thì mới có thể phát triển và chuyển hoá được những tập khí yếu kém của mình. Chân Không nhớ những lời cuối Thầy Làng Mai nói với Chân Không trước khi đột quỵ là: “Này con, con cái gì cũng giỏi, nhưng cái giỏi của con cũng chưa đủ. Con phải nghe lời tăng thân một chút để học được tuệ giác của mấy em. Mấy em tuy không giỏi bằng con nhưng nó cũng có tuệ giác mà con không thấy được.” Vì vậy bây giờ, tuy thấy có mấy em làm chưa giỏi lắm nhưng Chân Không cũng không muốn lấy quyền của một chị lớn để bắt mấy em phải làm theo ý mình. Chân Không cũng lắng nghe, theo dõi một hai năm rồi mới góp ý để sửa đổi. Chân Không nghĩ, nếu một dòng sông mà đi cho đàng hoàng thì tuệ giác của mình càng ngày càng lớn để mình có thể giúp cho nhân loại.

Hiện tại Thầy có 1179 học trò xuất gia, tính tới khi Cây Hoa Mộc ra đời tháng 11 năm 2020, chưa kể những Cây Trà Thơm tức là gồm những vị đệ tử của quý Sư bà hay quý Hoà thượng truyền thống sang Làng Mai xin y chỉ của Ôn Nhất Hạnh. Đường tu thì rất khó nên có người tu được 5 năm, 10 năm, 12 năm thì ra đời. Vì vậy số người đi tu với Thầy cũng có khi lên khi xuống.

Sức khỏe của Thầy bây giờ yếu, Thầy về ở chùa Từ Hiếu rồi muốn tịch luôn ở đó. Mình hy vọng Thầy sống thêm vài năm nữa nhưng cũng thấy Thầy khó mà khỏe đến độ có thể bay về Pháp. Sơn Cốc bây giờ chia ra, 2/3 làm viện bảo tàng giữ sách vở, thư pháp… của Thầy và 1/3 làm nội viện để mấy thầy mấy sư cô về tịnh tu sau khi làm việc. Tầng dưới của Sơn Cốc có một nhà bếp và một phòng ăn rất to chung quanh lắp kính nhìn ra một vườn tre lớn. Phía sau nội viện là những ngôi nhà bỏ trống mà Thầy sau khi đột quỵ vẫn ngồi xe lăn ra coi và biểu sửa lại. Hiện giờ chỗ đó đã được sửa lại thành một thiền đường lớn cho chúng xuất sĩ sinh hoạt. Sơn Cốc ngày xưa là nhà của ông tỉnh trưởng nên rất đẹp. Không ai được vào Sơn Cốc của Thầy trừ vài người giữ chìa khoá.

Khi Chân Không về lại Pháp thì thường ở Sơn Cốc tại vì trong đó có những hình ảnh và tài liệu quý giá của Thầy. Lúc trước, có lẽ Thầy ý thức được là mình có thể chết bất cứ lúc nào nên nói:

“Mỗi khi con cạo tóc cho Thầy thì lấy một ít bỏ vô bao thơ rồi đề ngày tháng lên.”

Chân Không về kỳ này khám phá còn đủ tóc của Thầy từ năm 2010 tới năm 2018, có điều là tóc của Thầy đen hơn tóc của Chân Không. Thư viện của Thầy có những tượng Phật thầy mua bên Trung Quốc, tượng Phật bên Ấn Độ tặng cho Thầy, xá lợi Phật, bàn thờ của ba mẹ và anh của Thầy, bàn thờ của Thầy của Thầy tức Sư Cố. Kệ sách của Thầy mình không được đụng tới tại vì đó là những sách xưa cũ. Có một phòng ngày xưa mẹ Chân Không ở, có kỷ niệm và gia phả của Chân Không. Gia phả của Thầy bằng chữ Hán thì Chân Không không biết để đâu, nhưng đồ vật của Thầy thì mình để yên không đụng tới.

Nhưng hình như là khi đi Thái Lan Thầy có linh cảm là mình không trở về nên biểu sư cô Định Nghiêm lấy hết những nhật ký của Thầy và những cuốn sổ có ghi chép chương trình đi giảng của Thầy. Cô Định Nghiêm không lấy hết nên bây giờ ở Sơn Cốc còn mấy chục cuốn sổ đó. Ở đó còn hình lúc nhỏ của Thầy cho nên Sơn Cốc đúng là bảo tàng viện của Thầy.

Viện Phật học Ứng dụng Âu Châu EIAB và Viện Phật học Ứng dụng Á Châu AIAB vẫn còn đứng vững và rất cần người, những người có đủ đạo đức và tình thương để ôm ấp và nâng đỡ mấy em. Sư cô Chân Đức tuy là giáo thọ trưởng bên Đức nhưng sư cô nói phần đông mấy em là người Việt Nam còn sư cô là người Anh không nắm vững văn hoá Việt Nam. Sư cô muốn xin mấy sư chị lớn người Việt Nam qua giúp. Mấy sư chị lớn của Diệu Trạm hay Trạm Tịch là những người theo pháp môn của Thầy nhưng cũng hiểu về truyền thống. Nếu làm mới nhiều quá thì mình có thể làm tổn thương.

Mình ráng tu tập theo lời Bụt dạy. Thầy nói kỳ này Thầy về Việt Nam chỉ với một vai trò duy nhất là xây dựng tình huynh đệ. Bác Hồ nói “không có gì quý hơn độc lập tự do”, còn Thầy thì nói “không có gì quý hơn tình huynh đệ”. Chân Không nhìn sâu thì thấy mình phải bắt đầu từ mình. Mình xây dựng tình huynh đệ với những thầy không dễ thương. Mình tập thương, tập hiểu, tập thấy những tánh hay của quý thầy đó. Mình không nói láo, mình trân quý họ thiệt. Nếu quý thầy chê mình thì mình phải nhìn sâu để nhận lỗi chứ đừng vì cái ngã mà cãi chầy cãi bướng. Có nhiều sư em tu chưa giỏi, chưa thọ tỳ kheo mà đã nghinh mặt với mình, không cho mình làm cái này, không cho mình làm cái kia. Mình nên tự nhắc tội nghiệp các em mới tu, mình tu lâu rồi mà mình cũng bực sao. Chân Không nói, tình huynh đệ bắt đầu từ mình thôi.

Khi về đây, nơi mà Chân Không đang ngồi viết hồi ký này, người ta thấy có vẻ như là Chân Không không làm Phật sự nhiều nhưng thật ra Chân Không làm nhiều Phật sự cho chính mình. Bước đi bước nào Chân Không cũng nguyện: Xin cho Đức Bồ tát Quan Thế Âm trong con sống dậy để con biết thương cái cây cái ngọn cỏ này, để con thương được chú sư em khó chịu này, để con hiểu và lắng nghe được người kia. Trong thời gian này hễ không đi dạy thì Chân Không tu (nói vậy chứ không hoài đâu, đi mười bước mà nhớ được ba bước tập dừng lại nhìn sâu hơn, tha thứ và thương thêm là giỏi lắm rồi). Chân Không mong rằng người nào đọc được tới đây mà thương Thầy thì phải tu, tự quán chiếu lại mình thêm nhiều hơn. Đừng chờ đóng góp gì cho tăng thân. Mình tha thứ, thương yêu, chấp nhận ngay những người xung quanh mình, trong sở làm, trong công ty, ngoài khu phố thì từ từ mình sẽ xây dựng được tình huynh đệ cho đất nước Việt Nam để Thầy được sống lâu.

Thầy trở về chùa Từ Hiếu là để xây dựng tình huynh đệ. Ban đầu nghe một cách cạn cợt thì Chân Không nghĩ rằng, xây dựng tình huynh đệ có nghĩa là những người với các lập trường khác nhau nên tập có tình huynh đệ với nhau hơn. Tri giác tức cái tưởng của mình chỉ đúng với sự thật có năm phần trăm, vì vậy cho nên mình phải rất khiêm nhường về cái tưởng (tức là “cái thấy” của mình). Mình mới chỉ sờ cái chân của con voi nên tưởng con voi là cây cột. Mình phải khiêm nhường để học hỏi và biết được rằng con voi có bốn cái chân, hai cái tai, một cái vòi. Mình giận người kia tại vì mình chỉ thấy một phần nhỏ của người kia thôi, mới thấy chân của con voi. Đừng tự tin là mình thấy hết, biết hết về người kia. Nếu có cái thấy đó rồi thì dù mình thuộc lập trường nào cũng đều là một và mình có thể học được từ nhau. Đi được với nhau thì từ từ mình có tình huynh đệ. Từ chùa Từ Hiếu tình huynh đệ sẽ lan ra các chùa, lan ra các thành phần, lan ra các tỉnh và lan ra toàn quốc, lan qua Á Châu, Âu Châu và cả địa cầu. Chân Không nghĩ đó là con đường mình phải đi, đầu tiên là sự khiêm nhường về cái thấy của mình. Cái thấy của mình chỉ là năm phần trăm của thực tại. Mới biết có năm phần trăm thôi nhưng khuynh hướng lúc nào cũng chắc mẩm là mình biết hết. Chồng tôi thì lúc nào cũng thế đấy. Bám chặt vào cái thấy giới hạn của mình mà cứ chắc chắn là mình biết hết. Vợ tôi thì lúc nào cũng thế đấy! Cô ấy, anh ấy thì lúc nào cũng thế đấy. Biết bao nhiêu là sinh vật đang sinh sống trên trái đất này, mỗi sinh vật có cái thấy khác nhau. Nên nhìn sâu, lắng nghe và tập khiêm nhường buông xả về cái biết của mình để học thêm về mình… và về người khác. Đó là tương lai nhân loại nằm trong tầm tay của cái chủng loại mà loài người có được. Người Tỉnh Thức (Bụt) thấy rõ và chỉ cho ta điều đơn giản ấy, cũng có chỉ cách tháo gỡ… Nhưng chúng ta có tập luyện khiêm nhường về cái thấy của mình và tập luyện buông bỏ, tập nhìn xa hơn và chấp nhận nhau hơn không?

Sự tiếp nối pháp môn Làng Mai

Nếu mình đem gieo 300 hạt mít thì sẽ mọc lên 300 cây mít. Tuỳ theo những điều kiện mà mỗi cây mít biểu hiện ra một cách khác nhau. Khi Chân Không đang viết cuốn hồi ký này thì trong sổ gia phả của Làng Mai, do sư cô Thoại Nghiêm giữ, có ghi là Thầy có tất cả là 1179 đệ tử xuất gia tính luôn cả thầy Nhất Trí đã mất tích. Có nhiều người đi tu một thời gian rồi xin ra đời. Có người không muốn sống chung với tăng thân mà đi lập cốc riêng. Cũng có người đã mất. Có người vì hoàn cảnh gia đình mà phải tạm rời tăng thân. Con số những người không còn sinh hoạt với tăng thân Làng Mai tính một cách rộng rãi là khoảng hai mươi phần trăm như vậy mình cũng còn khoảng 800 người. Trong khi đó có những vị rất xuất sắc nhưng không phải là đệ tử xuất gia với Thầy.

Trong nhiều năm qua, đã có nhiều vị xuất sĩ từ các chùa khác về y chỉ với Thầy. Các vị này xuất sắc và trung kiên, đã hỗ trợ Thầy rất nhiều trong việc dạy dỗ các sư em như quý thầy Giác Thanh, Giác Viên, Phước Tịnh và quý sư cô Trung Chính, Gina… Sau này có thế hệ trẻ hơn, là đệ tử của sư bà này, hoà thượng kia hay là đệ tử của sư em hay sư anh của Thầy. Họ tới từ một truyền thống, từ một đạo tràng khác nhưng khi nhập chúng thì họ tu hết lòng theo pháp môn của Làng Mai. Họ đã góp phần vào việc xây dựng tăng thân rất tích cực như các thầy Nguyên Tịnh, Đồng Trí, Minh Sang, Minh Hy… và các sư cô Thanh Ý, Thuần Tiến, Đức Nguyên, Chơn Đệ, Phước Tâm, Như Hiếu, Hạnh Liên, Tịnh Hằng, Hạnh Nghĩa… hay những đệ tử của hoà thượng Chánh Trực như thầy Giác Viên. Như vậy thì tổng cộng trên dưới Làng Mai có khoảng 1000 người xuất gia.

Hoà thượng Chánh Trực quen với Thầy Làng Mai rất lâu từ những năm 1972. Lúc đó Chân Không lạc quyên cho ba trung tâm phát triển tái thiết ở ba tỉnh là Quảng Trị, Quảng Ngãi và Tánh Linh (Bình Thuận) Việt Nam. Nhà nước Thuỵ Điển tài trợ 1 triệu 500 ngàn Krones tức là khoảng 300.000USD. Trung tâm ở Quảng Trị do Hoà thượng Chánh Trực phụ trách, Hoà thượng Long Thọ ở Quảng Nam còn trung tâm ở Tánh Linh (Bình Thuận) thì do Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội phụ trách.

Ở Cam Ranh có một xã tên Cam Hiệp Nam, ở đó có chùa Từ Đức do một thầy đệ tử hoà thượng Chánh Trực, sinh sau đẻ muộn không biết gì ảnh hưởng của Thầy Nhất Hạnh với chánh quyền Thuỵ Điển đã cho dân Quảng Trị 500.000 Krones để xây nhà cho rất đông gia đình ở Quảng Trị vốn là nạn nhân chiến tranh nát tan nhà cửa ở Quảng Trị, quyết tâm xây nhà ở khu khá an ổn vùng Cam Hiệp Nam nằm sâu trong núi không xa Cam Ranh.

Hoà thượng Chánh Trực có giao cho chú đệ tử nhỏ tỳ kheo Thích Giác Viên chăm sóc ngôi chùa Từ Đức và mấy trăm gia đình con Phật nạn nhân từ Quảng Trị vào định cư tại đây. Thầy Giác Viên là chú đệ tử nhỏ của hoà thượng Chánh Trực rất mê cuốn Con đường chuyển hoá nên dặn đệ tử (là sư cô Hỷ Nghiêm) có qua Mỹ thì phải tìm cho được tác giả của cuốn Con đường chuyển hoá. Sư cô Hỷ Nghiêm là đệ tử của đệ tử của thầy Giác Viên. Hoà thượng Chánh Trực có một trung tâm ở Quảng Trị, nhưng ngài không dám ở đó mà vô Cam Ranh, tới một xã tên là Cam Hiệp Nam khẩn mấy chục mẫu đất trong núi, xây lên mấy chục ngôi nhà với tiền tài trợ của Thuỵ Điển. Nhưng chính quyền Thuỵ Điển không hề biết chuyện đó, họ nghĩ sau mùa hè đỏ lửa thì Quảng Trị đã tan nát. Cho tới khi tịch thì hoà thượng Chánh Thực cũng không hề thổ lộ chuyện này với ai.

Hôm đó đọc cuốn hồi ký của Chân Không trong đó Chân Không có viết chính phủ Thuỵ Điển có giúp cho ba trung tâm ở Quảng Trị, Quảng Ngãi và Bình Thuận mỗi trung tâm 500.000SK (300.000USD) thì sư cô Khải Nghiêm nói:

“Bà ngoại con kể là hồi đó hoà thượng Chánh Trực có cho ngoại con một căn nhà mà không có nói tiền của ai, chỉ nói là tiền xã hội cho. Hoà thượng Chánh Trực cho mỗi gia đình Phật tử một căn nhà tại vì chúng con đã bỏ Quảng Trị chạy vô núi rừng ở đây. Con hỏi ngoại và mẹ tại sao mình lại ở trong hang cùng ngõ hẻm như vậy mỗi lần đi buôn bán thì rất cực. Nếu hoà thượng cho sao mình không xin cái nhà ở ngoài đường cho dễ buôn bán.”

Ngoại sư cô Khải Nghiêm nói:

“Con đừng nói vậy! Hoà thượng cưng mình lắm mới cho nhà ở đây. Nếu ở ngoài đường lỡ nhà binh Mỹ đi ngang thấy con gái đẹp thì làm ẩu. Mình ở xa trong núi thì mới giấu con gái được.”

Nghe như vậy Chân Không mới nghĩ đó là tiền cho trung tâm phát triển tái thiết. Ở Cam Hiệp Nam có một ngôi chùa tên Từ Đức do hoà thượng Chánh Trực lập rồi giao cho thầy Giác Viên trụ trì. Từ đó thầy Giác Viên giới thiệu rất nhiều vị sang Làng Mai xuất gia tu học như các sư cô Hỷ Nghiêm, Hội Nghiêm, Khải Nghiêm, Hoạ Nghiêm, các thầy Pháp Sĩ, Pháp Lâm (thầy Pháp Lâm tuy không ở Cam Hiệp Nam nhưng cũng do thầy Giác Viên giới thiệu), thầy Pháp Anh… Có rất đông người từ Cam Hiệp Nam đi xuất gia. Cam Hiệp Nam là nơi nhận được sự hỗ trợ của Thầy Làng Mai và đã phổ triển ra tinh thần thương yêu hiểu biết bằng công tác xã hội. Số tiền của chính phủ Thuỵ Điển cho, hoà thượng không xài mà dùng để lâp một trung tâm cho đồng bào lánh nạn và đồng thời cũng được tu tập tâm linh. Vì vậy mấy chục đứa con xuất gia của Thầy có nguồn gốc từ Cam Hiệp Nam của hoà thượng Chánh Trực.

Sau này có những vị giúp mình hết lòng như hoà thượng Giác Quang hay ni sư Như Minh. Họ đều là sự tiếp nối từ hoà thượng Chánh Trực mà ra. Cam Hiệp Nam tuy mang tên là một trung tâm làm công tác xã hội nhưng cũng là một trung tâm tu tập tâm linh. Một trong những đứa con tâm linh đầu tiên của Thầy là mấy đệ tử trong trung tâm phát triển xã hội của hoà thượng Chánh Trực. Mình không ngờ từ một trung tâm công tác xã hội mà Cam Hiệp Nam trở thành trung tâm tâm linh.

Trong cả ngàn người xuất sĩ ở Làng Mai có những sư em rất giỏi mà không phải xuất gia với Thầy nhưng có những nhân duyên gì đó với Làng Mai, ví dụ như các sư cô Huệ Tri, Huệ Định trong mười cô Huệ của sư bà Kiều Đàm ở Long Thành. Sư bà rất thương Thầy, cho luôn mười cô Huệ ra học ở Bát Nhã. Khi Bát Nhã bị đuổi thì chỉ có một số về lại Long Thành còn phần đông thì theo Thầy đi chỗ này chỗ kia độ người như một vài cô Huệ đầu tiên tới Viện Phật học Ứng dụng Âu Châu.

Ai có thể thay thế Thầy sau khi Thầy tịch

Nói về tiếp nối cái học uyên bác của Thầy thì sư cô Chân Đức thâm sâu về kinh điển. Đưa kinh điển vào hành động thì nhiều lắm: các thầy Pháp Đăng, Pháp Ấn, Pháp Ứng, Pháp Niệm, Pháp Hải, Pháp Khâm, Pháp Dung, Pháp Lưu, Pháp Hữu, Pháp Linh, Pháp Nguyện… Các sư cô Chân Không, Diệu Nghiêm, Đoan Nghiêm, Hoa Nghiêm, Hương Nghiêm, Thoại Nghiêm, Định Nghiêm, Tuệ Nghiêm, Hỷ Nghiêm, Linh Nghiêm, Giác Nghiêm, Đào Nghiêm, Hiến Nghiêm…

Ai cũng biết rất rõ Thầy là một người có tuệ giác thâm sâu và muốn làm biểu hiện tuệ giác thành hành động. Lúc vừa gặp Chân Không thì Thầy biết ngay đây là một cánh tay hành động không thể thiếu được. Thầy theo dõi rất kỹ công tác xã hội của Chân Không trong các xóm nghèo. Thầy nghĩ sau này khi Thầy lập một con đường cách mạng xã hội đàng hoàng thì Chân Không sẽ có dịp thi triển tài năng trở thành một cánh tay hành động của Đức Thích Ca. Chân Không rất hài lòng chuyện Thầy đưa các anh chị tích cực lãnh đạo năm sáu xóm nghèo trong thành phố của Chân Không vô phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội như chị Trà Mi, Phùng Thăng, anh Minh, anh Niên, chị Cao Ngọc Thanh… Thầy theo dõi và hết lòng ủng hộ Chân Không nhưng không phải là ủng hộ một cá nhân. Lúc đó Thầy còn trẻ và Chân Không nhỏ hơn Thầy 12 tuổi nhưng Chân Không là một người hành động. Thầy nắm được Chân Không là nắm được 60-70 người trẻ như Chân Không. Họ đều đi làm công tác xã hội trong các khu phố nghèo. Thầy chưa về tới Sài Gòn thì đã có một nhóm 60- 70 người bạn từng cộng tác sát nút với Chân Không tới làm việc cho Thầy, giúp Thầy lập Làng Tình Thương 1 và 2. Nhờ đó Thầy có thể biến được giấc mơ và hoài bão của mình thành ra hành động hiện thực. Có được chị Cao Ngọc Phượng là có được chị Trà Mi, chị Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng, anh Tôn Thất Tuệ, anh Lê Hữu Bôi, anh Ngô Vĩnh Thành, anh Lê Khắc Tích, anh Bùi Văn Thanh, chị Cao Ngọc Thanh, chị Phạm Thuý Uyên, chị Nghiêm Thị Bạch Tuyết, chị Lê Kim Chi, chị Lê Khắc Phương Thảo, chị Diệu Huỳnh Phan Thị Mai, anh Nguyễn Văn Niên, anh Nguyễn Văn Bảy, anh Trần Tấn Trâm, anh Lê Thành Nguyên, anh Hồ Văn Quyền, anh Phạm Hữu Tài, đây là những người trẻ làm việc sát cánh với Thầy ngay những ngày đầu Thầy trở về Việt Nam khi chánh quyền Ngô Đình Diệm vừa bị lật đổ và chưa có quân đội Mỹ vào Việt Nam.

Trước đó Thầy đã từng viết bài cho nhiều tờ báo của Phật giáo Việt Nam, trong đó Thầy trình bày cái thấy của mình về văn chương Pháp, nếu biết áp dụng tuệ giác của đạo Phật thì văn chương Pháp sẽ sâu sắc hơn và trở thành tuệ giác của nhân loại. Đừng nên đi, đứng, nằm, ngồi như một cái máy mà phải nhìn cho sâu và có chánh niệm từng hành động nhỏ. Người có truyền thống Thiên Chúa giáo mà biết nhìn sâu và nhìn rõ thì là đứa con thật sự của Thượng Đế. Người Hồi giáo mà biết nhìn sâu, nhìn rõ và có thương yêu thì là đứa con thật sự của Allah. Là người theo Phật giáo, nếu biết nhìn sâu để tiếp xúc với Phật tính trong mình thì mình là một Phật tử chân chính. Thầy nói trên những nét đại cương nhưng để đi vào hành động thì Thầy thông qua Chân Không và mấy chục người bạn của Chân Không. Vì vậy Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội vừa thành lập là đã có những cán bộ rất giỏi. Chân Không chỉ ở trong ban phổ triển, giống như là ngày xưa Chân Không đã đi tới từng nhà xin mỗi tháng một đồng. Một đồng thì chỉ mua được một khúc bánh mì không có nhân. Nhưng nhờ vậy Chân Không xin được mỗi tháng 30-40 đồng, cô em của Chân Không cũng xin được mỗi tháng 30-40 đồng. Khi trường TNPSXH thành lập thì mình có 3470 người cho tiền hàng tháng. Đó là một phong trào gọi là “vì dân, cho dân và do dân đóng góp”, không lấy tiền của Mỹ, của Nga, của Tàu, của đạo Thiên Chúa hay của đạo Phật mà chỉ xin tiền của quần chúng Việt Nam để giúp cho dân Việt Nam.

Chân Không có thể thay mặt Thầy cũng như các em của Chân Không có thể tiếp nối Thầy để hành động. Bây giờ Chân Không đã 83 tuổi và sẽ chết, nhưng Chân Không đã lập thành những nhóm nhỏ và các em có thể thay thế Chân Không làm công tác thể hiện tình thương của Phật, giúp cho trẻ em mồ côi, trẻ em đói hay trẻ em phải ăn thịt chuột, thịt cóc rất tội nghiệp. Mình cho các em ăn một bữa cơm rồi dạy cho nó về đời sống tâm linh. Chân Không có thể thay thế Thầy về phương diện hành động.

Nhưng thay thế Thầy về phương diện trí thức và học giả thì chỉ có sư cô Chân Đức là thích hợp nhất. Sư cô Chân Đức là một học giả rất giỏi và có tu tập. Khi nói về 37 phẩm trợ đạo thì ai cũng biết nhưng nói cho sâu và tìm hiểu nguồn gốc của chữ nghĩa như là chữ này từ gốc Prakrit hồi Phật còn tại thế, rồi đổi ra Sanskrit rồi đổi ra tiếng Pali như thế nào thì cô Chân Đức nắm rất vững.

Thầy Pháp Ấn có thể thay thế Thầy về phương diện điều hành diễn dịch thật sâu ý Thầy khi đàm phán ngoại giao và thương thuyết. Lúc thầy Pháp Ấn về Việt Nam thương thuyết cho chuyến đi về của Thầy lần thứ nhất thì bất cứ vấn đề gì thầy Pháp Ấn cũng thỉnh ý của Thầy và hỏi từng ly từng tí. Thầy Pháp Đăng là sư anh của thầy Pháp Ấn, rất dễ thương và giảng đạo đàng hoàng nhưng lâu lâu thầy tuyên bố những câu bất ngờ không sâu sắc về những vấn đề mà thầy không chuyên môn và có thể gây tổn thương. Điểm yếu của thầy là không ở lâu với tăng thân được. Hiện nay thầy cũng đã xin phép Thầy và đại chúng để đi ra tự thành lập một Làng Hạnh Phúc. Các thầy Pháp Niệm, Pháp Hữu thì Chân Không đã kể rồi.

Có một người mà nhiều người rất thích là thầy Pháp Dung. Thầy rất năng nổ và hết lòng. Thầy Pháp Dung là con nhà thuyền nhân định cư ở Mỹ từ lúc năm, sáu tuổi nên không giỏi tiếng Việt. Văn hoá Việt thì thầy Pháp Dung không nắm vững nhưng rất vững văn hoá đa dạng của Mỹ. Khi thầy nói chuyện với ông thống đốc Jerry Brown và mấy ông dân biểu thì họ rất thích tại vì thầy nói rất chân thật từ sự tu tập của mình. Còn thầy Pháp Khâm giỏi về tổ chức và có tinh thần cộng đồng. Thầy hay đưa ra nhiều chương trình và hoạch định kế hoạch huấn luyện cho các thầy các sư cô trẻ. Thầy rất năng nổ trong việc xây dựng tăng thân ở các nước vùng Đông Nam Á như Nhật, Indonesia, Hồng Kông. Các thầy Pháp Hải, Pháp Lưu, Pháp Linh là người Tây phương mà tu tập hết lòng trong cộng đồng có đa số là người Việt. Thầy Pháp Hải giỏi tiếng Việt, giỏi về luật pháp và đã giúp cho việc bảo lãnh huynh đệ qua Mỹ. Thầy Pháp Lưu giúp đưa tới phong trào Happy Farm (làm vườn hạnh phúc) và từ đó có nhiều người trẻ Tây phương muốn xuất gia. Thầy Pháp Linh là một trong các vị xuất gia trẻ thành lập phong trào Wake Up càng ngày càng lớn mạnh trên toàn thế giới, thầy cũng là một nhạc sĩ phổ nhạc cho nhiều bài kinh tiếng Anh và tiếng Pháp. Thầy Pháp Nguyện nhẹ nhàng, khiêm cung nhưng làm việc vô cùng chu đáo. Thầy sắp xếp hết các buổi triển lãm thư pháp của Thầy cũng như được Thầy giao cho trách vụ quản lý thư pháp để cung cấp cho doanh nghiệp ABC bên Mỹ phát hành giúp tài chánh cho học viện bên Đức.

Bên quý sư cô cũng rất giỏi. Sư cô Đoan Nghiêm tháo vát và giúp Thầy đánh máy các bài giảng để làm sách từ những năm đầu. Sư cô làm thơ cũng hay lắm, hay nhất là bài Áo lụa thiền hành mà thỉnh thoảng Thầy hay bảo sư cô Chân Không hát cho Thầy nghe. Lại thêm bài Lời qua tiếng lại sau này nhiều người thích, sư cô đi dạy ở Thừa Thiên Quảng Trị họ bảo sư cô sửa chút xíu lời lại cho nặng mùi dân Quảng Trị Quảng Bình luôn!!

Lời qua (mà) tiếng lại
Giải quyết chi mô
Răng không (bơ) dừng lại
Kẻo hố (mà) thêm su (sâu)

Lời qua tiếng lại
Đưa ta tới đâu
Răng không (bơ) dừng lại
Thở nhẹ và su

Lời qua (mà) tiếng lại
Đưa ta tới đâu
Răng không thở nhẹ
Mỉm cười nhìn nhau

Sau này sư cô Đoan Nghiêm giảng rất hay về Duy Thức học vì sư cô đã đánh máy hết các bài Thầy giảng về Duy Thức tam thập dụng. Sư cô cũng giảng Kiều theo cách Thầy rất sâu để dạy Phật tử qua bói Kiều.

Sư cô Hoa Nghiêm hát hay và phổ nhạc nhiều bài thơ rất thiền, rất sâu sắc của Thầy như Lòng không bận về. Tính sư cô Hoa Nghiêm hiền, xuề xoà, nên “chăm em” giỏi lắm. Còn sư cô Hương Nghiêm đã phụ tá công việc của Làng từ khi mới xuất gia. Chư Tổ chỉ thiếu cho sư cô Hương Nghiêm thêm sức khoẻ nữa thì tuyệt vời. Sư cô cẩn thận chu đáo, đầy tinh thần trách nhiệm lo từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, rất chi li, nhất là về luật lệ nhập cư, thủ tục hành chánh thương mại…, bên nào sư cô cũng quá kỹ càng. Sư cô làm việc sát cánh với luật sư từ việc lớn đến từng chi tiết nhỏ rất kiên nhẫn.

Sư cô Thoại Nghiêm có một ông cha người Huế giỏi và sâu sắc nên sư cô giống ông cụ, chu đáo, kỹ tính và làm việc mạch lạc. Sư cô phụ Thầy làm sách những năm đầu và là một trong những người đầu tiên xây dựng Lộc Uyển và chăm sóc các sư em ở Bát Nhã. Hiện tại sư cô phụ trách việc tài chánh trung ương ở Làng. Sư cô Định Nghiêm là con gái của một ông bác sĩ người Huế rất sâu sắc, má sư cô là người Quảng Nam ngọt ngào, nên sư cô Định Nghiêm nhận được cả gia tài của ba lẫn má. Sư cô Định Nghiêm dịch sách của Thầy ra tiếng Pháp rất hay và có trách nhiệm trong ban làm sách. Sư cô lại rất giỏi về âm nhạc. Sau khi Thầy bệnh, sư cô Định Nghiêm nắm rất vững tình hình sức khỏe của Thầy, lo thuốc men cho Thầy từng chút, thật chu đáo, còn sư cô Thoại Nghiêm thì lo thức ăn cho Thầy như bác sĩ chuyên lo dinh dưỡng. Sư cô Tuệ Nghiêm là em thầy Pháp Đăng, khi còn nhỏ được chuyển hoá rất xuất sắc qua lối giáo dục của Thầy. Sư cô Tuệ Nghiêm có khả năng chơi với người trẻ rất giỏi. Nhưng điểm mà Thầy rất khen sư cô Tuệ Nghiêm vì sư cô này không nói lý thuyết. Mỗi khi pháp đàm chia sẻ tu học ai cũng phục cách chia sẻ của sư cô. Sau này nhận công việc tài chánh trung ương ở Làng sư cô làm cũng rất hết lòng và chu đáo. Sư cô Hỷ Nghiêm có ba là một Phật tử thuần thành, trung trực nên sư cô rất liêm trực và rõ ràng. Giao việc nào sư cô cũng làm thật rốt ráo. Sư cô dạy uy nghi cho các sư em rất hay, cho pháp thoại cũng rất hay. Sư cô tu thành công nên làm gương cho cả gia đình, có hai cháu ruột cũng đi tu là sư cô Thượng Nghiêm và sư cô Trăng Huyền Diệu. Em họ sư cô là thầy Pháp Thiên cũng tu học rất vững chãi ở Viện Phật học Ứng dụng Âu châu. Sư cô là cột trụ ở tu viện Mộc Lan. Sư cô Thanh Ý là món quà của chư tổ tặng tăng thân. Sư cô xuất gia với Thượng toạ Tịnh Từ (vị Thượng toạ ở Bắc Cali mà ủng hộ Thầy rất nhiều, sáng tác rất nhiều nhạc thiền đó). Nhưng sư cô hạp với cách dạy của thầy Nhất Hạnh hơn nên sư cô lúc nào cũng là một sư chị rất siêng năng, lặng lẽ đóng góp rất nhiều mà ít ai thấy. Mỗi lần Thầy qua Mỹ dạy, sư phụ là Thượng toạ Tịnh Từ cứ bắt sư cô ở lại, định gửi đi làm trụ trì chùa này, trung tâm tu học kia nhưng sư cô “trốn” vì sư cô ưa đóng góp vô tướng hơn là lộ liễu. Còn nhiều sư cô Việt Nam khác cũng giỏi lắm, ai cũng có những đóng góp đặc biệt của mình. Sư cô Linh Nghiêm là người Thái thì Chân Không cũng đã nói rồi. Ngoài những đặc tính đã kể sư cô Linh Nghiêm xưa có học nghề Y tá nên có thể nói sư cô như y tá trưởng chăm sóc sức khoẻ Thầy thật chu đáo.

Về phần các sư cô người Tây phương thì mình có sư cô Chân Diệu Nghiêm hay gọi là sư cô Gina, sư cô Diệu Nghiêm là người hành giả đóng góp rất im lặng và rất nhiều. Trước khi đến theo làm đệ tử Thầy thì sư cô là đệ tử một thiền sư Nhật chi nhánh tu sĩ độc thân, không lập gia đình như đa số các thầy Nhật khác. Sư cô giữ uy nghi giới luật rất nghiêm mật. Sư cô lặng lẽ giúp nhiều sư em khác khi làm trụ trì chùa Cam Lộ. Sư cô Giác Nghiêm đi tu khi đã 50 tuổi nhưng tu thật xuất sắc. Gia đình sư cô người Pháp rất trưởng giả và có truyền thống Thiên Chúa giáo rất đậm. Theo học ở Làng Mai từ năm 1984, 1985 nhưng sư cô vẫn một mực hành xử như một ni sư (bà Sơ lớn Thiên Chúa giáo) mẫu mực. Chào một sư cô nhỏ sa di ni sư cô cũng chào thật ngọt và thật cưng “Bonjour ma petite soeur chérie“, “Bonjour ma Grande Soeur chérie, je vous ecoute…” Đối với cảnh sát trưởng, Thị trưởng chánh quyền Pháp, sư cô lễ phép đúng mực, ai cũng nể nhưng một số các sư cô Tây đợt sống mới khác thì không thích kiểu cách các bà Sơ quý phái đó.

Sư cô Đào Nghiêm đã giúp được cho người Pháp rất nhiều. Sư cô Hiến Nghiêm người Anh, trước khi đi tu làm cho đài BBC nên rất giỏi trong vấn đề đối ngoại ở phương Tây và giảng pháp cũng rất hay. Sư cô là biên tập viên nòng cốt trong ban làm sách tiếng Anh của Thầy.

Trong tăng thân còn nhiều vị khác nữa, ai cũng có những đặc điểm riêng và đóng góp âm thầm tài năng và sự tu học của mình trong sự nghiệp xây dựng tăng thân mà mình không kể hết được.

Quý thầy Từ Minh, Từ Hải, Từ Tế, Minh Hy, Giới Đạt, Nguyên Tịnh, quý sư cô Đức Nguyên, Phước Tâm, Như Hiếu, Thanh Huệ, Thuần Khánh, Tịnh Hằng, Chơn Tâm đều là những viên ngọc quý chư tổ gửi đến cho tăng thân để tiếp nối sự nghiệp của Thầy mà lo cho các sư em trong giai đoạn chuyển tiếp.

Quý thầy Từ Minh, Từ Hải, Từ Tế là đệ tử của sư thúc Chí Mậu và giúp đỡ mình rất nhiều từ giảng dạy đến các Phật sự ở Huế. Thầy Minh Hy là đệ tử của sư thúc Chí Thắng. Thầy ở Làng Mai lúc nào cũng chứng tỏ một sư anh lớn đầy trách nhiệm. Các sư em rất thương quý thầy. Thầy Giới Đạt là đệ tử của Hoà thượng Thái Thuận ở Bảo Lộc đã từng cưu mang tăng thân Bát Nhã trong những ngày khó khăn. Thầy cũng là một sư anh lớn được các sư em nương tựa rất nhiều ở trung tâm Suối Trị Liệu. Thầy Nguyên Tịnh là đệ tử Ôn Kim Sơn nhưng quá thích Thầy Làng Mai lại có khiếu viết văn khá vững nên các sư em có ý nhờ thầy viết tiếp Việt Nam Phật giáo sử luận 4.

Trên quý vị này thì có Sư bà Đàm Ánh, Ni trưởng Tinh Hạnh (Bồ Đề), Sư bà Phổ Đà, Sư bà Tịnh Nguyện (Phước Hải), quý Ni sư Đàm Nguyện, Đàm Lan, Như Minh, Minh Tánh, Giới Minh, Như Hải, Diệu Đạt, Như Ngọc là những người tiên phong lo mọi việc chuẩn bị cho Thầy về lại Việt Nam. Ni sư Đàm Nguyện dẫn cả đoàn đi Trung Quốc ngay từ năm 1995 dự khoá tu với Thầy và về nhà vẽ hình Thầy thật to như người thật và để bảng đăng tin Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ dạy khoá tu 5 ngày, khoá tu 21 ngày, khoá tu tại chùa Đình Quán.

Mỗi người có thể thay thế một chút của Thầy. Do đó khi đi cùng với nhau thì chính tăng thân Làng Mai thay thế Thầy. Sự vận hành của tăng thân Làng Mai xuất sĩ với Hội đồng Giáo Thọ, Hội đồng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ban Chăm sóc là thành quả xây dựng tăng thân mà Thầy đã dày công đưa ra và giảng dạy. Đó là sự tiếp nối của Thầy.

Thầy dạy mọi chuyện đều phải do Hội đồng Tỳ kheo hay Hội đồng Tỳ kheo ni quyết định. Tuệ giác của tập thể bao giờ cũng sáng hơn tuệ giác của một cá nhân.

Trung tâm Nhập Lưu

Melbourne nằm về phía Nam nên lạnh hơn Sydney. Thật ra chỗ ấm nhất của Úc là Brisbane. Brisbane có khí hậu giống như Việt Nam nên có thể trồng sầu riêng, hoa phượng… Lúc đầu mình không tính chuyện lập Làng ở Melbourne tại vì mình thấy nhân duyên chưa đủ. Ở Melbourne có hai vợ chồng đã thọ giới Tiếp Hiện là anh Hồ Thạnh và chị Mịn. Anh chị mua một miếng đất ở Beaufort cách Melbourne chừng 170 cây số, xây một thiền đường rồi cúng dường cho mình để làm Làng Mai ở Úc. Chỗ đó không có điện nước mà sư cô Trung Chính không nói cho mình biết, sư cô Trung Chính chỉ xin cho mấy sư cô gốc Úc tu học ở Làng Mai về hướng dẫn khoá tu cho người Úc để lập Làng Mai Úc. Chân Không năn nỉ các sư cô Thuần Tiến, Trí Duyên, Lương Nghiêm…khoảng sáu, bảy sư cô gốc Úc đi về nhưng về tới nơi thì mới biết là không có điện, nước và nhà cửa quá thô sơ. Sư cô Trung Chính nói:

“Đâu có cần điện đâu, đốt đèn cầy cũng được!”

Ba của sư cô Sinh Nghiêm là chuyên viên điện, ông về kéo điện vô. Sau đó mình mua thêm nhà của một thiền sinh Úc và làm thành tu viện Nhập Lưu. Anh thiền sinh đó cố ý giúp nên bán rất rẻ. Sư cô Thuần Tiến rất nhanh và giỏi nhưng không đủ duyên để chúng ở dài hạn nên sinh hoạt ở Nhập Lưu không đủ người để làm việc như một tăng thân. Chân Không phải bay qua tổ chức trở lại và mời qua bốn sư cô giáo thọ đầy nhiệt huyết để giúp đỡ Nhập Lưu.

Những khoá tu mỗi năm khi thì mình tổ chức ở Melbourne, khi thì mình tổ chức ở Sydney. Tu viện Nhập Lưu bây giờ đã có điện. Căn nhà mình mua của ông Jan có bốn phòng, mình sửa lại một phòng ấm cúng cho Chân Không về ở. Hiện giờ Nhập Lưu phải xây lại nhà ăn cho đúng tiêu chuẩn nhưng vì bao quanh là rừng cây khuynh diệp dễ cháy nên các sư cô đang tìm một trung tâm khác cũng ở gần Melbourne hơn nhưng có sẵn cơ sở vật chất hợp pháp để dễ phát triển hơn và cũng bảo đảm an toàn hơn. Trung tâm Làng Mai Úc bắt đầu bằng tu viện Nhập Lưu đang phát triển. Ở Sydney cũng vừa khởi sắc sau khi có tu viện Sơn Tuyền.

Làng Sen Búp và Tu viện Sơn Tuyền ở Sydney

Trong chuyến đi năm 1986 của Thầy, tăng thân Sen Búp mà chủ yếu là chị Mai và anh Bình tại Sydney đã mua một miếng đất rộng khoảng 40ha tại Howes Valley cách thị trấn Singleton khoảng 75 km và cách Sydney khoảng 180 km để tổ chức các sinh hoạt tu học. Miếng đất đó được gọi là Làng Sen Búp. Tuy nhiên vì vùng đó ít phát triển, không có phương tiện giao thông công cộng và các tiện ích căn bản, nên việc thành lập trung tâm ở đó không thành. Sydney ấm áp, nhiều người Việt nhưng cũng nhiều khuynh hướng nên việc lập trung tâm khó hơn, nhất là khi không có vị xuất sĩ nào đứng ra chủ trì.

Tháng 9 năm 2018, anh Bình đã cho mượn căn nhà của anh tại Canoesland rộng khoảng 13 ha để tổ chức tu học. Làng Mai Úc Châu có ý định mua lại căn nhà đó để lập trung tâm tại Sydney, nhưng vì Zoning không cho phép mở tu viện cho nên chỉ sinh hoạt theo tính cách là nơi sinh hoạt của một tăng thân địa phương chớ không phải là một trung tâm chính thức của Làng Mai Châu Úc.

Tháng 2 năm 2020, một gia đình tại Sydney đã cúng dường một miếng đất rộng 5.5 ha tại Bilpin, ngoại ô Sydney. Miếng đất có một căn nhà và các cơ sở có thể chuyển thành thiền đường, phòng ăn, và nhà bếp. Có ba hồ nước, trong đó một hồ nước có nguồn nước từ dòng suối ngầm. Trung tâm được đặt tên là Tu viện Sơn Tuyền vì Bilpin ở trên vùng núi và trong đất có một dòng suối ngầm. Tháng Bảy năm 2020, Làng Mai Úc Châu mua căn nhà bên cạnh để làm bãi đậu xe và để trung tâm có thể có hai xóm riêng biệt cho quý thầy và quý sư cô. Do nhân duyên như vậy nên ở Sydney, sau 34 năm từ khi khởi sự lập làng Sen Búp, một tu viện mới của Làng Mai đã được thành hình. Hiện tại có thầy Pháp Hải là người Úc đang ở đó. Hy vọng trong tương lai các vị giáo thọ có quốc tịch Úc sẽ cùng chung tay để giúp đỡ việc hoằng pháp ở Úc được mạnh hơn.

Chương 6: Làng Mai Úc châu

Trong chuyến đi Ấn Độ năm 1988, Thầy có rủ các anh chị cùng đi như chị Đỗ Quyên, anh Đỗ Quý Toàn, chị Thân Bạch Mai, anh Đinh Nho Bình, anh Hoàng Khôi, chị ca sĩ Hà Thanh, anh Nguyễn Hữu Chí, chị Bích ở Boston, chị Kim Chi, anh Tiếng, tức những đệ tử cũ của Thầy và rất thương Thầy. Chị Bích, anh Trí, chị Hà Thanh, chị Mai, anh Bình đi, anh Hoàng Khôi không đi được. Tới Ấn Độ thì cô Chân Không, cô Chân Đức và cô Chân Vị được cạo đầu trên núi Linh Thứu. Cô Chân Không và cô Chân Đức có tam sư thất chứng tức Phật Thích Ca, thầy Xá Lợi Phất, thầy Mục Kiền Liên… Thầy làm tượng trưng thôi. Thầy nói mình không đủ đức nên để Phật Thích Ca làm thầy dạy còn Thầy làm giáo thọ thôi. Sau đó Thầy cho Chân Lương, Chân Truyền được thọ giới Tiếp Hiện. Anh Bình, anh Shantum thì thọ Năm giới. Chị Hà Thanh được pháp danh là Tâm Ca Lăng Tần Già. Trước đó chị đã thọ Năm giới với quý thầy ở Huế rồi. Thầy nói Ca Lăng Tần Già là chim chỉ hát cho Phật để làm đẹp cuộc đời. Chị làm được, chị không bao giờ đi hát đại nhạc hội để lấy tiền cho mình, chị chỉ hát để quyên tiền cho chùa.

Xong chuyến đi Ấn Độ thì Thầy biểu anh Nho Bình lập Làng Mai ở Úc Châu. Anh tìm mua một miếng đất nhưng sau đó anh có khó khăn vì chuyện làm ăn, chuyện vợ chồng. Thầy thì ít đi Úc Châu, Thầy chưa bao giờ đi Úc đàng hoàng. Phải có một nhóm người địa phương mời thì Thầy mới đi. Năm 1987 có một nhóm người Úc mời thì Thầy qua cho một khoá tu ở Body Farm. Phật tử Việt Nam cũng tới tu chung. Body Farm sống theo lối thiên nhiên, có con rắn tới nằm khoanh tròn trước phòng và trên giường của Thầy. Mình chỉ thở và cười rồi kêu người chuyên bắt rắn đẩy nó ra. Mình cũng hướng dẫn khoá tu ở các chùa như chùa của thầy Tắc Phước, chùa của thầy Bảo Lạc. Ở chùa Bảo Lạc mình quen với anh Hoàng Khôi, một Phật tử rất giỏi của chùa Bảo Lạc. Mới đầu thì anh không tin Thầy lắm nhưng sau khi nghe Thầy giảng thì anh rất phục. Hơn nữa chính em ruột của anh là Hoàng Phúc cũng được nghe Thầy dạy. Anh Hoàng Phúc bệnh nặng, bệnh viện nghĩ là anh sẽ chết trong vài ngày nữa nên cho về nhà, nhưng anh lại sống tới 13 năm sau. Mùa đông hai vợ chồng anh Hoàng Khôi qua Làng Mai tu học một tháng. Anh đánh máy lại bài giảng của Thầy trong khoá mùa đông và làm thành sách. Trước khi bị đột quỵ Thầy nói anh Khôi viết tiếp cuốn Việt Nam sử luận IV nhưng anh không viết được tại vì văn phong và cái thấy của Thầy rất khác. Anh cũng tự thấy như vậy nên anh chuyển qua viết về Tông phái Làng Mai gồm có 3000 trang. Nhưng anh chỉ bỏ trong máy tính. Anh làm cuốn sách đó rất hay, Chân Không rất đội ơn anh.

Ảnh hưởng Làng Mai tại những nước khác ở Á châu

Từ Thái Lan mình đi cho khoá tu ở Malaysia (Mã Lai), Taiwan (Đài Loan), Trung Quốc. Ở Trung Quốc mỗi năm mình có ít nhất là hai, ba khoá tu. Đài Loan cũng dính rất sâu với Trung Quốc về văn hoá. Mình giúp đỡ Đài Loan có nghĩa là mình giúp Trung Quốc. Những sách hay của Thầy mà Đài Loan mua thì Trung Quốc in lại. Có hai loại chữ Hán: Đài Loan dùng chữ Hán xưa, còn Trung Quốc thì dùng chữ Hán mới. Nhưng họ có hệ thống hoán đổi rất nhanh. Nhiều sách của Thầy được chính thức in ở Trung Quốc trong thời gian Thầy còn đi dạy ở đó.

Mã Lai, Mindfulness Practice Center

Ở Mã Lai mình có một trung tâm nhỏ là Mindfulness Practice Center (trung tâm thực tập chánh niệm). Đó là một căn nhà rất cao ráo nằm trong một khu phồn hoa. Tăng thân Mã Lai đã đóng góp một thầy rất giỏi và vài sư cô. Mỗi tuần vào ngày chủ nhật trung tâm này có một ngày chánh niệm, mình ngồi thiền, đi thiền hành… Mỗi năm quý thầy, quý sư cô Làng Mai Đông Nam Á đều có khoá tu năm ngày ở Mã Lai và hai thời pháp thoại ở hai thành phố lớn như Kuala Lumpur và Penang.

Indonesia

Indonesia là một nước khá lớn có nhiều đảo to. Theo Thầy nghiên cứu thì đạo Phật truyền qua các nước như Bhutan, Nepal nhưng cũng có truyền qua Indonesia nên ở đó có một Phật tích gọi là Borobudur. Đó là một thắng tích mà chung quanh còn những thổ dân theo đạo Phật. Người Indonesia coi dân đó như là dân tộc thiểu số. Khi người Hồi giáo mới đến Indonesia vào thế kỷ thứ 3, 4 thì họ giết hết những người theo tôn giáo khác nên bây giờ 90% người Indonesia theo Hồi giáo. Sở dĩ Phật giáo còn ở Indonesia là nhờ người Tàu qua bên đó mua bán thành công, trở nên giàu có và họ thờ Phật trong nhà, trong chùa rồi lập những trung tâm Phật giáo nho nhỏ. Nhưng đó chỉ là thiểu số, là những người giàu. Vì vậy một ông nhà giàu gốc Tàu theo đạo Phật đã sẵn sàng mua một trung tâm Làng Mai ở Indonesia để cúng dường cho Thầy, nhưng có đất rồi mà vấn đề xây cất để chính thức hoạt động, ông xin đã ba năm rồi vẫn chưa được phép để Làng Mai lập chùa ở Indonesia .

Vừa rồi sư cô Thoại Nghiêm và thầy Pháp Khâm qua Indonesia để coi mình có thể tìm đường nào khác để lập một trung tâm ở Bali (cũng thuộc Indonesia nhưng thổ dân theo Ấn Độ giáo là chính nên hy vọng không bị chèn ép như chỗ có đạo Hồi). Mình cũng có bảy, tám em Indonesia qua Làng xuất gia, chỉ khi các em lên giáo thọ thì mình mới có thể gửi về để thành lập trung tâm ở Indonesia. Bốn thầy của tông phái Ekayana (Nhất Thừa) và một tông phái khác ở Indonesia đều theo Thầy Nhất Hạnh nhưng thầy của họ thuộc truyền thống Ekayana nên mình muốn mấy em nên chuyên tâm chỉ xuất gia với Thầy, tu học rất có trách nhiệm, tiến bộ… khi các em lên giáo thọ rồi mới mở trung tâm.

Nhờ trung tâm ở Thái, ở Hong Kong mà mình đi lan ra các nước Á Châu.

Ấn Độ

Người thường tổ chức những chuyến hành hương sang Ấn Độ là anh Shantum Seth. Anh là con của bà chủ tịch tối cao Pháp Viện, em của một nhà văn nổi tiếng Vikram Seth. Shantum đã tổ chức năm bảy khoá tu cho học sinh trung học giới thượng lưu Ấn Độ. Các học sinh, các thầy giáo, giám đốc rất thích. Anh cũng tìm mua một miếng đất ở Ấn Độ rất hợp với căn cơ người Ấn. Vậy mà anh cũng chưa lập được một trung tâm ở Ấn Độ vì thiếu xuất sĩ chịu thường trú nơi đây. Những người thượng lưu trí thức đều học ở trường Dehradun này. Miếng đất ở Dehradun của anh Shantum nhìn ra Hy Mã Lạp Sơn rất đẹp mà chưa tu sĩ Làng Mai nào chịu tới đó tu cả. Đó là một trung tâm cư sĩ, lâu lâu anh chỉ tổ chức được những khoá tu nhỏ tại Làng Mai Dehradun, muốn làm những khoá tu đàng hoàng thì anh phải mướn trường học Dehradun lớn hơn (dân quý phái thượng lưu đều tốt nghiệp trường này). Mỗi lần Thầy sang Ấn Độ, anh Shantum sẵn sàng tổ chức cho Thầy những buổi gặp mặt với gia đình ông Gandhi, đương kim chủ tịch Quốc hội thời đó, nhưng khiêm nhường mà nói “Làng Mai vẫn chưa cắm rễ ở Ấn”. Thầy tu Phật giáo nhiều nước như Nhật Bản, Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Đại Hàn… đã định cư ở Ấn Độ, đã từng cất những ngôi chùa đồ sộ, đẹp đẽ tại các thánh tích Phật giáo nhưng đạo Bụt vẫn chưa cắm rễ ở Ấn Độ. Lần cuối khi Thầy đi giảng ở Ấn Độ, cứ mỗi 15 phút thì Đài truyền hình toàn quốc Ấn có một hàng chữ cao chừng 2,5cm chạy bên dưới màn hình ghi câu: Thiền sư Thích Nhất Hạnh đang ở Ấn Độ, Thiền sư sẽ thuyết giảng tại…, tối nay hay trưa ngày kia, lúc… giờ. Thiền sư sẽ dẫn đoàn thiền hành cùng đi với rất đông dân Ấn Độ ở đại lộ lớn nhất thành phố Delhi…

Khi nào thế hệ của các cháu Nandini hay Amika con gái của anh Shantum và chị Gitu bỏ tất cả đi về khu nghèo nhất, bạo động nhất và làm được cái gì khuấy động lòng người, khiến ai ai cũng muốn đứng lên làm cách mạng theo con đường của hiểu biết và thương yêu thì chừng đó, tuy các cháu không xưng là đạo Phật, mà đi tới đâu hay làm gì cũng trong ánh sáng của thấy sâu, hiểu rộng, thương nhiều thì chừng đó đạo Bụt mới cắm rễ lại vào đất Ấn Độ…

Viện Phật học Ứng dụng Á châu ở Hong Kong

Có một thầy Trung Quốc là thầy Tịnh Nhân, sau khi được dự khoá tu của Thầy bên Anh, thấy Thầy giảng cho gần 3000 người Anh ở London và dự khoá tu 700 người Anh tu năm ngày với Thầy, thầy phục quá nên đem sách Thầy về Trung quốc cho một học giả Phật tử rất được các nhà lãnh đạo Trung Hoa Lục Địa thường tham vấn ngay cả trong khi ngài Chu Ân Lai còn sống. Ông tên là Zhao Puchu (Triệu Phác Sơ), nay ông đã già, đã hưu trí nhưng tinh thần vẫn minh mẫn lắm. Ông đọc xong hai cuốn Con đường chuyển hoá (Transformation and Healing) và Buddha Body, Buddha Mind là đòi mời Thầy sang Trung Quốc dạy ngay. Nhờ vậy thầy Tịnh Nhân đã vận động cho Thầy đi dạy chính thức ở Trung Quốc và chuyến đi nào thì trạm đầu hay chót Thầy cũng ghé thăm Hong Kong. Nơi đây thầy Tịnh Nhân và thầy trưởng Ban trị sự ở HGK cũng mời Phật tử tới nghe khoảng 800 đến 1000 người. Lần thứ ba có được các chị Phật tử cư sĩ giàu có ở Hong Kong nhưng gốc Việt thấy mỗi lần Thầy mình qua Hong Kong giảng mà chỉ cho 1.000 người tới tu học thì hơi uổng nên muốn mướn một chỗ cho 10.000 người. Mướn một chỗ như vậy thì rất mắc, gần 100.000USD cho một đêm. Thầy mình nổi tiếng bên Mỹ chứ ở Hong Kong thì chưa có nhiều người biết. Chị Therese Khan đề nghị mướn hội trường lớn và vận động được ba ông nhà giàu ở Hong Kong là Li Ka-shing, Dr. Yeung và một người nữa, mỗi ông cho 50.000USD để thuê một phòng thuyết giảng cho 10.000 người trong một đêm. Đêm đầu thuyết pháp ở đại sảnh đó, người tới nghe không tới 10.000 người nhưng cũng được hơn 8.000 người. Bên Hong Kong người ta không bán vé.

Từ đó mỗi lần Thầy ghé Hong Kong là Phật tử ở đây mướn trung tâm lớn, lần nào cũng trên dưới 10.000 người đến nghe.

Thầy giảng được hai năm liên tiếp thì một hôm Dr. Yeung xin được gặp Thầy trước buổi giảng. Thầy không chịu, thầy bảo là trước khi giảng Thầy phải để tâm rất bình yên, phải thiền chỉ, thiền quán rồi mới ra thuyết pháp được cho hàng ngàn người nghe. Ông đó là một trong ba ông nhà giàu đã thuê phòng giảng cho mình. Năm sau ông xin gặp thì Thầy cho gặp.

Lúc đó mình mới mua một ngôi nhà to lập Viện Phật học Âu Châu nhưng chưa có tiền sửa chữa cho hợp tiêu chuẩn đón sinh viên vào học Viện Phật học Ứng dụng Âu Châu cho hợp pháp. Thầy nói, bây giờ có lẽ mình nên đi kêu gọi người Á Châu qua tiếp sức để mình đem đạo Bụt (là đạo của người Á châu) sang Âu châu để độ người Âu châu theo đạo Bụt là đạo của ông bà mình. Người Tây phương gốc theo đạo Thiên Chúa còn mình là nước Phật giáo. Thầy gặp ông Dr Yeung đó với mục đích kêu gọi ông đóng góp cho Viện Phật học Âu Châu – EIAB (European Institute of Applied Buddhism). EIAB thì có toà nhà quá lớn mà mình chưa đủ tài chính để sửa sang. Ông ta vừa gặp Thầy nói một câu đơn giản:

“Con gặp Thầy hôm nay để kính nhờ Thầy lập Viện Phật học Á Châu chứ không phải Âu Châu. Phật tử ở đây mà không tu tập theo pháp môn của Thầy giảng thì rất là uổng. Con muốn lập một Viện Phật học Á Châu và con có thể gửi các thầy đệ tử của Thầy đi dạy bên Trung Quốc nữa. Con có cơ sở ở Trung Quốc và có thể tổ chức cho Thầy được.”

Thầy hỏi:

“Vậy thì đạo hữu có một chỗ nào cho 120 vị ở tu không?”

Ông nói:

“Chỗ cho 120 người thì hơi sớm. Con có một chỗ, nếu các thầy ở được chùa này thì mình có thể lan ra từ từ.”

Hôm sau ông mời Thầy và một số thầy cô tới chùa Liên Trì trên đảo Lantau thì Chân Không giật mình. Chùa Liên Trì nằm sát chùa Bảo Liên, đó là hai ngôi chùa dựa trên vách núi rất đẹp. Hai ngôi chùa này là nơi rất đặc biệt trong đời của Chân Không. Năm 1968, Thầy gọi Chân Không sang Hong Kong để báo cáo cho Thầy nghe về tình hình bên nhà vì Thầy có ý định trở về Việt Nam. Chân Không đã đi hỏi quý Hoà thượng Thiện Hoa, Hoà thượng Thiện Hoà, Hoà thượng Thiện Minh, Hoà thượng Quảng Độ, Hoà thượng Quảng Liên… rồi mới qua báo cáo cho Thầy Nhất Hạnh. Quý thầy ở Việt Nam đề nghị thế nào Thầy Nhất Hạnh cũng phải ở lại, mà ở lại thì Thầy cần một phụ tá hành động giỏi, biết cách thu xếp và tổ chức như Chân Không. Thầy nói:

“Nếu Thầy ở với mấy người chưa góp phần xây dựng tranh đấu cho Hoà Bình mà đã đòi chức này chức nọ thì Thầy rất mệt. Nhưng con đã chứng tỏ đủ sức giúp thầy ở Thanh niên Phụng sự Xã hội, con đã chèo chống được rất giỏi… nên Thầy cần con ở lại để giúp Thầy.”

Chân Không không chịu:

“Ở nhà có 11.000 người ở chen chúc nơi sân Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đang chờ con. Nhà họ bị oanh tạc và đang ở chung quanh đó, mỗi ngày con đi xin mấy chục tạ gạo cho họ ăn. Bây giờ con đi thì ai lo cho họ.”

Thầy nói:

“Gạo là của USAID cho. Hoa Kỳ bỏ bom tan nhà nát cửa nát đầu cha, tan xương mẹ… xong mình đi xin gạo của chánh quyền ấy… nên không có con thì người khác xin cũng được.”

Tối hôm đó Thầy ở chùa Bảo Liên còn Chân Không ở chùa Liên Trì. Sáng hôm sau hai Thầy trò đi thiền hành trên núi sau lưng chùa Liên Trì. Chân Không quán chiếu trong ba ngày thì lên đảnh lễ với Thầy xin ở lại. Trong cuốn Con đường mở rộng (Tập 1 hồi ký 60 năm theo Thầy học đạo và phụng sự), Chân Không có kể tại sao Chân Không ở lại với Thầy. Chùa Liên Trì là nơi Chân Không đảnh lễ Thầy và xin được ở lại để theo Thầy kêu gọi hoà bình và làm công tác xã hội. Nơi đó, 40 năm trước Chân Không đảnh lễ Thầy và 40 năm sau vị thí chủ này cúng dường cho mình chùa để làm Viện Phật học Ứng dụng Á Châu. Rồi ông cúng luôn chùa Trúc Lâm nhỏ hơn kế bên cho các thầy ở, tại vì số lượng các thầy ít hơn. Chùa Trúc Lâm cũng dựa trên vách núi linh thiêng này. Giữa chùa Liên Trì và chùa Bảo Liên có một ngôi chùa nhỏ, hơn nữa ở đó còn có bốn, năm chùa nhỏ có thể nhập lại thành chùa lớn. Hong Kong là xứ cấp visa thường trú rất khó khăn. Người Việt được cấp visa rất ít. Số lượng các sư cô là 14 người, còn bên các thầy là chín hay mười người. Chùa Liên Trì chỉ đủ chỗ cho khoảng 15 – 20 người ở rất chật nên cư sĩ tới dự khoá tu phải mướn chỗ bên ngoài gần chùa Bảo Liên. Chùa Trúc Lâm cũng vậy, chỉ đủ chỗ cho khoảng 10 – 12 thầy.

Thầy Pháp Khâm là cột trụ của Viện Phật học Ứng dụng Á Châu này. Chùa vẫn thuộc quyền sở hữu của Dr. Yeung nên mình không phải lo gì cả về cơ sở vật chất, chỉ lo tu học và giảng dạy. Dr. Yeung cúng dường toàn bộ tiền ăn và chi phí sinh hoạt căn bản của chúng xuất sĩ ở đây. Những ngày quán niệm của mình gồm cả người Việt và người Hong Kong. Chùa ở trên núi nên có xe buýt công cộng và cáp treo. Đường lên núi rất đẹp.

Làng Mai Thái Lan

Tên trung tâm ở Thái là International Plum Village in Thailand, nhưng mình hay gọi là Làng Mai Thái. Bây giờ khi nghe người ta nói “con đã tới Làng“ thì mình hay hỏi lại là Làng nào: Làng Mai Pháp hay Làng Mai Thái. Hiện nay Làng Mai Thái đã trở thành một trung tâm tu học phồn thịnh. Có nhiều người Việt làm chức cao trong chính quyền Việt Nam ưa ẩn danh qua bên Làng Mai Thái tu tập, vì họ đọc sách của Thầy rất thích. Cũng có nhiều gia đình có người thân làm công an qua Làng Mai Thái tu tập. Đại gia hay bình dân nghèo khó đều qua bên Thái tu tập thoải mái. Bên Thái mình cũng kết hợp với tinh thần văn hoá Việt Nam, tức là ai đóng góp được bao nhiêu thì đóng góp, như là đóng 15$ cho nguyên một tuần. Người Thái thì không phải đóng góp vì mình muốn trả ơn cho đất nước Thái đã cưu mang mình, nhưng họ cũng cúng dường như những người Việt Nam có khả năng muốn cúng dường thêm.

Làng Mai Thái bây giờ rất đông, không đủ chỗ nên có một số đại gia phụ với mình mua thêm đất để mình có thể cất thêm thiền đường. Thiền đường thì chưa cất được vì mình xây cất nhiều quá nên vượt khỏi quy định cho phép của chính quyền. Do đó có thêm đất thì mới có thêm diện tích được phép xây cất. Vì vậy thiền đường hiện giờ quá nhỏ vì thiền đường hồi xưa là nhà ăn nhưng vì Thầy bị đột quỵ, mình nghĩ thiền sinh không tới đông nữa nên sửa tầng trên của nhà ăn thành thiền đường rộng hơn.

Ở Làng Mai Thái mỗi năm có hai khoá tu cho người Việt: khoá tu Tết (mồng 2, mồng 3 và kéo dài tới mồng 7, mồng 8) và khoá tu Mùa Hè (từ 25, 26 tháng 6 tới 2, 3 tháng 7). Ngoài ra còn có các khoá tu xuất gia gieo duyên cho con nít Thái (7 ngày) và người lớn (3 tháng). Một khoá tu nói tiếng Anh dành cho cư sĩ Đông Nam Á được tổ chức mỗi cuối năm. Một khoá tu nữa dành cho người Thái cũng được tổ chức. Ngoài ra cũng có các khoá tu không định kỳ dành cho thầy cô giáo, giới y khoa, doanh nhân… có khi tổ chức trong tu viện, có khi tổ chức ở bên ngoài. Mỗi tháng mình cũng tổ chức ngày quán niệm ở Bangkok cho phật tử Thái ở đó.

Ngoài ra Làng Mai Thái cũng tham dự tổ chức khoá tu hàng năm cho Indonesia, Philippine, Mã Lai… và tham gia các sự kiện của trường Đại học Maha Chulalongkorn.

Người trụ cột ở Thái Lan là sư cô Linh Nghiêm. Sư cô Linh Nghiêm là người Thái tốt nghiệp đại học và làm giám đốc chương trình Liên Hiệp Quốc Phát triển và Cứu trợ người Lào của Liên Hiệp Quốc. Khi gặp pháp môn của Thầy thì sư cô thích quá nên xin xuất gia. Sư cô rủ mấy sư cô Làng Mai qua Thái để hướng dẫn khoá tu. Lâu lâu sư cô dẫn được năm, bảy người làm khoá tu và báo chí có khen nhưng mình vẫn không cắm rễ được ở Thái.

Tuy Thầy đã được chính quyền mời về nước nhưng thấy tình hình chính trị Việt Nam còn khó khăn nên sư cô Linh Nghiêm đề nghị chọn bên Tu viện Bát Nhã chừng năm em xuất gia nam và năm em xuất sĩ nữ đi Thái học tiếng Thái và thăm dò tình hình nếu cần sẽ lập thêm Làng Mai ở Thái Lan. Khi chuyện Bát Nhã xảy ra, Thầy ra lệnh cho sư cô Linh Nghiêm tìm cách giúp đón và cho tá túc nhà các bạn Thái ở Bangkok trong khi chờ đợi Thầy tìm giải pháp. Mỗi ngày có khi hơn 20 em bay qua Thái từ nhiều ngả nên Bangkok cũng không đủ chỗ. Sư cô Linh Nghiêm mới nghĩ tới căn nhà nghỉ mát của gia đình mình.

Gia đình của cô Linh Nghiêm giàu, có một căn nhà ở nhà quê và hai mẫu xoài nên cho mấy thầy mấy sư cô ở đậu. Thấy nam nữ xuất sĩ ở chung như vậy không tiện, một người bạn của ba mẹ sư cô Linh Nghiêm ở cách đó 3 cây số có một căn nhà bỏ không nên bác cho mấy sư cô ở tạm. Bác tên là bác Buôn Lư.

Nhà của mẹ sư cô Linh Nghiêm cho mấy thầy ở tạm. Mấy thầy dựng một thiền đường bằng lá, vài căn nhà bằng lá để ở. Sàn thiền đường thì mấy thầy đóng đầy đinh vì không phải thợ mộc chuyên nghiệp. Ngồi thiền xong đứng dậy thì có thể bị đinh móc rách quần như không, nên mấy sư cô gọi đùa là thiền đường Hội Ngàn Đinh. Nhà bác Buôn Lư thì tốt hơn, tuy cũ nhưng mấy sư cô ở cũng được. Chỗ đó là nhà quê nên còn trăn, còn rắn nhưng mình sống hài hoà nên không có vấn đề gì xảy ra. Những ngày tháng đó các thầy các sư cô cực lắm. Làm việc miết tới giờ cơm mà ra không kịp thì còn hết cả cơm ăn vì nhà bếp còn tạm bợ, nồi to cũng chưa có để nấu đủ đồ ăn. Chân Không nhớ năm đó có các thầy từ Pháp qua Thái, Chân Không dặn mua quà tặng các sư em đang làm việc ở Thái thì ra siêu thị, hỏi mua quà gì thì các sư chú chỉ lựa hàng trăm gói mì gói thôi, để mỗi khi làm việc xong mà lỡ hết đồ ăn thì có mì gói ăn đỡ đói. Mà mua được mì gói chay cũng không dễ vì ở Thái ít người ăn chay, kể cả người tu.

Rồi mình quyết định mua một miếng đất cách đó khoảng nửa giờ lái xe. Đó là một vùng đất đá, một khu rừng phòng hộ mà cây cối giữ nước đổ về Thái Lan trước khi đi vào những hồ nước trong vùng, cho nên đất ở đó rất mắc. Miếng đất chưa tới 40 mẫu giá là 845.000USD, rồi khi mình xây nhà phải tôn trọng sinh môi nên sẽ tốn 4,2 triệu USD. Người ta nói, với hiện tượng hâm nóng khí hậu toàn cầu thì 50 năm sau Bangkok sẽ nằm dưới biển nên dân nhà giàu ở Bangkok chạy lên đây mua đất. Vì vậy cho nên đất ở đây giá mắc như vậy. Cả xứ Pháp mà mình chưa mua miếng đất nào mắc như vậy. Mấy sư cô nói:

“Mình cứ để chư Tổ dẫn dắt thôi. Sư cô cứ ngồi đây đi. Tụi con tổ chức một khoá tu doanh nhân. Sư cô thuyết pháp kêu gọi người ta phát tâm cúng dường.”

Nhưng chưa tới một năm thì chủ đất cho hay, nếu mình không mua thì họ ngưng không bán nữa. Có sáu đại gia hứa đưa vai gánh trước rồi mình sẽ trả lại từ từ. Nhưng không ngờ chỉ ba tháng sau thì người ta đóng góp đủ. Mình có tiền mua, mua xong thì mình tổ chức một khoá tu, nhà chưa có nên mình mướn resort cho mấy ông doanh nhân ở. Khoá tu đầu tiên đó là khoá tu tiếng Việt. Khi sư cô Hoa Nghiêm đi mướn resort để sắp xếp cho 300 người tới tu thì trong khu vực đó không có resort nào đủ chỗ cho cả 300 người cùng ở cả. Nhưng có một ông chủ rất dễ thương, ông để dành cả resort cho mình, lại cho sử dụng các phòng suite để kê thêm tới 12 giường trong phòng mà chỉ lấy giá như phòng thường và bao luôn cả tiền ăn. Hoá ra về sau nghe kể mình mới biết có câu chuyện rất là lạ kỳ. Một đêm ông nằm chiêm bao thấy một người như là thần đất của vùng đó hiện về báo mộng cho ông, sắp tới sẽ có một vị Đại hoà thượng tới vùng này giảng pháp, và còn dặn ông liệu bề lo liệu tiếp đón và chăm sóc cho đàng hoàng, nếu không là không được đâu. Sáng ra ngủ dậy thì có vị nữ tu sĩ là sư cô Hoa Nghiêm tới đặt vấn đề mướn resort mở khoá tu để Thầy của sư cô là một vị Thiền sư nổi tiếng đến giảng. Ông chủ resort sau khi đồng ý cho mình mượn với giá tiền rất dễ thương như thế thì tiếp tục giúp mình đi thương thuyết với các resort xung quanh để đủ chỗ cho mọi người về tu. Resort của ông là lớn nhất, ông dựng một thiền đường ngoài trời che bằng tấm bạt đủ cho hàng nghìn người. Tất cả có bốn resort cùng yểm trợ mình tổ chức khoá tu đó. Lạ kỳ hơn nữa là các vị chủ resort đều được báo mộng như ông chủ lúc đầu, thậm chí một cô nhân viên resort còn bị nhập đồng, có vị nhập vào người cô hiện lên nói cho mọi người lúc đó cùng nghe, là sắp tới sẽ có một vị Đại hoà thượng về ban phước trong vùng. Khoá tu đó hàng nghìn người Việt quy về đây tu tập rất hạnh phúc. Những câu trả lời vấn đáp của Thầy đầy tuệ giác. Tuy khi đó sự kiện Bát Nhã đã xảy ra và mình phải rời Việt Nam, nhưng khi trả lời câu hỏi vì sao mình có đất nước mà phải ra đi, thì Thầy trả lời đầy thương yêu và tin cậy, là bây giờ điều kiện thiên nhiên Việt Nam đang lũ lụt (lúc đó đang lũ lụt trong nước thật), chúng ta dừng chân tu tập ở đây, mai sau này đủ điều kiện, hết lụt lội thiên nhiên ưu đãi chỗ tu ta lại về Việt Nam. Câu trả lời không hề oán trách nhà nước một chút nào sau tất cả những gì đã xảy ra, hẳn nhiên có các ông an ninh ngồi nghe ở dưới cũng thấy tình thương đích thực nơi Thầy.

Sau thành công của khoá tu tiếng Việt đó, Làng tổ chức tiếp khoá tu tiếng Anh. Có một ông người Thái ăn mặc rất bình dân tới nói muốn cúng dường 78 triệu bahts: cỡ hơn hai triệu đô để xây cất trung tâm. Ông làm nghề kinh doanh mền và đã cúng dường rất nhiều mền cho Làng. Thầy hỏi ông tiền cúng dường là của ông hay do ông được thừa kế? Ông nói tiền của ông nhưng ông vẫn đủ tiền để công việc kinh doanh mền của ông tiếp tục sau khi cúng dường cho Làng. Chân Không nghe sư cô Linh Nghiêm thưa thì giật mình, không biết mình có nghe lộn không? Chân Không nói với cô Linh Nghiêm:

“Sư cô theo Thầy xây dựng Làng Mai từ Pháp qua Đức rồi qua Hoa Kỳ, Bắc Mỹ Châu, Canada… cho tới giờ chưa có ai cúng dường số tiền như vậy hết. Chừng nào tiền vô tài khoản của em thì mình mới biết.”

Ai dè một tuần lễ sau thì cô Linh Nghiêm báo:

“Tiền vô rồi Sư cô ơi.”

Nhờ có tiền đó nên vừa có đất xong là mình xây chỗ ở. Mình có hai cư xá nữ và một cư xá nam tại vì bên nam ít người tu hơn.

Làng Mai Thái nằm trong huyện Pakchong cách Bangkok 4 giờ xe taxi, nếu không kẹt xe thì chừng 3-3,5 giờ xe. Ở đó núi rừng bao la rất đẹp, cây cối xanh tươi nhưng mình không được xây cất nhiều tại vì đó là chỗ chứa nước cho cả vùng. Mình chỉ được xây cất 20% diện tích của miếng đất thôi nên mình phải mua thêm đất để xây thiền đường và những cơ sở khác.

Ban xây cất của Thái rất dễ thương, đồng ý đợi đến khi mình mua thêm đủ đất thì sẽ cấp phép xây dựng tiếp theo các bản vẽ đã được một nhóm kiến trúc sư giúp thiết kế và không hối thúc mình phải làm đúng thời gian đã trình xin phép trước đây. Cốc của Thầy ở Làng Mai Thái đẹp lắm, thế dựa vào núi nhìn xuống cánh rừng xa xa, trước mặt là hồ nước nhỏ, yên tĩnh chỉ thoảng nghe chuông gió và tiếng chim hót, mỗi buổi sáng đều thấm đẫm mùi hương của lá.

Làng Mai Thái là một trung tâm tu học mà Làng Mai trung ương không bỏ tiền nhiều: đất thì hoàn toàn do các đệ tử người Thái đóng góp sau khoá tu doanh nhân cho người Thái 845.000USD luôn. Những ngôi nhà của mấy thầy mấy sư cô ở là tiền đóng góp của một doanh nhân Thái. Kể như Trung tâm tu học tị nạn cho xuất sĩ con Thầy. Không ngờ đây là nơi tới tu học lý tưởng cho các Phật tử mới lần đầu tiếp xúc với pháp môn mầu nhiệm của Bụt do Thầy và các sư con trình bày. Vì thế thiền sinh Việt Nam không ngại xin hộ chiếu để có thể đi Bangkok, đi ba giờ xe buýt tới tu học cả tuần. Người này tu học chuyển hoá tánh tình biết điều hơn, vợ chồng lắng nghe nhau hơn nên bà rủ ông, ông khác rủ được vợ con cùng đi. Chưa có chỗ ngủ đàng hoàng thì mình làm những ngôi nhà bằng lá mà hễ có lá thì… có rắn cho nên mình sợ, muốn xây bằng gạch đàng hoàng. Mình tính vay tiền để xây nhà cho những vị khá giả ở Việt Nam muốn qua tu học cho con cái họ trở nên người tốt trong xã hội. Có một số người cho mượn không có lời. Trong một khoá tu có mặt sư cô Chân Không, sau khi Chân Không giảng xong thì có một vị cư sĩ Việt Nam khá giả và theo Phật giáo Tây Tạng tới xin gặp Chân Không nói, khi con gái của cô mất, cô cầu nguyện, niệm Phật mà không hết khổ dù cô cũng đã thuộc lòng Kinh Kim Cương. Cô đó thấy pháp môn “không sinh không diệt đừng sợ hãi” của Thầy hay và đơn giản như vậy nên bàn với chồng muốn cúng dường một số tiền để xây thiền đường cho rộng hơn. Sau mình năn nỉ họ cho mình khoan xây thiền đường mà xây nhà cho cư sĩ tới ở. Cuối cùng thì mình xây được một cư xá ba tầng khá tốt cho cư sĩ. Kỳ này rút kinh nghiệm nên mình xây nhà có tường, có nóc ngói đàng hoàng, giường tầng sạch sẽ, có bàn, có tủ khoá để cất đồ. Một phòng có bốn giường tầng cho tám người, có quạt máy, có nhà vệ sinh bên ngoài cách 5, 7 thước.

Chân Không nhớ bữa đầu tiên Thầy về tới Thái Lan thì Phật tử Việt Nam qua Thái thăm Thầy đông quá thấy rất là thương. Ban đêm, ngoài trời, trên nền đá lởm chởm, người ta làm những cái mùng to 2 thước bề ngang, 10-15 thước bề dài. Giường nằm là các miếng sạp gỗ làm bằng gỗ thông mềm mà nhà thầu xây cất hay dùng để dùng xe xúc khiêng nguyên một mét khối gạch. Trải sạp trên nền đá lởm chởm cho cân bằng. Xong quý thầy mua thêm nệm mousse loại 7cm dày trải lên trên để cô bác nằm ngủ như cá hộp, nửa thước một người, thấy rất tội nghiệp! Lúc Thầy về là tháng 11, trên núi cũng khá lạnh mà Phật tử Việt Nam khắp nơi về đông quá, thấy thương lắm. Các cư xá ni xây thành hình vuông chính giữa xây một thiền đường để các sư cô ngồi thiền khuya mà lúc ni khỏi ngồi thiền trong cư xá, phải đi lên thiền đường lớn. Trong thiền đường đó, các cha mẹ các sư cô cũng giăng mùng nằm đầy. Bây giờ mình cũng chưa dẹp bỏ những căn nhà lá đó tại vì mình có thể dùng khi có những khoá tu quá đông người. Mình vừa báo có khoá tu thì trong vòng vài giờ là đã hết chỗ nên mình cho gia đình của các xuất sĩ được ưu tiên, rồi tới gia đình có con đông cần được giúp đỡ. Mình còn làm khoá tu cho người Thái. Sư cô Linh Nghiêm là người Thái trí thức đầu tiên, sư cô có những người bạn cùng lớp, trong đó có một cô nha sĩ có chị làm bác sĩ khoa ung bướu và một bác sĩ về đường ruột. Họ tới giúp mình vì tình nhân ái và vì tình bạn với sư cô Linh Nghiêm chứ không biết về giáo lý. Mình tặng họ mấy cuốn sách của Thầy, họ đọc thấy hay, bắt đầu sửa đổi tính tình và trở thành con người dễ thương. Họ thọ Năm giới rồi từ từ thọ Mười bốn giới. Tụng giới mỗi hai tuần, tu học tinh chuyên.

Ở Bangkok có một bệnh viện tư nhân thượng thặng tên Bumrungrad. Những người giàu có ở các nước Phi Châu hay Ả Rập đều tới bệnh viện đó trị bệnh. Tiền bệnh viện rất mắc, mắc bằng các bệnh viện sang trọng bên Pháp nhưng cách trị bệnh cũng thuộc đẳng cấp cao. Bên Thái có cái hay là bệnh viện bớt 15% cho người tu. Các bác sĩ trị bệnh cho mình cúng dường không lấy tiền công nên mình chỉ trả có 10% tiền chi phí bệnh viện. Các bác sĩ ở đó rất giỏi, ví dụ một sư cô bỗng nhiên mất khẩu vị, cô không còn hứng thú ăn cơm nữa. Cô thử máu mình thì thấy mình thiếu chất DHEA và Zinc (kẽm). Cô uống thêm hai chất đó và ăn lại được rất ngon.

Nhưng Làng Mai Thái phát triển nhanh nhờ các Hoà thượng lớn của MCU ủng hộ Thầy hết lòng và cho phép Thai Plum Village như đối tác của Maha Chulalongkorn University.

Đúng ra thì mình phải thành lập trường đàng hoàng mới được làm cộng tác viên với trường Đại học Phật giáo Maha Chulalongkorn (MCU). Các vị viện trưởng, phó viện trưởng đều rất thích Thầy mình nên lập một Thiết kế đối tác giữa hai Đại học, một bên là Viện đại học Phật giáo Hoàng gia và một bên là Trường Cao đẳng Phật học Làng Mai. Thầy Nhất Hạnh đã dạy những khoá tu Mùa Đông rất có lớp lang nên mình có thể dựa vô đó. Trong 24 khoá tu Mùa Đông, Thầy đã dạy đầy đủ kinh, luận, luật. Vì vậy nếu so với các thầy của MCU thì trường Làng Mai không thua. Thầy khám phá ra kinh A Di Đà không phải được sáng tác sau này mà căn cứ trên một kinh Nam tông, trong đó Phật hỏi: “Ai tu giỏi và muốn lập một đạo tràng thích hợp với căn cơ của mình?”, thì có một thầy nói: “Mai sau con sẽ lập một đạo tràng có hoa sen đỏ, trắng, xanh, vàng nở thật to. Có những cây khi có gió thổi qua thì thuyết pháp.” Thầy nói, bây giờ mình đang thực hiện việc mà khi có tiếng chuông thỉnh lên thì mình dừng lại để tiếp xúc với hiện tại mầu nhiệm. Thầy cũng dạy rõ kinh Hoa Nghiêm, kinh Kim Cương xuất phát từ kinh nào của kinh Nam Truyền chứ không do một số thầy sáng tác và cho là lời Bụt dạy cho Long Vương hay Bụt dạy cho mẹ là phu nhân Ma Da ở cung trời Đao Lợi… Những điều dạy của Thầy rất khoa học, rất hợp với cái thấy mới về nhân chủng học chứ không cần phải tin một cách mê tín.

Thầy cử thầy Pháp Anh, một xuất sĩ trẻ trong nhóm đầu tiên được xuất gia ở Việt Nam làm trụ trì chùa Làng Mai Thái Lan. Thầy Pháp Anh có anh là thầy Pháp Lâm, em là sư cô Lộc Nghiêm, và mẹ là sư cô Toại Nghiêm đều cùng tu hết ở Làng Mai. Nhà của ba anh em và mẹ đã cúng cho Làng Mai của Thầy luôn rồi, có tên là Bây Giờ. Làng Mai Thái không chỉ có xuất sĩ người Việt mà còn có người Thái, người Trung Quốc, người Nhật tới tu.

Diệu Trạm

Khi xây Diệu Trạm thì có một bà Phật tử người Singapore quốc tịch Mỹ, là giáo sư của Đại học Havard giúp đỡ. Ngày xưa, bà đã cho 45.000USD để xây chùa Diệu Nghiêm và cho thầy Chí Thắng 45.000USD để xây chùa Phước Thành. Lần này bà cho 150.000USD để xây Diệu Trạm. Diệu Trạm không phải là chùa mà chỉ là ni xá cho các sư cô, trực thuộc chùa Từ Hiếu. Sổ đỏ đứng tên một sư cô nhưng mình cũng đưa cho thầy Giám tự của Từ Hiếu. Mấy sư cô tu hành đàng hoàng và được quý thầy bên Từ Hiếu giúp đỡ rất nhiều mặt. Diệu Trạm thật sự trở thành một phần của ni chúng ở Huế và là chỗ duy nhất mà các sư cô mặc y phục màu nâu và chít khăn nâu. Bây giờ đi chợ Đông Ba các sư cô không bị hỏi là có phải từ miền Bắc vào hay không mà các cô các dì ngoài chợ đều biết là từ Diệu Trạm. Tuy nhiên để hoà đồng nên các sư cô cũng mặc đồ lam khi đi tham dự một buổi lễ nào đó với ni bộ cũng như các thầy Làng Mai ở Từ Hiếu cũng đắp y hậu vàng trong một sự kiện nào đó.