Lễ Xuất Gia Cây Hồng Táo (Jambu) ngày 06.03.2024

Ngày 06/3/2024, Tăng thân Tu viện Vườn Ươm – Làng Mai Thái Lan chào đón sáu Sư chú mới. Từ nhiều năm nay, mỗi đợt xuất gia đều được Sư Ông và Tăng thân gọi là một gia đình xuất gia. Cây Hồng Táo (Jambu), tên của gia đình xuất gia đợt này, là hình tượng cội cây được nói đến trong tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng, khi Thái tử Tất Đạt Đa ngồi lại sau khi vui chơi với các bạn và bắt đầu cảm nhận sự lắng dịu tâm ý đầu tiên.

Sau thời gian thực tập tập sự xuất gia tại Tu viện, được hướng dẫn nếp sống thiền môn, sáu bạn trẻ phát tâm dũng mãnh cầu xin được thọ giới Sa-di, chung bước trên con đường tỉnh thức, thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày, đem lại niềm vui tự thân, gia đình, và xã hội. Được sự cho phép của Tăng thân, các vị tập sự trẻ tuổi trình diện trước bốn chúng trong buổi Lễ Dẫn Thỉnh và sau đó là Lễ Xuất Gia được tổ chức tại Thiền đường Voi Trắng. Quý vị phụ huynh và thân hữu cũng đã có mặt để yểm trợ cho giờ phút huyền thoại.

Trong không khí trang nghiêm, các giới tử quỳ xuống tiếp nhận Mười Giới Sa-di, y của Bụt, và Điệp hộ giới, chính thức trở thành những người con của Tăng thân và hoà cùng dòng chảy trong gia đình tâm linh. Pháp tự của các Sư chú mới là Chân Nhất Nghĩa, Chân Nhất Dung, Chân Nhất Tín, Chân Nhất Xứ, Chân Nhất Hạo, và Chân Nhất Lộ. Các Sư chú thuộc thế hệ 44 của Tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của Thiền phái Liễu Quán.

Là những người trẻ với nhiều thao thức về nếp sống giải thoát, hạnh phúc, vững chãi, thảnh thơi, các Sư chú mới biểu lộ tình thương và lòng biết ơn đến gia đình, nuôi lớn niềm tin vững chắc vào con đường thực tập đi như một dòng sông cùng Tăng thân, và truyền cảm hứng thực tập cho không biết bao nhiêu bạn trẻ. Chẳng những đây là tin vui cho các Sư chú, cho gia đình và bè bạn, mà cả Tăng thân và khắp cả mười phương đều hoan hỷ chào đón những vị xuất sĩ trẻ thật tinh anh.

“Sáng nay cạo sạch mái tóc.

Mở thêm rộng lớn con đường.

Phiền não vô biên nguyện đoạn.

Một tâm mà động mười phương.”

(Trích từ bài thơ “Mở thêm rộng lớn con đường” của Sư Ông Làng Mai)

Kính mời Đại chúng thưởng thức một vài hình ảnh đẹp đón chào những vị xuất sĩ trẻ!

Trân trọng!

Thầy và em bé

(Tâm An)

Thầy kính thương,

Những khoảnh khắc xúc động vẫn còn đó trong con, dù những ngày chúng con được cùng nhau có mặt trong các sinh hoạt xuất sĩ trong lễ Đại tường Thầy đã qua. Con muốn kể cho Thầy nghe một chút niềm vui của con trong buổi talkshow (chương trình trò chuyện) của các sư em. Con bước lên thiền đường và nhìn thấy bức hình Thầy ngồi thiệt tự tại với cái micro trên tay, mắt nheo nheo và cười rất thoải mái, lòng con đã rộn vui rồi. Mặc dù đêm qua con gởi cho sư chị con bức hình đó, nhưng sáng lên tới thiền đường nhìn bức hình thật to còn vui sướng hơn nữa Thầy ạ. Mà bức hình đó Thầy đang giới thiệu điều gì về quý tôn đức mà Thầy cười thích thú lắm kìa.

 

 

Lúc sư chị con mời đại chúng cùng nghe chuông và tự viết xuống chữ gì đi lên khi nghĩ về Thầy. Thầy có biết con đã đi lên chữ gì không ạ? Chữ “tâm lý” và “chịu chơi”. Con thấy Thầy là người thầy chịu chơi nhất quả đất, và cũng là người thầy vô cùng tâm lý với các đệ tử. Từng đứa học trò đến với Thầy, Thầy đã dùng “chiêu thức” khác nhau để thu phục, để thương yêu, để sách tấn, để có mặt và nâng niu, có lúc Thầy rất nghiêm, rất cứng rắn, thật dứt khoát, dù chỉ qua một ánh mắt thôi cũng đủ rồi. Nhưng Thầy luôn biểu hiện như một người Ông thương yêu, dịu dàng, chiều chuộng, lân mẫn, có lẽ lúc con về Làng là lúc Thầy đã giao phó trọng trách chăm em cho các sư anh, sư chị lớn để Thầy được làm Ông thưởng thức nét ngơ ngơ của các sư bé thôi.

Con nhớ hoài cái ánh mắt cười vui của Thầy, diễn tả sao cho đủ trong ánh mắt ấy lộ rõ nét tinh nghịch, hồn nhiên, thích thú và con vui lắm mỗi khi bắt gặp nét vui cười trong ánh mắt ấy của Thầy, Thầy ạ.

Thầy có còn nhớ có một mùa Đông, ngày xuất sĩ ở Sơn Cốc, hôm đó Thầy nằm võng sau vườn và chúng con thì xúm xít chơi quanh Thầy. Lần đó ban cắt cỏ sau ngày chấp tác thì dồn đất thành một cái ụ cao cao. Qua một mùa Đông thì rau ngứa mọc quanh ụ đất ấy. Ai nghe tới rau ngứa cũng e ngại vì sợ nó ngứa. Mà nó ngứa thật. Thầy bảo hái rau ngứa phải chánh niệm và chú tâm vào động tác hái mới không bị ngứa. Con đã thử nghiệm sau đó nhiều lần và nó hiệu nghiệm thật. Rau ngứa nấu canh thì ăn rất ngon. Ngày xuất sĩ hôm ấy Thầy đã gọi sư chị T.N ra và bảo “con làm thiền lăn đi con” rồi chỉ khoảnh cỏ chỗ có cái ụ đất ấy. Các anh chị em con được phen cười ngon và thưởng thức pháp môn thiền lăn mới của Thầy. Hồi tưởng lại chuyện ấy con mới thấy Thầy con rất ư là chịu chơi.

Trong buổi talkshow, có sư em nghĩ tới Thầy và nghĩ tới từ “em bé”, vì sư em có rất nhiều em bé bên trong, mỗi đứa một tánh, sư em đã mời từng đứa đi thời khoá và nhẹ nhàng giới thiệu pháp môn thiền ngồi, thiền ăn cho tụi nó. Sư em đã đối diện, đã chăm sóc em bé bị “ghẻ lạnh” bên trong mình, và đồng thời sư em cũng chăm sóc em bé bị “ghẻ lạnh” bên trong mẹ của sư em nơi sư em. Lần đầu tiên ngồi nghe sư em của mình thẳng thắn chia sẻ em bé bên trong, đối diện và chăm sóc em bé ấy, Thầy ơi, lòng con tràn ngập vui sướng. Con vui vì thế hệ của các em rất can đảm đối diện, gọi tên, và chơi được với từng em bé rất nhỏ, rất thơ trong mình.

Sư em nói “không có sự chuyển hoá nào mà không đi qua nước mắt”. Con cũng đồng thời nhận ra “không có niềm hờn tủi, cô đơn, khổ đau nào mà không có phương pháp chữa trị, chăm sóc. Không có em bé nào bị bỏ lại phía sau”. Chỉ cần một chút thời gian, không gian, một chút thương yêu, lân mẫn, từng em bé đều sẽ được chăm sóc đến.

 

 

 

Thầy kính thương!

Con nhận ra rằng trong con có một em bé rất mong manh, rất sợ bị hiểu lầm, bị nghĩ khác. Con ngồi yên và nhớ lại tuổi thơ con từng bị hiểu lầm. Tuy con đã từng trình bày là con không làm như thế nhưng con vẫn bị ba đánh trước mặt người lạ. Từ đó, hễ ai hiểu lầm con, một nỗi sợ hãi âm thầm vẫn đến với con, dù sau này con biết sẽ không ai đánh con nữa. Ngay cả khi lớn lên, vào chùa, mỗi khi bị hiểu lầm, con vẫn rất sợ hãi, có lúc con rất cần giải thích, cần phân minh. Rồi dần dần lớn lên, con không còn muốn làm việc ấy nữa. Thế nhưng, nỗi ám ảnh khi bị người khác hiểu lầm vẫn đeo bám con. Con biết, đó là sự tự tôn của bản thân. Nhưng đó cũng là một cái gì rất “tự ái” âm thầm chi phối bên trong mình. Con nhớ con từng đọc được một câu thế này: “Kẻ sĩ Việt Nam nếu đạt đến tầm quốc sĩ đều nên lấy quốc sỉ làm trọng”. Con chợt nghĩ đến tu sĩ nếu thiếu đi tu sỉ thì sẽ không phân biệt được điều gì nên làm và không nên làm, nhưng nếu để tu sỉ làm điều quan trọng thì dần dà sẽ mất đi phẩm chất quan trọng của một tu sĩ đích thực, có phải không thưa Thầy?!

Con nhớ những ngày tháng của năm 2009-2010, khi nhiều biến cố xảy ra với tăng thân, có huynh đệ đã từng hỏi Thầy rằng: “Vì sao Thầy biết về Việt Nam sẽ xảy ra như vậy mà Thầy vẫn về, vẫn xây dựng tăng thân?” Con nhớ lúc đó Thầy chỉ im lặng, rồi Thầy dạy ban biên tập trang nhà đăng câu chuyện Chàng trai khờ dại, Thầy cũng cho chúng con đọc tập truyện ấy. Thầy bảo: “Chàng trai trong câu chuyện thương cô gái nên hy sinh đôi mắt cho cô gái, dù biết khi mắt sáng, cô gái sẽ phụ chàng. Khi mình thương một cái gì, một điều gì, hay thương một ai thật lòng thì tình thương ấy vô điều kiện, không tính toán, thương chỉ là thương thôi”. Và Thầy nói “Thầy thương quê hương như vậy đó”. Thầy ơi, con biết vì con chưa thương con, con cũng chưa thương người kia đủ nên con mới sợ bị hiểu lầm, sợ bị nghĩ sai, mới cần phải giải thích này kia,… 

Con cũng nhận ra rằng trong con có một em bé mà hễ nhắc đến Thầy là nó tự động phát khởi thương yêu, tự động mềm nhũn ra, tự động long lanh và ấm áp. Và cũng hễ nhắc đến Thầy là em bé ấy cũng giống như Phù Đổng Thiên Vương – vươn vai, oai hùng, là chiến sĩ đầy nhiệt huyết. Và cũng hễ nhắc đến Thầy thì em bé ấy cũng như Tý, như Thạch Lang, quấn quýt và huyên thuyên kể chuyện bên chân Thầy vậy đó.

Buổi talkshow để lại trong con nhiều ấn tượng, nhưng hôm nay con chỉ kể Thầy nghe chuyện đó thôi, con để dành thư sau Thầy ạ.

Thương kính Thầy,

Con của Thầy.



Thầy Đây

(Chân Xuân Linh Sơn – Chân Xuân Tản Viên)

Châu báu chất đầy thế giới

Tôi đem tặng bạn sáng nay

Một vốc kim cương sáng chói

Long lanh suốt cả đêm ngày. 

Chúng con đáp chuyến bay về lại Sài Gòn sau năm ngày an trú nơi chốn Tổ Từ Hiếu cùng tăng thân tứ chúng trong lễ Đại Tường của Thầy. Hành trang mang theo là nguồn năng lượng chánh niệm vô cùng hùng hậu của hàng ngàn con người trong mấy ngày cùng nhau thực tập hơi thở bình an và bước chân tỉnh thức, sống với nhau trong sự hiểu biết và thương yêu. Trong tâm con lúc này vẫn còn vang vọng hai chữ “Thầy đây” (I am here) khi thăm Phòng thở, khi nghe pháp thoại hay lúc ngắm nhìn bức thư pháp như một món quà trong dịp Đại tường. Nhớ ngày xưa con đã từng chấn động khi được Thầy chỉ dạy mấy câu thần chú, trong đó có câu “I am here for you”. Con hay nói với các bạn nhỏ và với cả các thầy cô giáo câu thần chú này trước khi bắt đầu khai giảng khoá học, hay trong buổi chia sẻ định hướng cho môn học, hoặc trong thời khoá hướng dẫn tổng quát cho những khóa tu dài ngày. Chỉ cần thực tập trở về theo dõi hơi thở, thân tâm hợp nhất và bật ra câu thần chú “I am here for you” thì con đã mang lại cho chính con và cộng đồng món quà quý nhất. Đó chính là sự có mặt hay còn được gọi là năng lực hiện diện có công năng chế tác niềm vui sống, khả năng lắng nghe sâu để cải thiện các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày.

 

 

Hai năm trôi qua, một mặt con vẫn thực tập ý thức “đám mây không bao giờ chết” nhưng mặt khác vẫn cho phép mình gọi tên, chấp nhận và ôm ấp những cảm thọ đau buồn thương tiếc đến Thầy. Con đã dũng cảm bước ra khỏi vùng an toàn và bắt đầu bước đi trên những con đường vô cùng gập ghềnh và đầy ắp những khó khăn, chướng ngại. Có lúc cảm giác thất vọng, buồn tủi đi lên trong con bởi con nhận ra rằng bản thân thật đơn độc. Nhưng cũng nhờ biết quay về với hơi thở, quay về nương tựa hải đảo tự thân cho nên con đã thực tập tự vực dậy và tiếp tục cuộc hành trình. Và trong những lúc ấy, con nhận ra Thầy khẽ gọi “I am here for you”.

Những ngày về chốn Tổ con đã thấy “Thầy đây” qua dòng chảy tăng thân khắp nơi hội tụ về. Từ tăng thân xuất sĩ cho đến tăng thân cư sĩ, người Việt Nam và cả nước ngoài. Con nhìn ra rất nhiều gương mặt thân thương. Những dáng hình, nụ cười bước chân và giọng nói hoặc đã gặp từ lâu, hoặc mới biết nhau hay cũng có người chưa thấy lần nào. Không có nhiều thì giờ và nhân duyên để chào hỏi hết thảy, để tay bắt mặt mừng trong chén trà tao ngộ nên cũng đã có lúc con cảm thấy trong lòng có chút chộn rộn lao xao đi lên. Cũng may chốn Tổ thênh thang trong tiết trời lành lạnh dễ chịu giúp con nhanh chóng trở về hơi thở bình an, sáng bước qua cổng tam quan ngồi ngắm hồ bán nguyệt, chiều thiền hành qua tháp chuông ngồi an trong thiền đường Trăng Rằm. Và rồi trong con vỡ oà khi bước vào Phòng thở, ngồi xuống trong góc phòng mà không nói năng chi, nước mắt chỉ chực trào, nhìn dòng chữ “Thầy đây” mà xốn xang bao kỷ niệm. Ôi sao thân thương quá kệ sách đơn sơ giản dị của Thầy trong những năm tháng lập Làng, rồi đôi guốc, chiếc nón quê hương, và cả cuốn sách Trái tim của Bụt, cùng nhiều tác phẩm khác, là tâm huyết và tuệ giác Thầy trao,…

Trong lòng con dâng lên niềm thương chi lạ khi nghe chia sẻ của tăng thân xuất sĩ trong đêm tưởng niệm Thầy. Với con, Thầy vĩ đại không phải chỉ dừng lại ở những công trình tu tập hay kinh sách. Với con, Thầy vĩ đại bởi công trình xây dựng tăng thân, “công trình ngàn năm nhưng ngàn năm đã hoàn tất”. Dòng chảy tăng thân, tình thầy trò, tình huynh đệ dẫu có buồn có vui, dẫu có lúc lên lúc xuống nhưng lại là chất liệu nuôi dưỡng tâm bồ đề kiên cố. Những học trò xuất gia của Thầy, cũng như những học trò tại gia dù đi đâu hay dưới bất kỳ hình tướng nào cũng quay trở về dưới mái chùa Tổ thắp nén tâm hương dâng lên Thầy. Ai cũng ý thức rõ tiếp nối Thầy không phải là một việc cao siêu khó với tới mà chỉ cần buông xuống cái tôi nhỏ bé, sống đời sống thật sự tự do, xoá tan phân biệt và thoát khỏi não phiền. Con đã gặp và mừng vui muốn khóc khi nhìn thấy hình bóng của những vị xuất sĩ và cư sĩ là học trò lớn của Thầy đã có mặt trong lễ Đại Tường mà cũng thương luôn cả những vị vì lý do sức khoẻ mà không thể trở về hoặc đã về mà không thể có mặt. Pháp thân của Thầy là dòng chảy tăng thân, và công trình mà Thầy đã xây dựng đó cho con niềm tin lớn mạnh đối với Tam Bảo. Càng có niềm tin, con càng thấy rõ đường đi lối về rộng mở thênh thang. 

 

 

Nước mắt lăn dài trên gương mặt con khi nghe chư Tôn đức xướng tụng trong lễ Tiến linh tại thiền đường Trăng Rằm. Bài Sám quy mạng vang vọng chốn Tổ đình, từng lời Tâm kinh Tuệ giác qua bờ như hải triều âm chấn động từng viên sỏi cành cây trong lòng Từ Hiếu. Hàng ngàn học trò cùng niệm danh hiệu Bồ tát Quan Thế Âm và thiền hành quanh khu tưởng niệm trà tỳ nhục thân của Thầy hai năm trước ở công viên Vĩnh Hằng. Xin nguyện tiếp nối bằng sự thực tập để đền đáp ân sư cũng như là để nhận ra “Thầy đây” trong mỗi phút giây trở về. 

Kính tri ân Thầy

 

Thắp sáng hiện hữu

(Thầy Làng Mai)

Đây là đoạn trích từ cuộc phỏng vấn do Jo Confino thực hiện với Thầy tại thất Da Cóc, Sơn Hạ vào năm 2012. Lúc ấy Jo là phóng viên của báo The Guardian, Vương quốc Anh. Bản ghi âm cuộc phỏng vấn đã bị thất lạc một thời gian và gần đây đã tìm lại được. Quý vị có thể nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh trên Plum Village Podcast “The Way Out is In” số 41, phát thanh vào ngày 21 tháng 3 năm 2023.

 

 

Jo Confino: Thưa Thầy, trước tình hình biến đổi khí hậu và môi trường thiên nhiên bị tàn phá như hiện nay, nhiều người vẫn có vẻ thờ ơ và chưa muốn hành động gì cả. Thầy nghĩ gì về điều này?

Thầy: Thực ra, họ không hành động không chỉ đối với vấn đề biến đổi khí hậu mà còn đối với nhiều vấn đề khác. Họ có nhiều vấn đề cá nhân như liên hệ với chính tự thân, với người khác và với gia đình, nhưng họ đâu làm gì để cải thiện những mối liên hệ này.

Nếu chúng ta đòi hỏi họ phải làm gì cho môi trường thì có thể hơi quá, trong khi họ chưa làm gì cho những vấn đề cấp thiết của chính họ. Họ sợ phải đối diện với khổ đau, với các vấn đề của chính mình. Mà nếu vậy thì làm sao họ đủ sức để nghĩ tới nỗi khổ của đất Mẹ hay của môi trường? Vậy nên nhiều người có thái độ thờ ơ. Họ sợ. Họ không muốn nhìn thấy sự thật.

Jo Confino: Một khi họ thấy được sự thật thì chuyện gì sẽ xảy ra thưa Thầy?

Thầy: Khi họ nhìn ra sự thật thì có thể đã quá trễ để hành động. Đúng vậy, có thể là quá muộn màng. Những người như anh muốn thức tỉnh họ, nhưng có thể họ không muốn thức tỉnh vì sẽ phải đối diện với khổ đau. Vì vậy họ sẽ tiếp tục đắm chìm trong giấc mơ. Họ không đủ mạnh để đối diện với sự thật. Điều đó không có nghĩa là những người này không hay biết chuyện gì đang xảy ra. Họ chỉ không muốn nghĩ đến nó. Họ cố tình bận rộn để quên đi. Đâu phải vì họ thích làm những gì họ đang làm nên mới bận rộn, họ cần bận rộn để khỏi phải nghĩ tới thực tại.

Jo Confino: Thầy có nghĩ mọi người chờ đến khi có một thảm hoạ thực sự xảy ra thì mới thức tỉnh hay không? Hay lúc đó có khi họ còn trốn chạy nhiều hơn? Thầy nghĩ điều gì có thể giúp tạo ra sự thay đổi?

Thầy: Nếu anh chỉ cho họ thấy sự thật, thí dụ cho họ xem một cuốn phim, hay cái gì đó làm bằng chứng để thuyết phục họ là tình hình đang rất cấp bách, họ sẽ bỏ ra một ít thời gian để xem. Nhưng sau đó, họ sẽ trở lại y như cũ, bởi vì họ không muốn nghĩ đến nó. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ không đủ thông minh để biết chuyện gì đang xảy ra.

Tôi nghĩ cũng có một vài cách để thức tỉnh họ, như chỉ cho họ thấy có một thực tại khác. Cho họ thấy một người vui vẻ, hạnh phúc, biết sống thảnh thơi. Người đó không cần có nhiều tiền hay quyền lực mới hạnh phúc. Ta có thể giúp họ trải nghiệm một chút những hạnh phúc như vậy. Nếu họ nếm được hạnh phúc của sự thư giãn và bình an thì may ra họ sẽ thay đổi. Họ sẽ thấy theo đuổi tiền bạc, quyền hành là không đáng. Ta nên đem họ tới một nơi có nhiều hạnh phúc, cho họ gặp những người có hạnh phúc thật sự. Đó là cơ hội cho họ, bởi vì họ nghĩ rằng không có con đường nào khác ngoài con đường họ đang đi. Phải chỉ cho họ thấy những người hạnh phúc như vậy để họ được thức tỉnh.

Jo Confino: Thầy cũng có nói về đức vô úy, về cái dũng. Điều gì có thể giúp người ta có đủ dũng khí để đứng ra làm một điều gì đó cho dù có thể bị đe dọa đến sự an thân của mình?

Thầy: Một người có dũng khí để đứng lên khi người đó có đủ từ bi. Từ bi là một năng lượng rất hùng tráng. Không có từ bi, ta không thể làm gì được. Có lòng từ bi, người ta có thể chết vì người khác, như người mẹ có thể chết vì con của mình. Từ bi chỉ có mặt khi ta thấu hiểu được khổ đau. Từ bi được sinh ra từ tuệ giác. Tuệ giác đó có được khi ta đi qua khổ đau và hạnh phúc. Ta sẽ có đủ cái dũng để làm, để nói mà không sợ bị mất một cái gì cả. Ta không sợ mất danh vọng hay địa vị, bởi ta biết đó không phải là nền tảng của hạnh phúc. Nền tảng của hạnh phúc chính là hiểu và thương. Cho nên nếu ta có tuệ giác đó, và ta sống với tuệ giác đó thì không có gì để sợ nữa. Nhưng nếu ta còn sợ mất danh vọng, địa vị, nhà cửa, … ta sẽ không có can đảm để hành động. Nếu ta đã từng có hạnh phúc, như hiểu và thương, ta biết rằng hạnh phúc không đến từ những điều kiện bên ngoài. Ta biết hạnh phúc đến từ cái thấy nội tâm. Ta biết cách tạo nên hạnh phúc và biết nhận diện những điều kiện thật sự của hạnh phúc mà ta đang có. Và ta không còn sợ hãi nữa.

Jo Confino: Thưa Thầy, đâu là cách truyền thông hay nhất để có thể thật sự tạo nên sự thay đổi trong quảng đại quần chúng mà không phải chỉ trong một vài người?

Thầy: Là một nhà báo, anh có thể viết một quyển sách về nghệ thuật tiêu thụ, bởi vì hàng ngày người ta dùng tiền để mua rất nhiều thứ. Anh có thể sử dụng một loại ngôn ngữ giúp người ta thức tỉnh để thấy những cái người ta mua không thể làm cho họ thực sự hạnh phúc.

Rất nhiều người mua sắm để che lấp khổ đau. Điều đó không giúp gì được cho họ, bởi vì khi đêm đến, những thứ trong lòng trồi lên làm cho họ khổ sở và tự giam mình trong địa ngục do chính họ tạo ra. Cho nên ta cần chỉ cho họ cách tiêu thụ và tiêu thụ cái gì, để họ có thể được chữa lành và có thêm bình an, thương yêu.

Khi thiền hành, chúng ta tiêu thụ thời gian. Trong bối cảnh của nền văn minh hiện đại, đi như vậy là phí thời giờ. Bạn chẳng làm gì cả, không nói, không suy nghĩ, chỉ đi thôi. Đó là một sự phí phạm thời gian. Thời gian là tiền bạc. Nhưng đối với chúng ta, đó là một sự tiêu thụ có ích, bởi vì chúng ta cho phép thân và tâm được nghỉ ngơi, thư giãn. Chúng ta tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, với những yếu tố tươi mát và trị liệu trong mỗi bước chân. Đó là một sự tiêu thụ có ích lợi. Sau nửa giờ thiền hành như vậy, ta cảm thấy tươi mới và khỏe khoắn. Điều đó không cần phải có nhiều tiền mới làm được. Không cần tốn kém gì cả. Chúng ta không phản đối chuyện tiêu thụ như vậy.

 

 

Cho nên ta cần chia sẻ cho họ cách đi từ bãi đậu xe đến nơi làm việc. Đi như thế nào để mỗi bước chân có thể phục hồi sự bình an, niềm vui và tình yêu cuộc sống trong họ. Giúp cho họ làm thế nào để dừng suy nghĩ.

Jo Confino: Rất nhiều người mất sự kết nối giữa cuộc sống của họ và những điều ảnh hưởng đến cuộc sống ấy. Thí dụ như khi mua một cái gì đó, họ không biết nó đến từ đâu, cũng không biết ai đã sản xuất nó và những người sản xuất đó sống ra sao. Họ thật sự bị cách biệt với thế giới xung quanh. Và họ không thấy được rằng bất cứ điều gì họ làm cũng có ảnh hưởng đến thế giới. Thầy có nghĩ rằng người ta sống mà bị mất kết nối như vậy là một vấn đề hay không?

Thầy: Chính vì thực trạng đó cho nên trong quyển sách “Nghệ thuật tiêu thụ”, ta có thể chỉ cho họ cách ăn: nghệ thuật ăn. Thay vì suy nghĩ và nói nhiều trong khi ăn, người ta tập dừng lại để ăn cho đàng hoàng. Nhìn vào thức ăn, tiếp xúc với miếng cà rốt, với phân bón, với nước, với mưa, với nắng. Tiếp xúc với đất Mẹ. Ăn như thế nào để có thể tiếp xúc được với sự sống, với gốc rễ của mình. Đó là thiền tập. Và thiền tập rất dễ chịu. Người ta vốn đã có một thói quen ăn uống cho nên ta phải chỉ cho họ một cách ăn khác để họ có thể thấy được làm thế nào một miếng cà rốt có mặt trong bữa ăn của họ. Trước khi bắt đầu ăn, ta đọc Năm lời quán nguyện. Nhưng sự quán chiếu phải kéo dài trong suốt bữa ăn chứ không phải chỉ lúc bắt đầu mà thôi. Khi dừng lại mọi suy tư, ta nhai mỗi miếng thức ăn trong ý thức đó, tiếp xúc với thức ăn và phát khởi lòng biết ơn. Chừng nào còn biết ơn, chừng đó ta còn hạnh phúc.

Sáng nay lúc tôi lạy xuống, tôi không lạy như một cá nhân. Tôi thấy cả hai dòng tổ tiên tâm linh và huyết thống. Tôi thấy tôi là một với tăng thân tứ chúng. Và tôi lạy xuống như một tăng thân đông đảo mà không phải là một cá nhân. Tôi không thấy mình là cái ngã riêng biệt mà là cả dòng họ tổ tiên.

Khi tôi lạy xuống trước Bụt, tôi không thấy Bụt là một cái ngã riêng biệt mà là sự tiếp nối của cả một dòng tâm linh bất tận. Cho nên ta có thể thấy được gốc rễ của Bụt trong nhiều thế hệ. Trong khi lạy xuống như vậy, ta có được tuệ giác vô ngã. Người ngồi trước mặt của bạn chính là một vị đại sứ. Người ấy có mặt không như một cá nhân. Người ấy đại diện cho cả dòng họ tổ tiên, cho đất nước, dân tộc của mình. Cho nên bạn cần tập nhìn người thương, bạn bè của mình như những vị đại sứ của cả dòng họ tổ tiên. Và bạn xá xuống trước họ: “Xin chào ngài đại sứ”. Nhìn được như vậy bạn sẽ có thể liên hệ với người đó với lòng kính trọng và nể phục, bởi vì trong họ có những tài năng và đức hạnh của rất nhiều thế hệ. Bạn không nói với người ấy như một cá nhân. Bạn nói chuyện với người ấy với lòng kính trọng bởi vì trong người ấy cũng có một vị Bụt. Đó là cách để nhìn mọi người.

Một cây thông được làm bởi rất nhiều thế hệ, có cả trăng, sao trong đó. Cho nên bạn xá xuống trước một cây thông. Đó là một hành động văn minh, một lối sống đẹp. Nếu bạn học theo lối sống đó, bạn không cần ai nhắc nhở trong việc chăm sóc môi trường. Bạn có thể tự làm được. Đó chính là tuệ giác có được khi bạn thực hành vô ngã. Chúng ta sống cuộc sống hàng ngày với những trải nghiệm như vậy. Khi đó những gì chúng ta nói hay viết đều có thể chạm đến trái tim của người khác. Bởi vì chúng ta viết từ tuệ giác của chính mình mà không phải lấy từ ý của người khác. Vì vậy viết quyển sách “Nghệ thuật tiêu thụ” cũng chính là một sự thực tập. Những người sản xuất ra sản phẩm cho chúng ta tiêu thụ, và chúng ta, những người mua các sản phẩm đó, tất cả chúng ta đều cần học cách tiêu thụ.

 

 

Jo Confino: Theo Thầy, những nhà hoạt động xã hội nên làm gì? Thầy nói rất đúng là việc đầu tiên họ phải làm là chế tác hạnh phúc cho chính họ. Nhưng về phương diện hành động, ta phải làm thế nào để lên tiếng chống lại áp bức và bất công xã hội? Có cách nào để làm việc đó với sự bình an và lòng quyết tâm?

Thầy: Các vị xuất sĩ Làng Mai an cư ba tháng mỗi năm, và trong mùa an cư, mỗi tuần sẽ có một ngày dành riêng cho tăng thân xuất sĩ. Chúng tôi ý thức rằng nếu chúng tôi không thể là chính mình, không đủ tình huynh đệ và hạnh phúc thì những điều chúng tôi làm sẽ không có ý nghĩa gì cả. Chúng tôi tổ chức ngày xuất sĩ để nuôi dưỡng chính mình và nuôi dưỡng tăng thân, rồi từ đó chúng tôi mới có thể cống hiến những khóa tu và những ngày chánh niệm ở nơi này nơi khác.

Chúng tôi thấy rõ là chúng tôi không nên đánh mất mình trong công việc. Nếu không, những gì chúng tôi cống hiến sẽ không phải là “hàng thiệt”. Vấn đề không phải ở chỗ làm nhiều việc, mà làm việc một cách chân thật. Không nên có mặc cảm là mình chưa làm đủ trong việc giúp người, giúp đời mà nên bảo đảm là khi làm gì thì làm đàng hoàng, đúng mức. Được như vậy chúng ta sẽ an tâm, bởi vì bất cứ cái gì chúng ta làm cũng đều đem lợi ích cho mọi người, ngay cả khi chúng ta đơn giản chỉ ngồi thiền hoặc đi thiền.

Nếu bạn đi thiền cho đàng hoàng, bạn sẽ được nuôi dưỡng và trị liệu trong mỗi bước đi. Không chỉ tổ tiên trong bạn được lợi lạc, mà thế hệ tương lai cũng được lợi lạc. Không làm được điều đó, ta sẽ không thể làm được điều gì ích lợi cả. Vậy nên mỗi bước chân là sự hành trì căn bản. Mỗi hơi thở, mỗi buổi ngồi thiền đều phải có phẩm chất nuôi dưỡng và trị liệu. Thậm chí bạn chỉ làm một việc nhỏ thôi, thí dụ như tổ chức một ngày quán niệm, nếu bạn làm hết lòng và hạnh phúc thì bạn cũng đồng thời làm tất cả mọi việc khác rồi. Cho nên, bất cứ việc gì bạn làm cho chính bạn một cách đàng hoàng, bạn cũng đồng thời làm việc đó cho tất cả mọi người. Đó là cách tôi thực tập. Bạn không cần phải mặc cảm là bạn chưa làm đủ. Điều này rất quan trọng.

Tôi nghĩ để góp phần làm nên một sự tỉnh thức tập thể, chúng ta cần vận hành như một cộng đồng, như một tăng thân. Các nhà báo cũng cần có tăng thân để chia sẻ nỗi khổ niềm đau, khó khăn, hạnh phúc, hy vọng và thành công của họ với nhau. Đây là một điều rất quan trọng. Điều này rất rõ ở Làng Mai: không có tăng thân, chúng tôi không thể làm bất cứ việc gì có ý nghĩa. Cho nên nương tựa tăng thân là một điều căn bản.

Một doanh nhân sản xuất ra những sản phẩm không lành mạnh thì người ấy không giúp gì được cho chính mình, cũng không giúp được cho khách hàng. Ta muốn ông ấy thay đổi. Nhưng làm sao để thay đổi đây? Có rất nhiều cách. Một trong những cách đó là tới gặp ông và nói rằng ông có thể hạnh phúc hơn, thư giãn hơn. Ông có thể sống một cuộc sống không quá bận rộn, hối hả như vậy. Ông có thể buông thư hơn và có nhiều niềm vui hơn. Ông không cần phải chìm ngập trong lo lắng, giận dữ, … Đó là một cách.

Cách thứ hai là khuyên bạn bè nên tiêu thụ dựa theo Năm giới. Tại sao bạn phải mua những thứ đó? Chúng ta cần những loại sản phẩm làm chúng ta khỏe mạnh hơn. Nếu khách hàng có sự tỉnh thức thì người sản xuất sẽ phải thay đổi. Nếu không thì việc làm ăn không thể kéo dài. Cho nên, chúng ta buộc nhà sản xuất phải thay đổi bằng cách không mua những thứ chúng ta không cần. Tôi có thể sống khoẻ mà không cần đến các loại máy móc điện tử. Tôi có nhiều thời gian hơn cho chính mình và cho tăng thân nhờ không sử dụng quá nhiều các loại máy móc điện tử này. Chúng ta có thể sống khỏe mà không nhất thiết phải có ti-vi, thậm chí không cần cả điện thoại hay báo chí. Chúng ta đâu cần phải xem chương trình thời sự mỗi ngày, có khi cả hai lần mỗi ngày. Bao giờ mấy tờ báo đăng những tin nuôi dưỡng thì chúng ta sẽ mua báo. Vì vậy có rất nhiều cách. Tôi nghĩ nếu chúng ta vận hành như một tăng thân và chúng ta làm việc với những người hoạt động ở cấp cơ sở thì sự thay đổi có thể bắt đầu ở đó. Không cần phải thuyết phục những người ở cấp cao nếu việc đó quá khó khăn.

Thánh Gandhi có khả năng kêu gọi người dân tẩy chay nhiều thứ, và ngài biết cách tự chăm sóc cho mình. Ngài biết là trong quá trình tranh đấu bất bạo động, ngài cần phải chăm sóc chính mình. Ngài nói với vợ là: chúng ta cần phải thực tập phạm hạnh trong thời gian này. Chúng ta cần tập thở và bảo tồn năng lượng vì đây là một cuộc tranh đấu khó khăn. Ngài biết tất cả những điều này, làm sao để bảo tồn năng lượng vì cuộc tranh đấu kéo dài. Cho nên sự thực tập tâm linh rất cần thiết trong quá trình hoạt động nhằm góp phần thay đổi xã hội.

Chúng ta cần tổ chức cuộc sống của mình như thế nào để có thêm bình an, thư giãn và trị liệu mỗi ngày. Ta cần những người bạn đồng tu và cần có tăng thân. Ý tưởng đem các nhà báo đến với nhau như một tăng thân để có được tuệ giác tập thể và tìm ra cách làm việc rất là quan trọng. Ở Làng Mai, chúng tôi cần các thầy, các sư cô cùng làm việc với nhau. Chúng tôi cần yểm trợ nhau, nếu không sống cùng nhau như một tăng thân, chúng tôi không thể làm gì được cả. Chúng tôi không thể phụng sự, theo nghĩa tích cực nhất của từ “phụng sự”.

Jo Confino: Làm sao người ta có thể nhìn ra thế giới một cách bình thản khi có quá nhiều khổ đau như thế? Chiến tranh xảy ra khắp nơi, không thấy có dấu hiệu hòa bình. Nếu tình trạng biến đổi khí hậu càng lúc càng trầm trọng thì khổ đau sẽ vô cùng khủng khiếp. Có cách nào để duy trì sự bình an của chính mình khi đứng trước những điều đang xảy ra chung quanh như thế?

Thầy: Theo tôi, chúng ta cần thay đổi quan niệm về thời gian. Đối với chúng ta, thời gian là một cái gì đó hữu hạn. Nhưng đối với đất Mẹ, nếu có tổn thương gì, đất Mẹ sẽ có khả năng tự chữa lành. Nếu cần, đất Mẹ có thể để ra hàng trăm triệu năm để phục hồi. Với chúng ta, thời gian ta ở trên trái đất chỉ có khoảng 100 năm, cho nên chúng ta không có sự kiên nhẫn.

Tôi nghĩ chúng ta có một cộng nghiệp. Sự vô minh tập thể của loài người, sự giận dữ và bạo động của loài người có thể sẽ dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong. Chúng ta phải học chấp nhận điều đó. Biết đâu đất Mẹ sẽ cho ra đời một thánh nhân trong một vài thập niên tới và vị ấy sẽ dẫn đường cho chúng ta tránh khỏi tai ương. Không thể biết trước được. Đất Mẹ rất tài ba. Người đã cho ra đời các vị Bụt, Bồ tát và đại nhân. Cho nên, hãy nương tựa nơi đất Mẹ, phó thác cho đất Mẹ, cầu xin đất Mẹ hãy chữa lành và yểm trợ chúng ta.

 

 

Chúng ta phải tập chấp nhận để chuẩn bị tinh thần cho điều xấu nhất có thể xảy ra, đó là loài người sẽ hầu như bị diệt vong cùng với nhiều loài khác. Sau vài triệu năm, đất Mẹ sẽ có khả năng đem chúng ta trở lại lần nữa, hy vọng lúc ấy chúng ta sẽ khôn ngoan hơn. Chúng ta rất thông minh, nhưng chúng ta chưa học được cách hành xử khá hơn. Mà đầu tiên là học cách yêu thương đất Mẹ.

Khi chúng ta thực tập chánh niệm, nhìn vầng thái dương trong khi thiền hành, quán thân trong thân, chúng ta sẽ thấy mặt trời có trong ta. Không có mặt trời thì cũng không có sự sống. Thấy được như thế, lập tức chúng ta tiếp xúc với mặt trời rất khác. Mối liên hệ giữa ta và mặt trời thay đổi. Mặt trời ôm ta như một người cha ôm con. Đó chính là sức mạnh của chánh niệm: làm phát sinh tuệ giác. Trước đó, ta thấy mặt trời như một cái gì đó rất xa xôi, không liên hệ gì mấy tới ta. Trên thực tế, mối liên hệ đó vô cùng sâu sắc. Ta là đứa con của mặt trời. Ta từ mặt trời mà sinh ra.

Điều này cũng đúng với đất Mẹ. Ta đi như thế nào để có thể thấy được mối liên hệ giữa ta và đất Mẹ vô cùng sâu sắc, và đất Mẹ có trong ta. Đây không phải là một điều khó thấy. Nó dễ hơn rất nhiều so với triết học. Nếu ta có thể đi như thế, mối liên hệ giữa ta và đất Mẹ sẽ thay đổi một cách vô cùng mầu nhiệm.

Khi ta có thể cảm được đất Mẹ ở trong ta, ta là đất Mẹ, khi đó ta không còn sợ cái chết nữa, bởi vì đất Mẹ không bao giờ chết. Ta có thể sẽ được sinh ra trở lại dưới một hình thức khác hay hơn, đẹp hơn. Giống như một con sóng vậy. Một con sóng biến mất và xuất hiện trở lại. Làm sao con sóng có thể chết được? Đó là tuệ giác phát sinh khi mình có liên hệ tốt với đất Mẹ. Tôi không nghĩ chỉ các triết gia mới có thể cảm được những điều như vậy. Ai trong chúng ta cũng có thể thấy được mối liên hệ đó.

Jo Confino: Cám ơn Thầy rất nhiều vì đã dành thời gian quý báu cho cuộc phỏng vấn này.

 

 

 

Lễ xuất gia Gia đình cây Hồng Táo (Jambu Tree) 06.03.2024

Sáng ngày 06/03/2024 tại thiền đường Voi Trắng – Tu viện Vườn Ươm, Làng Mai Thái Lan đã diễn ra buổi lễ xuống tóc xuất gia và truyền thọ giới Sadi cho 6 sư chú mới trong gia đình cây Hồng Táo. Các sư chú đều là người Việt Nam và đặc biệt có duy nhất một sư chú người Trung Quốc trong gia đình này.

Giữa tiết trời xuân, thiên nhiên nơi núi rừng Khao – Yai đang trở mình, thay áo mới sau một mùa đông ngủ yên. Những hạt giống lành thiện, tỉnh thức trong những người con trai lành cũng được đơm hoa, kết trái. Để giờ đây quỳ trước Tam Bảo, trước Thầy, trước tăng thân cầu xin được xuất gia, sống nếp sống của những người xuất sĩ – nếp sống đơn giản, thanh bình. Buổi lễ được diễn ra trong không khí trang nghiêm, hùng tráng với sự hộ niệm của quý thầy, quý sư cô và gia đình huyết thống của các em. Đại chúng ngồi thật yên, trở về với hơi thở để chế tác năng lượng chánh niệm và cùng đồng thanh xướng tụng bài “Đầu cành dương liễu” trong giây phút quý thầy lớn làm lễ xuống tóc cho các giới tử.

 

 

Thầy Pháp Ứng đã xướng bài kệ “Nước này vốn sẵn tám công đức. Rửa đi trần cấu của muôn loài…” trước khi làm lễ tẩy tịnh cho các giới tử. Từng giọt nước cam lộ, thanh lương rưới lên mái tóc xanh như gội đi những phiền muộn, những vấn vương, tiếc thương quá khứ để bắt đầu lại một con người mới. Nguồn năng lượng mát mẻ, đầy tình thương thấm vào trong lòng mỗi giới tử và làm toát lên sự nhẹ nhàng, thanh thoát, sáng ngời trên từng gương mặt của các giới tử.

Tâm bồ đề của các giới tử thêm dũng mạnh phi thường trong giờ phút long trọng của sự tiếp nhận giới pháp: “Xin các vị giới tử lắng nghe, mười giới sa di là cửa ngõ lớn đưa vào đại chúng những người xuất gia, làm nền tảng cho giới lớn Ba la đề mộc xoa sau này…”. Với mỗi giới tướng được tuyên đọc, các giới tử lạy xuống trước Tam Bảo, cung kính tiếp nhận để hành trì trong đời sống xuất gia mà suốt đời nguyện đi theo.

Sau khi được tiếp nhận mười giới sa di quý báu, các vị giới tử đã được chính thức gia nhập vào đoàn thể của những người xuất gia. Các vị sa di thêm được khích lệ về sự may mắn được sinh làm người, được gặp Bụt, được đi trên con đường hiểu biết và thương yêu và được tham dự vào đời sống của tăng đoàn. Đó là những điều kiện quý báu, các vị sa di mới được nhắc nhở để trân quý thời gian và tuổi trẻ mà chuyên cần trong sự tu học.

Sau khi đảnh lễ Tam Bảo, các sư chú mới được tiếp nhận y của mình với tất cả sự trân trọng và niềm vui mừng:

“Đẹp thay áo giải thoát

  Áo ruộng phước nhiệm mầu

  Con cúi đầu tiếp nhận

  Đời đời nguyện mang theo”

Gia đình xuất gia cây Hồng Táo gồm các sư chú: Chân Nhất Nghĩa, Chân Nhất Dung, Chân Nhất Tín, Chân Nhất Xứ, Chân Nhất Lộ. Các sư chú thuộc thế hệ truyền thừa thứ 44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Liễu Quán.

Cây Hồng Táo – tên của gia đình xuất gia, là một hình ảnh được nhắc đến trong tác phẩm “Đường xưa mây trắng”. Trong ngày đi dự lễ cày ruộng đầu năm, sau khi chơi đùa cùng các bạn và cảm thấy nóng bức, Thái tử Tất Đạt Đa đã ngồi dưới bóng cây Hồng Táo im mát và ngồi yên chăm chú vào tâm ý. Đó là giây phút đầu tiên, Thái tử cảm nhận sự lắng dịu thân tâm.

Vào buổi chiều, đại chúng đã có buổi thiền trà để mừng đón sự biểu hiện của các sư em gia đình cây Hồng Táo. Các sư chú mới bày tỏ niềm biết ơn với tăng thân, quý thầy và đặc biệt là vị Y chỉ Sư đã dạy dỗ, dìu dắt trong những tháng ngày thực tập còn nhiều bỡ ngỡ. Và cũng chia sẻ niềm hạnh phúc khi được gia nhập vào gia đình áo nâu. 

 

 

Trong buổi sáng sớm hôm đó, thầy Trời Nguyện Ước đã hướng dẫn các giới tử trình diện trước Tam Bảo, dâng lên tăng thân lời thỉnh nguyện xuất gia của mình. 



Khóa tu mùa Hè cho người Việt tại Làng Mai – Pháp 2024

Khóa tu diễn ra trong ba tuần, từ ngày 9/7 – 01/08 năm 2024 tại chùa Sơn Hạ, xóm Thượng, Làng Mai – Pháp. 

Khóa tu được diễn ra trong vòng 3 tuần và được mở ra cho người lớn, thanh thiếu niên và nhi đồng. Khoá tu Tiếng Việt lần này sẽ mở ghi danh cho khoảng 50 người. Kính mời quý vị trở về thực tập cùng với tăng thân.

 

 

Đây là dịp để chúng ta trở về để được nuôi dưỡng tâm hồn trong nếp sống văn hóa tâm linh của người Việt. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, chúng ta có quyền được sống thảnh thơi, hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nếu quên, các bạn sẽ được nhắc nhở qua tiếng chuông, qua hình ảnh thong dong của quý thầy, quý sư cô hay của các bạn đồng tu. Các bạn sẽ bắt gặp lại những hình ảnh thân thương một thời đã qua như: hình ảnh các cháu thiếu nhi chơi đùa hồn nhiên trong vườn chùa, trên bãi cỏ làm người lớn cũng muốn tham gia cùng. Những trò chơi dân gian như: nhảy sạp, ô ăn quan, nhảy dây, kéo co, các trò chơi vòng tròn trong buổi chiều làm biếng. Những buổi chấp tác làm thức ăn chung của các ba mẹ, anh chị như không khí nhà sắp có giỗ.

Các bạn cũng được đi thiền hành trên những con đường huyền thoại trong xóm, có những hàng tùng xanh mát in dấu chân của Sư Ông và hàng trăm ngàn thiền sinh trên thế giới về đây thực tập trong hơn bốn mươi năm qua. Những buổi ngắm bình minh tại cốc Ngồi Yên hay hoàng hôn tại ngôi nhà thờ cổ tại làng Puyguilhem gần Sơn Hạ đều có thể là những giây phút mầu nhiệm mà sự sống ở đây ban tặng cho chúng ta.

Mỗi tuần, chúng ta sẽ được đi đến một xóm của Làng, như xóm Hạ, xóm Mới hay xóm Thượng để cùng hòa chung vào năng lượng tập thể của một Tăng thân quốc tế. Chúng ta sẽ được tham dự những thời khóa như ngồi thiền, tụng kinh, thiền hành, thực tập làm mới, thiền buông thư và ăn cơm trong chánh niệm…, ngoài ra còn có những buổi sinh hoạt vấn đáp, thiền trà, lễ Trung thu và Bông hồng cài áo.

Để đăng ký tham dự tuần đầu từ ngày 09-16.07.2024. Vui lòng truy cập vào đây.

Để đăng ký tham dự tuần thứ 2 từ ngày 17-24.07.2024. Vui lòng truy cập vào đây.

Để đăng ký tham dự tuần thứ 3 từ ngày 25.07-01.08.2024. Vui lòng truy cập vào đây.

Mọi thắc mắc xin gởi về email: Lh-office@plumvillage.org. 

 

 

Làm sao để nhanh đi vào giấc ngủ nếu hôm sau phải thức dậy sớm?

Trích buổi vấn đáp tháng 5 năm 2014 tại xóm Hạ, Làng Mai (được chuyển ngữ từ tiếng Anh)

Câu hỏi từ một em thiếu nhi: Làm thế nào có thể nhanh đi vào giấc ngủ nếu hôm sau phải dậy sớm?

Sư Ông Làng Mai trả lời:

Cố gắng đi vào giấc ngủ cho nhanh chưa hẳn là một điều tốt. Khi cố gắng ta phải nỗ lực, cho nên càng cố gắng ta sẽ càng khó ngủ. Do đó hãy để cơ thể ta được thư giãn. Và, tốt hơn là hãy đừng suy nghĩ, đừng suy nghĩ về ngày mai hay về những việc ta phải làm. Nếu ta cứ nghĩ về những việc ta phải làm vào ngày mai thì ta sẽ thức suốt đêm. 

Không suy nghĩ là một bài thực tập cực kỳ quan trọng trong thiền tập. Vì suy nghĩ nên ta không ngủ được (và vì không ngủ được nên ta lại càng suy nghĩ). Cho nên không suy nghĩ là tốt. Để dừng suy nghĩ, ta có thể tập trung sự chú ý vào hơi thở vào và hơi thở ra. Ta thở vào và chỉ tập trung tâm ý vào hơi thở vào. Thở ra, ta tập trung tâm ý vào hơi thở ra.

Ta có thể sử dụng mẹo nhỏ này: đó là trên bàn ngủ ta có thể để một chiếc đồng hồ nhỏ, không phải đồng hồ điện tử mà là loại đồng hồ cổ điển. Nó tạo ra tiếng tích tắc, tích tắc đều đều. Ta có thể lắng nghe âm thanh của chiếc đồng hồ và đo độ dài hơi thở bằng âm thanh đó. Thường thường, hơi thở vào của ta có thể dài ba hay bốn giây “Tích, tắc, tích, tắc”, và khi thở ra, hơi thở có thể dài năm hay sáu giây. Chỉ cần nằm xuống, lắng nghe âm thanh của chiếc đồng hồ; thở vào, thở ra, và dừng tất cả suy nghĩ. Thở rất là dễ chịu, nếu không khí đủ tốt. 

 

 

 

Nếu không có đồng hồ, ta có thể dùng một bài hát để thở. Tuy nhiên ta không cần phải dùng miệng để hát mà chỉ dùng tâm trí, vì bài hát đã sẵn có trong ta. Thí dụ như bài hát “Đã về, đã tới – Bây giờ, ở đây”. Tất cả mọi người ở Làng Mai đều thở và khắc ghi bài hát đó trong tim. Có rất nhiều bài hát để thực tập nhưng “Đã về, đã tới” là bài hát phổ biến nhất. 

“Đã về, đã tới

Bây giờ, ở đây

Vững chãi, thảnh thơi

Quay về nương tựa.”

Đó không phải là suy nghĩ mà hững từ ngữ là để giúp ta tập trung tâm ý vào hơi thở. Sau khi thở theo bài hát đó vài lần, giấc ngủ có thể tới rất dễ dàng. 

Đó là cách Sư Ông thực tập. Sư Ông dùng những bài Thiền ca. Chúng đã sẵn có ở đó, giống như có một cái CD bên trong vậy. Muốn nghe bài nào, ta không cần phải nhấn nút mà chỉ cần sử dụng một loại tâm hành gọi là Manasikara (tác ý). Khi ta tiếp xúc với nó bằng tâm ý, âm thanh sẽ hiện ra; và ta thở vào thở ra cùng âm thanh đó. 

Cách thực tập này sẽ giúp rất nhiều cho người lớn. Người nào suy nghĩ nhiều quá thì nên thực tập như vậy. Ta có thể học thuộc nhiều bài Thiền ca và chỉ cần buông thư khi thở vào, thở ra theo bài hát lúc không ngủ được.

Trong khi lái xe, thay vì suy nghĩ, ta thở vào thở ra với bài hát “Đây là Tịnh độ, Tịnh độ là đây”. Đây là một bài hát khác. Ngoài ra còn bài “Đã về, đã tới”, “Hạnh phúc trong phút giây”, “Mình là chiếc lá trên đầu cành” và rất nhiều bài khác.

Quý vị có thể dùng tất cả những bài hát đó. Vì ta hát từ bên trong nên chỉ mình ta có thể nghe thấy âm thanh của bài hát mà thôi. Hát một câu ta thở vào, câu tiếp theo ta thở ra. 

 



Hạt mầm năm xưa

(Sư cô Chân Trăng Tâm Đức)

Ba mạ kính thương,

Làng đang vào thu, cây cối chuyển màu đẹp lắm ba mạ ơi! Có hôm, khi mặt trời vừa lên, cỏ còn đọng sương đêm, con đi dạo quanh vườn và thấy đất Mẹ thật mầu nhiệm. Đây là mùa thu đầu tiên của con ở Làng, mới đó mà đã mười tháng rồi kể từ ngày con được xuất gia ở chùa Tổ trong lễ Tâm tang của Thầy.

Lúc con mới sang, trời còn lạnh lắm. Có những ngày cỏ cũng bị đông đá , cây cối thì trơ trụi, vậy mà có cây Mimosa vẫn nở hoa vàng rực. Con tích cực tập thể dục cho ấm người mà vẫn thấy lạnh. Rồi trời ấm dần, cây cối bắt đầu ra hoa, ra lá. Đồi mận xóm Mới như được trải một tấm thảm với hàng ngàn hoa bồ công anh và daisy trắng. Những ngày đầu đi thiền hành, con và quý sư cô mới ở Việt Nam sang không nỡ dẫm lên hoa, nhưng hoa khắp lối nên tránh hoa là hết đường đi.

Có hôm chị em con được chở sang Sơn Cốc, nơi ở của Thầy, cách xóm Mới không xa. Trên đường đi, con thấy một rừng tre, bên cạnh là con suối nhỏ. Con thắc mắc, bên Pháp mà cũng có nhà trồng tre như bên Việt Nam ri, té mô đó là Sơn Cốc. Không ai có thể hình dung được căn nhà của một vị thiền sư nổi tiếng thế giới lại giản dị như thế. Nơi đây đã lưu bao kỉ niệm, bao bước chân bình an của Thầy, có lẽ vì thế mà bước chân con cũng chánh niệm hơn.

Con bắt đầu làm quen với cuộc sống xuất gia của một sa di mới một tháng tuổi. Mọi thứ đều mới mẻ với con. Con vô đội luân phiên để làm các công việc hàng ngày như rửa nồi, quét nhà, nấu ăn,… Có sư cô nói con mới xuất gia nên ra chơi với vườn tược cho vui, rứa là con vào tri hoa. Ở nhà, có ba trồng và chăm cây, con chỉ hưởng thành quả là ngắm hoa. Chừ con học cách tỉa hoa hồng, trồng cây, tỉa cành, nhổ cỏ, tưới nước và bón phân. Ba mạ biết không, bên ni cỏ tùm lum loại nên phân biệt được hoa với cỏ cũng là vấn đề. Vườn rộng nên nhiều khi chỗ này làm xong, sang chỗ khác và đến khi quay lại thì cỏ đã mọc lại rồi. Thời gian làm tri hoa mới được sáu tháng, tuy học được chút chút nhưng con đã có rất nhiều niềm vui.

Con được học lớp Giới với các sư chị Sadi khác. Vì con mới xuất gia và không có thời gian tập sự nên lúc mới sang, sư cô đã dạy thêm cho con ba buổi trong tuần, giống như “luyện thi cấp tốc” rứa. Con được học giới luật và uy nghi trong chùa. Hồi ở ngoài, con chạy theo công việc nên chân lúc mô cũng đi nhanh, đầu lúc mô cũng đầy việc, chừ con đang đầu tư thực tập để bước chân được thảnh thơi hơn và cho mình cơ hội để tập dừng lại.

 

 

Lúc con mới sang, cũng là lúc Làng bắt đầu mở cửa lại sau hơn hai năm dịch Covid, nên con dần thích nghi với số lượng thiền sinh đến xóm Mới. Lần đầu tiên trong đời con tham gia nấu ăn cho mấy trăm người. Không khí làm việc vui và hết lòng lắm. Ở nhà mỗi lần có kị, mạ nấu cho hơn năm mươi người là thấy nhiều rồi, chừ nghe nấu cho cả mấy trăm người, chắc mạ cũng tò mò không biết chị em con xoay xở như răng.

Mùa hè, các gia đình đem con tới Làng tu học. Lều lớn, lều nhỏ được dựng lên khắp nơi quanh xóm. Tụi nhỏ có không gian nên tha hồ chạy nhảy. Con nhìn mà nhớ năm đứa cháu ở nhà, mỗi lần gặp nhau là thành năm anh em siêu quậy, rứa mà cuối tuần mô mình cũng ngóng về chơi ba mạ hì. Hôm đó, con chơi xích đu với một bé gái tám tuổi. Con hỏi em tới Làng lần mô chưa, em nói tới ba lần rồi, từ lúc ba tuổi. Ba mẹ em cũng đã tới Làng lâu rồi, trước cả khi em ra đời.

Ở Làng, môi trường Tây phương nên thiền sinh tới từ khắp nơi. Sáng đó con đang rửa dọn, có một cô thiền sinh lớn tuổi từ Đan Mạch tới xin chụp một tấm hình của con. Cô nói nụ cười con làm cô rất hạnh phúc. Con nghe mà xúc động ghê luôn. Con chỉ cười mỗi lần gặp cô trong xóm và thỉnh thoảng ngồi chung bàn ăn cùng cô, chỉ rứa thôi mà làm cô hạnh phúc. Có những thiền sinh sau một hay vài tuần tới Làng, lúc ra về, thấy gương mặt họ giãn ra, nở được nụ cười mà con thấy vui theo.

Ba mạ thương, có lần ngồi yên ở vườn Bụt xóm Mới, con không biết có đang nằm mơ không vì chừ con đã là người tu. Con đã từng mong ước xuất gia cách đây hơn tám năm. Con biết đến Thầy qua sách Đường xưa mây trắng vào cuối năm 2010, hồi đó con nghe Thầy người Huế nhưng ở tận bên Pháp. Mãi đến cuối năm 2013, lúc sang Nhật học, nhờ pháp thoại “Mục đích của đời người” mà con tình cờ được nghe trên Youtube, con mới biết đến Làng.

 

 

Sau vài tháng tìm hiểu, qua Trang nhà Làng Mai, con quyết định viết thư xin Thầy và tăng thân cho con được xuất gia và hồi hộp chờ đợi. Một tuần sau, con nhận được một bức thư dài, cuối thư là “Sen búp tặng con, Sư cô già nhất trong các sư cô – Sư cô Chân Không”. Sư cô nói đã đọc thư của con cho Thầy nghe và Thầy nói Sư cô làm giấy tờ cho con qua Làng để xuất gia vào tháng Bảy năm 2014. Giấy tờ được gửi từ Pháp về Nhật, con đã đến Đại sứ quán Pháp tại Tokyo bốn lần mà hồ sơ vẫn không được chấp nhận vì con đang có học bổng. Đại sứ quán yêu cầu phải có thư của trường ở Nhật đồng ý thì con mới hoàn thành hồ sơ. Lúc đó con giấu hết tất cả mọi người nên không thể có bức thư đó. Sư cô Chân Không tìm mọi cách để con có visa mà không được.

Lúc đó con mới qua Nhật sáu tháng và chương trình học kéo dài bốn năm. Cô giáo sư biết chuyện, câu đầu tiên cô hỏi là ba mạ có biết chuyện này không. Cô tìm mọi cách thuyết phục nhưng con vẫn đòi bỏ học. Cô nói để nhận con, cô phải từ chối mười hồ sơ đến từ các nước khác. Con nghỉ học không có lý do chính đáng sẽ ảnh hưởng đến trường, đến bộ môn, đến cô. Rứa mà con vẫn nhất quyết không nghe, chỉ muốn đi tu. Cô viết email về cho thầy giáo của con ở Huế. Thầy tức tốc lên nhà mình. Thầy nói con mà bỏ học là coi như không còn hợp tác chi giữa hai trường Huế và Tokyo nữa hết, con phải bồi thường rất nhiều tiền. Người ta đi tu để giúp đời, còn con làm kiểu ni là con hại rất nhiều người. Con nghe lúc đó bên nhà hoảng loạn lắm, điện thoại sang liên tục mà con không dám bắt máy. Con biết tình hình ni là không bỏ học được nên con báo tin cho Sư cô Chân Không. Nghe tin, Sư cô buồn nhưng vẫn động viên con tiếp tục học. Nhận thư Sư cô mà con khóc một trận tơi bời.

Con nhớ mãi kỉ niệm lần đầu tiên con được gặp Thầy tại thất Nhìn Xa vào đầu năm 2017. Hành trình bay từ Nhật sang Thái cũng đầy thử thách khi phải thuyết phục cô giáo, rồi đổi vé mấy lần. Cuối cùng con cũng tới được tu viện. Con không biết trong bốn ngày ngắn ngủi với mục đích duy nhất là gặp Thầy có thành sự thật không, vì lúc đó Thầy bệnh sau đêm 30 Tết. Nếu bác sĩ nói Thầy cần nhập viện thì phải đưa Thầy đi ngay. May răng là Thầy không cần đi nữa nên Sư cô Chân Không dẫn con vào gặp Thầy. Vừa thấy Thầy, con khóc như mưa. Thầy gật đầu chào con. Sau khi nghe Sư cô Chân Không giới thiệu về con, Thầy đưa tay lên, Sư cô nói Thầy muốn cầm tay con đó. Rứa là con đến gần bên và ôm lấy tay Thầy. Thầy đã nhìn sâu vào mắt con rồi nhìn bàn tay con thật lâu, chưa bao giờ con tự ngắm bàn tay con lâu như rứa.

Con tiếp tục học, rồi tốt nghiệp, về lại Huế đi làm và vẫn giữ mong ước được làm học trò xuất gia với Thầy. Bốn ngày trước khi Thầy tịch, con được lên kiểm tra răng cho Thầy. Thầy nằm bình an trên giường, dù mệt nhưng vẫn để con kiểm tra. Con ý thức có thể đây là lần cuối được gặp Thầy nên rất trân quý những giây phút ấy. Con ngắm kĩ khuôn mặt Thầy và cùng thở với Thầy. Thầy không mở mắt nhưng dường như mắt Thầy đang nhấp nháy lắng nghe cuộc nói chuyện của con. Cách đây tám năm, Thầy muốn con được qua Làng xuất gia nhưng con chưa đủ duyên. Giờ đây, con được lên thăm Thầy và báo tin con sắp qua Làng tu học như ước nguyện năm xưa.

 

 

Trong nhà, mạ là người ủng hộ con đi tu, mạ nói ở ngoài đời, lấy chồng sinh con khổ quá. Ba không yểm trợ lắm vì muốn con ở ngoài đi làm để giúp đỡ gia đình. Con đã nhiều lần nói chuyện với ba về công việc con làm, xen lẫn những mong ước. Khi thấy các bác Tiếp Hiện làm chương trình Hiểu và Thương, con ao ước ngày mô đó ba cũng sẽ được tham gia cùng các bác. Khi ba nghỉ hưu, mong ước đó đã thành. Ba còn siêng đi sinh hoạt tăng thân, dự ngày Quán niệm. Thỉnh thoảng, mạ đi cùng và luôn ủng hộ ba làm các chương trình. Dần dần, ba yểm trợ cho ước nguyện của con hơn.

Nghe tin Thầy tịch, cả nhà đều thương vì nghĩ rằng con không có cơ hội được làm con của Thầy nữa. Em Ni, bây chừ là sư chị Chân Trăng Hương Bình may mắn hơn khi được Thầy có mặt và nắm tay trong lễ xuất gia ở Thái. Khi nghe con sẽ được xuất gia trong lễ Tâm tang, cả nhà rất mừng. Con chưa bao giờ nghĩ lễ xuất gia của con sẽ có gia đình bên cạnh, rứa mà cuối cùng nhân duyên hội tụ, cả nhà đã có mặt đầy đủ trong ngày con xuống tóc.

Con biết ơn khoa và trường ở Huế đã thương con. Dù con rất thương quý mọi người, nhưng ước nguyện sống cuộc đời xuất sĩ lớn quá nên con không thể tiếp tục con đường kia. Trước khi vô chùa, con cũng đã kịp gửi thư cho cô giáo ở Nhật để báo tin. Con rất vui khi cô nói rằng cô mừng cho con đã được đi con đường mà con mong ước và chúc con tu học có nhiều hạnh phúc. Con biết ơn tăng thân trẻ ở Huế đã cho con nhiều kỉ niệm đẹp, giúp con vun bồi bồ đề tâm. Những đêm trăng tròn đi thuyền cát trên sông Hương cùng các bạn luôn còn mãi trong con. Sau khi xuất gia, con được ở chung với các chị em cây Mimosa hai tuần, tuy ngắn nhưng đầy nuôi dưỡng. Buổi chiều đi chấp tác về, thấy trên bàn học rất nhiều thư và ảnh mà các chị em gửi sang làm con vui cả buổi tối hôm đó. Con mở từng bức thư, xem từng bức hình để nhớ lại những khoảnh khắc ở chùa Tổ. Ngoài sáu chị em con, chừ ba mạ có thêm một đàn con ở chùa nữa.

Ba mạ biết không, hồi ở Nhật, con không nhớ nhà mấy, rứa mà sang Làng, có ai hỏi tới là nước mắt con cứ tuôn ra, chừ thì đỡ hơn rồi. Trong lễ Vu Lan tại Sơn Hạ cho người Việt trong khoá tu mùa hè vừa rồi, mới bắt đầu nghe đoản văn Bông hồng cài áo là nước mắt con đã chảy rồi. Mỗi lần ngồi thiền hay đi thiền có nhiều bình an, con đều gửi đến ba mạ và cả gia đình. Con biết ơn ba mạ đã vất vả nuôi sáu chị em con khôn lớn, cho ăn học đến nơi đến chốn và yểm trợ khi chị em con phát tâm xuất gia. Có thiền sinh hỏi vì răng con đi tu, con nói một trong những lý do chính là con rất thương ba mạ và gia đình mình, chỉ có con đường xuất gia này mới cho con cơ hội báo hiếu ba mạ nhiều nhất.

Sau bao tháng ngày bận rộn với công việc bên ngoài, chừ con được làm sư út của Làng. Con gần bước sang tháng cuối của mùa an cư đầu tiên. Đi theo thời khoá tu học của chúng, cho con cơ hội để dừng lại, để trở về với chính con. Ba mạ biết không, lần đầu tiên con được đại chúng soi sáng, tức là chỉ cho con biết những bông hoa đẹp mà con đang có cũng như có những khuyến khích để con tu học tốt hơn. Con xúc động quá nên khi được quý sư cô soi sáng, nước mắt con cứ chực trào ra. Con cảm nhận rất nhiều tình thương mà đại chúng dành cho con. Con đã bắt đầu có những hơi thở và bước chân bình an hơn mỗi ngày. Có những buổi sáng ngắm mặt trời lên huy hoàng từ đồi mận hay những đêm ngắm bầu trời đầy sao mà niềm vui và lòng biết ơn dâng lên trong con. Con biết ơn vì được làm con của ba mạ, được làm con cháu của gia đình huyết thống bao đời làm nông thuần lành, chất phác. Con biết ơn Bụt Tổ, Thầy và tăng thân cũng như mọi nhân duyên đã cho con được làm người tu. Ở bên ni con khỏe, đang tận hưởng vẻ đẹp mùa thu ở Làng và tu học có nhiều niềm vui nên ba mạ và cả nhà yên tâm. Bên nớ, cả nhà mình giữ sức khoẻ và cùng thực tập vui với chị em con hí.

Thương ba mạ và cả nhà nhiều lắm!

Con gái của ba mạ,
Chân Trăng Tâm Đức

Trở về nguồn cội

(Main Hương, Hồng Anh và Janny)

Đây là bài chia sẻ của ba bạn trẻ Main Hương, Hồng Anh và Janny về khóa tu “Tìm về ngôi nhà đích thực” (2-9.6.2023) tại Làng Mai dành cho người trẻ Việt lớn lên ở nước ngoài. Ba bạn trẻ này đã từng cùng cha mẹ về Làng khi còn ở tuổi thiếu nhi.

Một khóa tu thật khác biệt!

Khi đến Làng Mai tu tập, trong niềm vui gặp gỡ các bạn thiền sinh đến từ khắp nơi trên thế giới, chúng tôi thường mong muốn được kết nối với những người bạn có cùng cội nguồn văn hóa. Trong những khóa tu khác mà chúng tôi từng tham gia, rất nhiều người trong chúng tôi thường có cảm giác không gian ở đó giống hệt như môi trường mà chúng tôi đã sinh sống và lớn lên, nơi mà chúng tôi chỉ là những nhóm thiểu số. Ở trường học hay công sở, nhìn quanh may ra tìm được vài ba người bạn có cùng nguồn gốc văn hóa.

Tháng sáu vừa qua, khóa tu Tìm về ngôi nhà đích thực lần đầu tiên được tổ chức tại Làng Mai dành riêng cho những người trẻ Việt Nam và châu Á lớn lên ở nước ngoài. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhiều người trẻ gốc châu Á cùng tham dự một khóa tu ở Làng như vậy. Khi xung quanh đều là những người đã từng lớn lên với những khó khăn và thử thách vì bị mất kết nối với văn hóa Việt Nam và những kinh nghiệm sống của cha mẹ, chúng tôi cảm nhận một năng lượng thật khó tả. Có một niềm cảm thông sâu sắc mà không cần phải nói thành lời.

Trong bài pháp thoại về bốn yếu tố của tình thương đích thực, sư cô Lăng Nghiêm đã nhắc lại lời dạy của Sư Ông, thương yêu nghĩa là hiểu biết. “Tình thương đích thực thì không có giới hạn, hiểu biết cũng như vậy”. Trong suốt khóa tu, chúng tôi cảm nhận được rằng mình luôn được tiếp xúc với tình thương sâu sắc khó diễn tả thành lời: tình thương vô điều kiện từ quý sư cô, tình thương dành cho cha mẹ và tổ tiên, tình thương đối với gốc rễ mà từ lâu chúng tôi cứ tưởng đã bị lấp vùi, tình thương đối với nền văn hóa dân tộc, và tình thương với chính mình.

 

 

Trong suốt một tuần của khóa tu, chúng tôi được sống trong một môi trường rất bình an, và ai cũng thực tập hết lòng. Mọi hoạt động dù nhỏ cũng trở nên đầy ý nghĩa và linh thiêng. Một lần khi tập trung trước giờ chấp tác, một sư cô mời chúng tôi hát bài Hạnh phúc trong phút giây và dâng tặng bài hát đó cho cha mẹ. Sư cô chia sẻ rằng có thể cha mẹ chúng ta đã không có cơ hội được “dứt hết âu lo”, cho nên khi hát bài này, mình hãy dâng tặng cho cha mẹ sự bình an và thảnh thơi. Nhiều bạn đã xúc động rơi nước mắt.

Năng lượng tập thể và phẩm chất của sự thực tập cũng rất đặc biệt. Quý sư cô có chia sẻ rằng đối với người châu Á, chúng ta đã được tổ tiên trao truyền lại những hạt giống Phật pháp từ nhiều thế kỷ. Vì vậy, dù nhiều thế hệ không thực tập, nhưng chỉ cần một chút tưới tẩm, những hạt giống đó sẽ nảy nở lên như nấm mọc sau mưa. Nhờ có “tâm ban đầu” rất mạnh, cùng những hạt giống của tuệ giác đã có sẵn trong tâm thức, và với lòng biết ơn sâu sắc đối với khoảng không gian đặc biệt mà tăng thân đã dành tặng, chúng tôi đã tới được với nhau và có một môi trường tu tập thật tuyệt vời.

Đôi khi, chúng tôi không nhận ra mình đã mất đi điều gì cho đến khi nó hiện ra ngay trước mặt. Cảm giác được trở về nhà và kết nối với mọi người thật mầu nhiệm. Điều đó nhắc nhở chúng tôi rằng mình không đơn độc trên hành trình trị liệu và chuyển hóa, và chúng tôi có thể tìm được nguồn cảm hứng cũng như sức mạnh nơi những người hiểu mình sâu sắc.

Trở về tiếp nhận gia tài

Rất nhiều người trong chúng tôi là thế hệ con cháu của những người Việt Nam tị nạn vì chiến tranh. Gia đình chúng tôi đã cố gắng làm những gì tốt nhất có thể, trong khi họ vẫn phải đối mặt với những khó khăn, mất mát vì xa quê hương, đồng thời phải tìm cách hòa nhập với xã hội và văn hóa khác biệt ở một đất nước mới. Trong chúng tôi, ý thức về gia tài văn hóa Việt chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, và di sản văn hóa này thường trở thành thứ yếu so với văn hóa ở nơi chúng tôi sinh sống.

Khi xa quê hương, gia đình chúng tôi đã cố gắng hết sức trong khả năng có thể để trao truyền cho chúng tôi về ngôn ngữ cũng như về văn hóa. Sinh trưởng trong xã hội phương Tây, chúng tôi thường bị giằng xé giữa ước muốn hòa nhập với văn hóa Tây phương và ước muốn gìn giữ gốc rễ văn hóa của mình. Kết quả là, chúng tôi thường phải từ bỏ gốc rễ để hòa nhập với môi trường mới. Khi trưởng thành, nhiều người trong chúng tôi cảm nhận được sự mất mát về di sản văn hóa và ngôn ngữ. Chúng tôi mong muốn được kết nối và tìm lại những gì mà chúng tôi đã chối bỏ từ lâu. Vì vậy suốt một tuần của khóa tu tại Làng, chúng tôi đã cho phép mình được ôm ấp, nuôi dưỡng và trị liệu vết thương này trong mình bằng cách chế tác những năng lượng tích cực.

Nhờ được tới với nhau và chia sẻ những kinh nghiệm thực tập trong một môi trường đầy sự hiểu biết và cảm thông, chúng tôi không những được trị liệu cho tự thân mà còn có thể nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, cho dù chúng tôi sống ở những nơi khác nhau. Chúng tôi có thể chế tác được chất liệu từ bi sâu sắc hơn cho bản thân và cả cho cha mẹ, bạn bè. Nhờ vậy, chúng tôi có thể tạo được không gian trong lòng, ôm ấp được niềm đau, tăng trưởng niềm vui để chữa lành quá khứ, trân quý nền văn hóa mà cha ông đã để lại, cũng như trở về vun bồi thêm gốc rễ, cội nguồn trong mỗi cá nhân và cộng đồng.

 

 

Khi cùng ngồi ăn trưa dưới gốc cây sồi, sư cô Định Nghiêm chia sẻ với chúng tôi rằng Sư Ông đã từng giảng một vài bài pháp thoại đầu tiên ngay tại nơi đây. Những người cùng thế hệ cha mẹ chúng tôi đến Làng Mai từ những năm 1980, chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, đã ngồi xung quanh Sư Ông để nghe pháp. Hồi đó, rất nhiều người Việt Nam tị nạn và những người sống xa quê hương đều tìm về Làng Mai, nơi mà họ có thể tìm thấy một chỗ nương tựa về tâm linh cũng như văn hóa. Họ cũng đã góp phần giúp Sư Ông, quý thầy và quý sư cô xây dựng Làng Mai trở thành như ngày hôm nay.

Trong môi trường thiện lành và nuôi dưỡng này, cha mẹ chúng tôi có cơ hội chuyển hóa những vết thương của họ, cũng như cho thế hệ con cháu như chúng tôi được trở về tiếp xúc với cội nguồn dân tộc. Đám trẻ con chúng tôi được học hát và học nói tiếng Việt, được thưởng thức món ăn Việt, và mọi người đến với nhau để cùng cảm nhận rằng mình thuộc về nơi này, tổ ấm ở ngoài tổ ấm.

Giờ đây, sau bốn mươi năm, chúng tôi được ngồi bên nhau dưới cây sồi đó. Sư Ông vẫn còn hiển hiện quanh chúng tôi – khi làn gió tới khiến cành lá rung rinh vẫy chào, hoặc khi chúng tôi bước những bước chân chánh niệm trong khu rừng ở xóm Hạ. Chúng tôi thật may mắn vì vẫn được thừa hưởng gia tài thật đẹp mà Sư Ông và cha mẹ đã để lại. Làng Mai vẫn luôn là nơi mà chúng tôi, cũng giống cha mẹ mình trước đây, được trở về để tiếp tục trân quý di sản văn hóa và trị liệu những vết thương của cha ông. Thật ý nghĩa biết bao!

Chất liệu thương yêu và chuyển hóa

Tiếng Việt được sử dụng trong tất cả các hoạt động của khóa tu, điều này khiến chúng tôi vô cùng xúc động. Đây là lần đầu tiên nhiều người trong chúng tôi được nghe hướng dẫn tổng quát bằng tiếng Việt trong một khóa tu của Làng Mai. Chúng tôi ngay lập tức có cảm giác được trở về nhà khi sư cô Biện Nghiêm và sư cô Thùy Nghiêm chào đón chúng tôi bằng tiếng mẹ đẻ. Quý sư cô chia sẻ bằng tất cả tấm lòng, và vì vậy, đi thẳng vào trái tim chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ thấy nhiều người khóc như vậy trong suốt buổi hướng dẫn tổng quát.

Nhờ nghe những lời hướng dẫn bằng tiếng Việt, chúng tôi có thêm chiều sâu trong sự thực tập. Đặc biệt được nghe tụng kinh bằng tiếng Việt là một trải nghiệm rất hùng tráng không thể nào quên. Chúng tôi được kết nối, khám phá và trải nghiệm văn hóa Việt Nam ở mức độ sâu sắc hơn.

Nhiều người trong chúng tôi là một phần của thế hệ sau chiến tranh, chúng tôi chỉ được tiếp xúc với tiếng Việt trong gia đình. Thường thường ngôn ngữ của cha mẹ có chứa đựng chất liệu của khổ đau và bạo động. Nhưng ở Làng Mai, chúng tôi được tiếp nhận ngôn ngữ với rất nhiều chất liệu bình an và thương yêu. Thật khó nói thành lời tấm lòng bao dung, độ lượng, tình thương và sự ân cần mà quý sư cô dành cho chúng tôi. Trong tiếng Việt, chữ “thương” thể hiện một tình thương sâu sắc và vô điều kiện – đó chính là điều chúng tôi cảm nhận được trong suốt tuần lễ của khóa tu.

Chúng tôi mong rằng khóa tu như thế này sẽ được tiếp tục tổ chức và là nơi những người Việt xa xứ như chúng tôi được trở về ngôi nhà đích thực của mình.

 

 

 

Thầy vẫn luôn là Thầy

(Sư cô Chân Định Nghiêm)

Đối với những người không tu tập, thời gian bảy năm sau cơn xuất huyết não nặng như Thầy có thể là một khoảng thời gian dài vô tận sống trong sự bất lực, buồn tủi và tuyệt vọng. Nhưng với sự thực tu và thực chứng của Thầy, Thầy vẫn luôn là Thầy: chủ động trong mọi quyết định và luôn tiếp tục hướng dẫn chúng con tu tập. Thầy nhắc chúng con thực tập an trú trong hiện tại mà không nhớ nghĩ đến Thầy của quá khứ để tiếc thương hay lo sợ cho tương lai. Nhờ vậy mà chúng con đã được tận hưởng không biết bao nhiêu niềm vui và hạnh phúc cùng Thầy trong suốt bảy năm đó.

Thầy từng dạy chúng con không chỉ thực tập chánh niệm với ý thức mà phải thực tập chánh niệm với cả tàng thức. Từ ngày đầu sống ở Làng, con chưa bao giờ bắt gặp Thầy bước một bước chân thiếu chánh niệm. Với sự thực tập miên mật qua nhiều năm tháng, chánh niệm đã đi theo Thầy vào tàng thức. Trước khi ngã bệnh, Thầy từng kể rằng trong những giấc mơ, Thầy thấy Thầy thiền hành, thưởng thức thiên nhiên hay nâng niu từng chiếc lá kè xanh mơn mởn.

Trong lúc hôn mê do xuất huyết não, Thầy vẫn duy trì hơi thở chánh niệm, không một lần gián đoạn. Sáng hôm ấy, bác sĩ nhìn tấm hình X-quang, lắc đầu và tiên đoán rằng Thầy chỉ còn một hay hai ngày nữa thôi. Thế là các con của Thầy từ khắp nơi tức tốc bay về Pháp để lần lượt được đảnh lễ Thầy lần cuối.

Nhưng các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy mức O₂ của Thầy vẫn cao từ 96% đến 99%. Thầy không cần dùng máy trợ thở mà hơi thở vẫn sâu và đều đặn. Đó là hơi thở nuôi dưỡng. Đó là hơi thở trị liệu. Hai ngày trôi qua, Thầy vẫn nằm yên thở đều và tỏa ra một nguồn năng lượng bình an khó tả, làm cho các bác sĩ và y tá rất thích vào phòng Thầy. Có một cô bác sĩ nội trú thường hay vào phòng Thầy mỗi khi quá mệt mỏi, căng thẳng. Cô cứ đứng nhìn Thầy một hồi lâu, thật yên và buông thư rồi mới đi làm việc tiếp.

Nhiều ngày trôi qua, Thầy vẫn nằm yên thở đều. Các bác sĩ, y tá không làm gì được trong việc chữa trị. Họ chỉ biết theo dõi và chờ đợi. Chờ đợi sự quyết định của Thầy.

Đến đêm thứ tư, bỗng nhiên Thầy mở mắt. Thầy nhìn chăm chú từng thị giả đang bao quanh giường. Động tác Thầy làm tiếp theo là nhấc cánh tay trái lên một cách yếu ớt để xoa đầu thị giả đang đứng gần Thầy nhất. Từ giây phút đó, Thầy chầm chậm ra khỏi cơn hôn mê một cách rõ ràng với ý thức sáng tỏ. Ba ngày sau đó, Thầy nhìn và mỉm cười với các thị giả, vẫn nụ cười quen thuộc tràn đầy thương yêu.

Chỉ hai tuần rưỡi từ khi bị xuất huyết não rồi vào cơn hôn mê, Thầy đã bắt đầu tự tập tay, tập chân một mình trên giường trong đêm. Đúng một tháng sau, hệ thống tiêu hóa của Thầy đã làm việc lại bình thường. Bác sĩ trưởng khoa đã sắp xếp để mỗi ngày, các bác sĩ vật lý trị liệu đến tập với Thầy, tập thể dục với chân và tay, tập ngồi, tập nuốt thức ăn. Sau đó, Thầy được chuyển qua trung tâm phục hồi chức năng của bệnh viện để được tập nhiều hơn: tập phát âm, tập ăn, tập đứng, tập đạp xe đạp, tập điều khiển tay chân một cách khéo léo. Những ngày đầu, y tá đút Thầy ăn. Nhưng vài ngày sau, Thầy không muốn, Thầy đã nắm lấy chiếc muỗng để tự xúc lấy. Mỗi ngày đều đặn, Thầy làm cho các y bác sĩ đi từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Có những lúc Thầy cười ra tiếng thật to, thật vui. Lần đầu tiên thị giả cùng với bác sĩ, y tá đỡ Thầy ngồi dậy, Thầy đã tìm cách ngồi xếp bằng ngay trên giường bệnh. Thầy tiếp tục tập ngồi xếp bằng như thế thêm nhiều lần nữa. Khi thì Thầy ngồi thiền trên tọa cụ đặt ngay trên giường, khi thì Thầy ngồi thiền trên ghế từ 30 đến 45 phút. Buổi tập luyện nào có vẻ bài bản như dành cho con nít, Thầy lắc đầu từ chối ngay, đôi khi Thầy còn bắt tay chào bác sĩ rồi mời bác sĩ rời phòng. Dần dà, Thầy không đi theo chỉ định của các bác sĩ vật lý trị liệu nữa, ngược lại, các bác sĩ phải đi theo Thầy. Ông Rouanet, bác sĩ trưởng khoa, đã tuyên bố khi chứng kiến từng phép lạ xảy ra mỗi ngày nơi Thầy: “Maintenant, je sais que je ne comprends rien au cerveau humain! (Giờ đây, tôi đã hiểu ra rằng tôi chẳng biết gì về não bộ con người!)”.

Một hôm, Thầy quyết định xuất viện. Sư cô Chân Không hoảng hốt! Về lại Làng sẽ không có bác sĩ, y tá bên cạnh, sẽ không còn phòng tập phục hồi chức năng cùng các bác sĩ vật lý trị liệu. Làm sao đây? Nhưng các bác sĩ của Thầy lại không lo lắng gì mấy. Bác sĩ Rouanet còn nói: “Thay a son propre programme” (Thầy có chương trình riêng của Thầy).

Đúng vậy! Về tới Sơn Cốc, Thầy đi thăm lại từng căn phòng, dầu cho phải leo cầu thang dài lên đến lầu trên. Mỗi ngày Thầy đi ngắm từng gốc cây, ngọn cỏ, từng bông hoa hồng. Thầy nằm chơi trên xích đu dưới bóng mát của ba cây tùng mà Thầy thường gọi là “ba sư anh lớn” của chúng con. Thầy đi thăm giàn mướp. Thầy tập đi ngoài trời, đi len lỏi qua cả những cây tre thật xanh mọc chen chúc trong rừng tre. Thấy có một cây hoa sơn thù du (dogwood) mà các sư cô biết Thầy thích và đã mua về còn để trong bọc chưa kịp đem trồng, Thầy liền “chỉ huy” thị giả đào lỗ đúng nơi Thầy chọn, đặt cây con xuống, lấp đất lại và tưới nước cho cây. Thầy còn chỉ cho các thầy, các sư cô trùng tu lại ngôi nhà gỗ cũ kỹ và thuê thợ xây thêm thiền đường ở cuối vườn Nội viện. Mỗi sáng, Thầy còn đi khảo sát công trình nữa chứ.

 

 

Thầy dùng thức ăn mỗi ngày mỗi nhiều hơn, bắt đầu với món táo nấu xay nhuyễn và súp củ quả xay nhuyễn khi còn ở bệnh viện. Về đây, đi ngang qua thấy có trái chanh trên bàn nhà bếp, Thầy liền chỉ trái chanh và muốn nếm lại vị chua thật chua. Rồi Thầy muốn thử đến trái bơ, tiếp đến là muốn dùng cơm, sau đó là bánh mì baguette giòn rụm, rồi đủ các món như phở, bún riêu… Mỗi bữa ăn của Thầy đều là những giây phút bình an và hạnh phúc.

Lâu lâu, Thầy đi quanh bếp, mở tủ lạnh xem có gì trong đó. Có khi Thầy lấy bánh, sữa chua để thưởng thức. Các bác sĩ hẹn gặp lại Thầy trong hai tháng nữa để thẩm định mức độ ăn uống tự nhiên của Thầy và khi nào thì Thầy có thể ngưng dùng các chất bổ dưỡng qua đường ống. Còn đến một tháng trước cuộc hẹn với bác sĩ, Thầy đã lẳng lặng bứt ống ra khỏi rồi cười tủm tỉm một mình mà không cho ai biết.

 

 

Thỉnh thoảng, Thầy đi thăm xóm Mới, xóm Hạ, Sơn Hạ, xóm Thượng và đôi khi ở lại đó nhiều ngày. Thầy không quên dẫn chúng con đi lại trên những con đường tùng thẳng tắp, những con đường huyền thoại của Thầy. Trong lúc đi thăm các thầy đang làm việc trong văn phòng xóm Thượng, Thầy bắt gặp trên kệ một tượng Bụt đứng bằng đồng, chân và thân hình hơi cong, rất nghệ thuật. Thầy ôm Bụt trong lòng đi về cốc, hướng dẫn thị giả dọn sạch chiếc bàn gỗ kê sát tường ngay chính giữa phòng. Trên tường là tấm thư pháp Thầy vẽ vòng tròn. Thầy dạy thị giả dẹp hết đồ đạc trên bàn rồi đặt tượng Bụt lên, một bên trước tấm thư pháp. Thầy còn chỉ thị giả xoay tượng một chút để thấy rõ dáng Bụt đứng hơi cong. Sáng hôm sau thức dậy, Thầy đổi ý. Thầy hài lòng hơn khi tượng Bụt được đặt lại vào ngay chính giữa trước vòng tròn thư pháp. Thị giả pha trà mời Thầy, vừa đặt ly trà tạm trên bàn trước khi dâng lên Thầy là Thầy làm dấu dẹp ly trà ngay, không được đặt bất cứ một đồ vật gì trên bàn Bụt ấy. Mỗi lần thị giả quên là mỗi lần Thầy lại nhắc ngay.

Tháng Bảy năm 2015, Thầy quyết định đi Mỹ để theo chương trình của trung tâm phục hồi chức năng của trường đại học California tại San Francisco (UCSF).

Sáu tháng sau, vào tháng Giêng năm 2016, Thầy quyết định về lại Pháp. Tháng 12 cùng năm ấy, Thầy quyết định đi Thái Lan.

Vào tháng Tám năm 2017, Thầy đi Việt Nam để về thăm Tổ đình Từ Hiếu. Chưa đến 24 giờ, Thầy rời Tổ đình về lại Thái Lan trong lúc đại chúng đang làm lễ Tự tứ.

Vào tháng Mười năm 2018, Thầy trở về Tổ đình.

Cuối năm 2019, Thầy về lại Thái Lan để tái khám. Sau khi tái khám và làm những gì cần làm xong, Thầy trở về Tổ đình và sống ở đây cho đến ngày cuối.

Trong vòng bảy năm, Thầy đã bay tám lần. Lần nào Thầy cũng đưa ra quyết định một cách rõ ràng. Một khi đã quyết định, Thầy luôn muốn thực hiện ngay, không chần chừ. Thầy bỏ ăn, bỏ uống, chỉ đi dạo quanh xem thị giả làm hành lý đến đâu. Những đứa con không muốn Thầy đi xa đã tìm đủ cách và đưa ra nhiều lý do để thuyết phục Thầy bỏ ý định. Cho dù có những lý luận sắc bén bao nhiêu đi nữa, trước mặt Thầy chỉ trong chốc lát, các vị cũng đều chào thua. Không ai và không điều gì có thể cản được quyết định của Thầy. Chỉ trong vòng ba đến bốn ngày, các thị giả bằng mọi giá phải hoàn tất mọi thủ tục và sắp xếp mọi thứ cho chuyến đi.

Thầy luôn có thái độ dứt khoát khi thấy cần đi đâu, cần làm gì, kể cả khi Thầy thấy không cần phải đi hay không cần phải làm gì. Vào một ngày xuất sĩ tại Sơn Cốc (Làng Mai gọi ngày sinh hoạt dành cho chúng xuất gia là ngày xuất sĩ), các thị giả năn nỉ Thầy đi thiền với đại chúng bốn xóm. Năn nỉ bao nhiêu Thầy cũng lắc đầu không đi, mặc cho đại chúng chờ đợi. Cuối cùng đại chúng đành phải thiền hành mà không có Thầy. (Có phải vì Thầy muốn đại chúng chuẩn bị cho những ngày xuất sĩ không có mặt Thầy?)

Một lần khác, vào ngày tái khám định kỳ của Thầy, xe cảnh sát (dọn đường cho xe cứu thương), xe cứu thương, các vali chứa đồ nhà bếp, hành lý của Thầy… tất cả đã sẵn sàng và chờ Thầy ra xe để lên đường. Nhưng Thầy lắc đầu không chịu đi, cho dù các thị giả thay phiên nhau năn nỉ. Sau khi đợi suốt hai giờ đồng hồ, xe cứu thương và xe cảnh sát đành phải quay về.

Thầy luôn là người quyết định và chịu trách nhiệm về sức khỏe cũng như sự sống chết của Thầy. Tại San Francisco, Thầy dõng dạc ký giấy đồng ý với đề nghị của bác sĩ trong chương trình điều trị. Tại bệnh viện Thái Lan, Thầy lăn tay trước mặt các y bác sĩ. Bao nhiêu lần Thầy đã làm cho các bác sĩ phải cúi đầu nể phục khi thấy Thầy vẫn là người biết rõ cơ thể và sức khỏe của Thầy hơn ai hết. Thầy vẫn luôn là người quyết định, các bác sĩ chỉ đi theo yểm trợ Thầy thôi.

Không những Thầy dẫn đường cho sự chữa trị và hồi phục sức khỏe của Thầy mà Thầy còn tiếp tục dẫn dắt chúng con trên con đường tu tập mỗi ngày. Vào ngày Rằm đầu tiên ở bệnh viện Bordeaux, nằm trên giường, Thầy đã chỉ cho chúng con thấy vầng trăng tròn vằng vặc bên kia tấm cửa kính. Thầy trò còn thưởng thức pháo bông vào đêm Giao thừa Tết tây tại nơi đây nữa. Thỉnh thoảng, Thầy lại chỉ cho các bác sĩ và y tá thấy trời xanh, mây trắng, hay hai con chim đang chơi đùa bên nhau trên cành cây bên ngoài cửa sổ bệnh viện. Cũng vậy, ở bất cứ nơi đâu, mỗi khi thấy mặt trời lặn hay mặt trời mọc, Thầy đều chỉ cho mọi người cùng ngắm với Thầy. Thầy rất thích những buổi thầy trò ngồi quây quần bên nhau, vừa uống trà vừa thưởng thức hoa quỳnh, khi thì ở Sơn Cốc, khi thì ở thất Nhìn Xa. Mỗi khi Thầy cảm thấy trong thân khó chịu, thị giả sẽ đẩy Thầy đi thiền hành trên xe lăn chầm chậm, khoan thai và Thầy sẽ cảm thấy dễ chịu lại ngay.

 

 

Các sư con hay đến thăm Thầy ở Sơn Cốc, nơi Thầy có trồng một cây hoa ngọc lan mang từ Việt Nam sang. Thầy hay dẫn các con đi hái hoa rồi Thầy đưa hoa lên tận mũi cho từng đứa ngửi. Vào mùa hè, Thầy đi ngắm đồi hoa hướng dương trải vàng rực rỡ ngay phía sau Nội viện Phương Khê. Đến mùa cúc ở Pháp, thầy trò đi xem chợ hoa cúc. Đến mùa Tết ở cố đô Huế, thầy trò lại đi thăm chợ hoa mai. Đi theo Thầy, chúng con không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào để thưởng thức bốn mùa. Vừa qua đến Làng Mai Thái Lan, sau vài ngày nghỉ ngơi, Thầy đã chỉ các thị giả đẩy Thầy lên thăm hết các ngọn núi của tu viện. Đại chúng lũ lượt trèo núi theo Thầy. Những sinh hoạt bình thường nhất trong thời khóa mà có Thầy xuất hiện thì đều trở nên những giây phút huyền thoại: các buổi thiền hành, thiền tọa, buổi ăn sáng, ăn trưa, v.v.

Chúng con còn nhớ lần đầu tiên, đang ngồi trên ghế sofa ở Sơn Cốc, bỗng nhiên Thầy cất giọng niệm Bồ tát Quan Thế Âm cùng với chúng con. Những ngày sau đó, Thầy hát hết bài này đến bài nọ, từ tiếng Việt, tiếng Anh cho đến tiếng Pháp. Miệng Thầy thật tròn. Mỗi ngày, thầy trò vừa thiền hành, vừa hát, có khi còn hát những bài hát dài như Tìm nhau. Rồi Thầy vào thư viện tìm đọc lại các tài liệu. Thầy tập đọc những bài thơ Thầy đã viết trên những tấm thư pháp trước kia. Thầy tập vẽ vòng tròn, tập viết chữ “thở”, tập viết chữ Hán với rất nhiều niềm vui.

Có lần ở San Francisco, vừa nghe CD những bài thơ do chính Thầy đọc, Thầy vừa đưa tay diễn tả ý thơ cùng với nét mặt. Những giây phút hào hứng nhất là những lúc Thầy đạp xe đạp, vừa đạp xe vừa nghe nhạc và thưởng thức cảnh trí hiện ra trên màn ảnh trước mặt, tạo cho Thầy có cảm giác như đang đạp xe ngoài bãi biển, hoặc có khi như đang đạp xe trên những con đường quê giữa thiên nhiên hữu tình. Có lúc Thầy thấm mệt nhưng Thầy vẫn kiên trì đạp mãi không ngừng.

Còn những giây phút ngoạn mục nhất nữa: đó là những lúc Thầy đứng một mình mà không cần thị giả đỡ một bên. Hôm đó đến giờ cơm trưa, Thầy muốn dùng cơm luôn trong tư thế đứng! Nét mặt Thầy trò ai cũng rạng rỡ và phấn khởi vô cùng. Lại có những lúc Thầy đứng thật thẳng trên xe đẩy, các thị giả cho xe đi vòng vòng, chầm chậm trong thất Nhìn Xa. Sao lạ quá, Thầy không nói gì nhưng Thầy ở đâu là nơi đó ấm cúng, đông vui và tràn đầy năng lượng thương yêu.

Trong thời gian chùa Tổ được trùng tu, Thầy đã đồng ý đi biển Thuận An, biển Đà Nẵng nhiều lần để tránh bụi và tiếng ồn. Thầy cũng xuống tắm biển cùng với các thầy thị giả. Có lẽ lâu lắm rồi, từ bao giờ, 60 năm, hay 70 năm, Thầy mới được ngâm cả người vào lòng nước biển ấm áp. Thầy muốn đi ra khơi, xa hơn nữa, xa hơn nữa, và xa hơn nữa. Đó là hôm Thầy chịu chơi nhất và cũng là lần tắm biển vui nhất trong đời của cả thầy lẫn trò. Có phải vậy không thưa Thầy?

Đến năm 2020, Thầy yếu đi nhiều. Thầy không còn dạo quanh chùa và không còn đi thăm liêu Sư Cố nữa. Nhưng thở vào, chúng con ý thức rằng Thầy đang còn sống; thở ra, chúng con trân quý và mỉm cười với sự sống. Chúng con vẫn tiếp tục tận hưởng từng giây phút bên Thầy mà không để thương tiếc hay lo lắng chiếm ngự. Thầy đã cho chúng con thấy rằng với một thân thể già yếu và tật bệnh, với những cơn đau nhức, Thầy trò vẫn có thể sống an vui trong mọi hoàn cảnh với sự thực tập hiện pháp lạc trú mà đức Thế Tôn đã dạy.

 

 

Trong suốt bảy năm, chúng con nhận ra được mọi hành vi cho đến nhận thức của Thầy đều là sự biểu hiện của một tàng thức đã được chuyển hóa, một tàng thức chứa đựng đầy hoa trái của một bậc chân tu. Những hoa trái đó có thể thay đổi hoàn toàn hoàn cảnh xung quanh. Những gì cần làm, Thầy đã làm với tất cả tình thương. Rồi với ý thức sáng tỏ, Thầy đã quyết định trở thành mây một cách lặng lẽ, dứt khoát, như bao nhiêu lần Thầy đã từng làm những quyết định. Đám mây của Thầy đã bao trùm và ôm lấy các con của Thầy trong một bầu không khí ấm cúng và tĩnh lặng, bây giờ và mãi mãi.