Bài kệ 27

Tuy thượng hữu thiện xứ

雖 上 有 善 處

Giai mạc như Nê hoàn

皆 莫 如 泥 洹

Tất tri nhất thiết đoạn

悉 知 一 切 斷

Bất phục trước thế gian

不 復 著 世 間

Tuy phía trên kia có những cõi trời

Nhưng cũng không đâu bằng Niết bàn

Đã có nhất thiết trí thì cắt bỏ được tất cả

Ta không còn vướng mắc nữa vào thế gian.

Tuy thượng hữu thiện xứ: Tuy ở trên kia có những cõi trời tốt lành, như cõi sắc giới hay vô sắc giới.

Giai mạc như Nê hoàn: Nhưng không có cõi nào an toàn, hạnh phúc như Niết bàn.

Tất tri nhất thiết đoạn: Tất tri là biết hết; tất tri là tên xưa của nhất thiết trí (sarvajñāna). Khi ta lấy ra được hết những phiền não, những ý niệm về có – không, tới – đi, còn – mất, ta – người, thì ta đạt tới nhất thiết trí. Có nhất thiết trí, tất cả đều được đoạn trừ.

Bất phục trước thế gian: Ta không còn vướng mắc vào trong cõi đời tục lụy. Tuy ở trong cuộc đời tục lụy, nhưng ta không bị cuộc đời tục lụy ràng buộc. Phàm thánh đồng cư, cùng ở chung một cõi, nhưng có người có tự do, có người lại không; người không có tự do là kẻ phàm, người có tự do là bậc thánh.

Bài kệ 26

Chủng tiêu bất phục sinh

種 燋 不 復 生

Ý tận như hỏa diệt

意 盡 如 火 滅

Bào thai vi uế hải

胞 胎 為 穢 海

Hà vi lạc dâm hành

何 為 樂 婬 行

Hạt giống một khi bị đốt cháy rồi thì không sinh lại

Tâm ý đã dừng lại rồi thì cũng như lửa đã tắt

Chốn dâm căn là một biển ô uế

Tại sao lại đi tìm lạc thú ở nơi ấy?

Bài kệ này nói về nếp sống phạm hạnh của người xuất gia.

Chủng tiêu bất phục sinh: Những hạt giống của sầu đau, ái dục, hận thù, một khi đã bị đốt cháy rồi thì không thể nứt mầm và sinh ra trở lại.

Ý tận như hỏa diệt: Ý là vọng tâm tạo tác ra nghiệp.

Vọng tâm đã tiêu diệt như ngọn lửa đã tắt (như hỏa diệt). Hỏa diệt là hình ảnh Bụt thường dùng để nói về Niết bàn.

Chúng ta thường hỏi: Khi chết rồi tôi đi về đâu? Cái gì sẽ xảy ra sau khi tôi chết? Ta nghĩ con người mình có phần hình hài và phần linh hồn. Sau khi ta chết, phần xác thân tiêu hoại không còn nữa, chỉ còn lại phần linh hồn, mà linh hồn này ta không thấy được. Linh hồn có thể đi lang thang, vất vưởng, rồi tìm một cái thân khác và chui vô trở lại. Đó là luân hồi hiểu theo kiểu bình dân.

“Người thương tôi chết, tôi phải đi tìm ở đâu?, “Cái gì xảy ra sau khi mình chết?Câu trả lời của Bụt là: Thân và tâm này là hai cái cùng nương vào nhau mà biểu hiện một lần. Cũng như tay trái và tay phải, ta không thể cắt chia làm hai, một nửa còn mà một nửa không còn. Không có cái này thì không có cái kia, không có cái kia thì không có cái này. Thân tâm nương vào nhau mà có; quan niệm chỉ có tâm mà không có thân, chỉ có linh hồn tồn tại mà thân xác thì không, vẫn còn là một quan niệm sai lầm khá phổ biến. Trong giai đoạn biểu hiện này, thân tâm tạo ra nghiệp, nghiệp thân, khẩu và ý. Những nghiệp này có thể chúng ta không thấy, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không có. Những tư tưởng chúng ta chế tác ra là nghiệp, là năng lượng. Tuy chúng vô hình, nhưng chúng có công năng phá hoại, tiêu diệt hoặc có công năng xây dựng, trị liệu. Bất cứ tư tưởng nào mình chế tác ra cũng tác động lên thực tại trong và ngoài, và sẽ còn hoài. Những lời ta nói, những lá thư ta viết, những gì ta phát biểu, có tác động dây chuyền liền lập tức, cho dù có 15 con ngựa đuổi theo cũng không kéo lại được. Ta nói lời hận thù thì sẽ tạo ra những đổ vỡ, ta nói lời thương yêu sẽ tạo ra sự xây dựng. Những lời ta đã nói, tuy ta không nghe nữa, nhưng năng lượng nghiệp của chúng vẫn đang còn đó. Những gì ta đã làm bằng hình hài này, tuy ta không thấy nữa, nhưng chúng cũng đang đi vào thực tại và đang chuyển biến. Đó là nghiệp.

Tâm và thân nương nhau mà có, chúng không phải từ không mà trở thành có, chỉ từ chỗ chưa biểu hiện mà biểu hiện ra. Ví dụ, trong phòng này có hơi nước do mình thở ra, hơi nước có đó trong không gian; nhưng mình không thấy được. Nhưng nếu nhiệt độ trong phòng ấm, thì hơi nước sẽ đọng lại thành những giọt nước nhỏ và mình bắt đầu thấy sương mù. Lúc chưa thấy sương mù, mình cho là không có hơi nước và khi thấy sương mù, mình cho là có hơi nước. Kỳ thực, ta không thể nói là trong pháp đường này không có mây, tại vì mây đang ở trong ta, đang bao quanh ta mà ta không thấy. Thấy được là biểu, chưa thấy được là vô biểu.

Ta đã quen với hình thức hiện nay của ta nên ta hỏi: Khi chết đi ta sẽ thế nào? Kẹt vào hình thức thì ta không bao giờ tìm ra được. Khi ngọn lửa tắt, ta hỏi nó đi về đâu? Đi tìm ngọn lửa đã tắt dưới hình thức của ngọn lửa thì không bao giờ ta tìm ra ngọn lửa. Ngọn lửa không bao giờ mất. Khi đang biểu hiện, ngọn lửa chế tác ánh sáng, sức nóng và khói. Khi ngọn lửa không còn nữa, thì những cái nó chế tác vẫn còn. Vì vậy, đi tìm ngọn lửa trong hình thái biểu hiện cũ của nó là một chuyện rất ngây thơ.

Tâm ý không biểu hiện nữa (ý tận) giống như ngọn lửa không còn biểu hiện, nói nó giống như cái ngày xưa ta thấy là không đúng, mà nói nó không có mặt cũng không đúng. Ba chữ như hỏa diệt rất phổ thông, chính đức Thế Tôn đã dùng ba chữ đó để nói về Niết bàn. Đừng dùng hình ảnh ta đã có sẵn để đi tìm. Ngọn lửa đã tắt rồi, làm sao ta tìm được, vì từ biểu nó đã trở về vô biểu.

Khi tất cả những phiền não như tham dục, sân hận, si mê đã bị đốt cháy, thì luân hồi không còn tiếp tục. Ta không còn tìm được hình ảnh cũ, vì sự luân hồi của những phiền não, khổ đau, hệ lụy đã chấm dứt.

Bào thai vi uế hải: Bào thai là cơ quan sinh dục của phụ nữ. Uế hải là biển ô uế (the sea of impurity).

Hà vi lạc dâm hành: Là người xuất gia, tại sao ta lại còn đi tìm lạc thú ở những nơi đó? Đây nói về đời sống phạm hạnh của người tu, là sự thực tập quán chiếu bất tịnh.

Bài kệ 25

Đương tự cầu khứ thắng

當 自 求 去 勝

Dĩ thắng vô sở sinh

已 勝 無 所 生

Tất cố bất tạo tân

畢 故 不 造 新

Yếm thai vô dâm hành

厭 胎 無 婬 行

Chỉ nên tự cầu cái thắng lợi về Pháp

Đã có pháp thắng thì không còn sở sinh

Hết sở sinh rồi thì không tạo tác thêm nữa

Muốn không còn luân hồi thì đừng nên có những hành động phóng đãng.

Đương tự cầu khứ thắng: Chữ khứ 去 trong bài kệ là chép sai, đúng ra là chữ pháp 法 . Cái thắng mà ta đi tìm cầu là cái thắng về chánh pháp. Ta phải phát tâm cầu sự thắng lợi về chánh pháp, mà không phải những thắng lợi về tiền tài, danh vọng và địa vị. Mỗi ngày, phải có tiến bộ trong sự tu học của mình.

Dĩ thắng vô sở sinh: Khi đạt tới thắng pháp, tức tu tập thành công, thắng được phiền não, đam mê, ganh tị và hận thù, thì mình không còn sinh ra trở lại cõi hệ lụy nữa (vô sở sinh).

Tất cố bất tạo tân: Tất là làm cho xong. Đã hoàn toàn không còn sở sinh (tất cố) thì không tạo ra thêm chất liệu mới cho sự luân hồi (bất tạo tân), ta không dệt thêm những dây mơ rễ má của hệ lụy nữa. Hết chất liệu luân hồi (sinh tận) thì không còn tiếp nhận cái kia nữa. Ta tiếp tục luân hồi khổ đau tại vì ta còn cái sinh. Theo trong những bản chú giải của các Tổ thì sinh y gồm có uẩn, dục, phiền não và nghiệp. Nhưng ta nên hiểu sinh ở đây là tàn dư của phiền não còn sót lại chưa chuyển hóa hết. Còn sinh y, nên còn tiếp tục đi vòng trong cõi đau khổ. Khi những chất liệu tàn dư làm nền tảng cho luân hồi không còn, thì sẽ không còn hữu. Sinh y không còn thì bhava không còn, mà bhāva không còn thì cũng không còn bhāva, nghĩa là không còn hữu cũng không còn vô, chứ không có nghĩa là không còn hữu thì đi vào hư vô.

Trong một bài hát của Phạm Duy có tên Ngàn Thu, cũng gọi là Vô Hư, được làm tại Midway City, California, có câu:

Em là cơn gió

Anh là mây dài

Đi về bên nớ

Đi về bên này

Rồi trở về cho hết cái đong đưa.

Nếu hết chất liệu của luân hồi thì không cần đi luân hồi nữa.

Yếm thai vô dâm hành: Yếm là chán, yếm thai là không thích đi vòng vòng trong cõi hệ lụy nữa. Vô dâm hành là không đi về phía phóng đãng. Nếu đã chán đi vòng quanh trong thế giới của khổ đau luân hồi, chúng ta phải bỏ thói dâm đãng, đừng hành dộng theo lối dâm đãng nữa.

Đây nói về đời sống phạm hạnh của những người tu. Phạm hạnh là đời sống trong sáng của người xuất gia. Tu là phải chế tác chất liệu thánh. Chất liệu thánhkhông phải do người khác ban cho ta, không phải tại Giáo hoàng phong cho ta là thánh mà ta trở thành thánh. Ta là thánh khi ta chế tác được chất thánh. Thánh là chất liệu được chế tác bởi giới, niệm, định và tuệ. Nơi nào có giới, niệm, định và tuệ thì nơi đó có sự thánh thiện. Có niệm, định, tuệ thì không đi vào chốn khổ đau, hệ lụy. Có niệm là có giới, có giới thì ta không giết hại, không nói dối, không tà dâm, không làm những chuyện gây ra khổ đau. Ta sống theo giới luật, theo Pratimoksha, tức giới bản của người xuất gia. Ta theo con đường phạm hạnh (holy life), đó là cuộc sống thánh thiện. Cuộc sống thánh thiện có được là nhờ ta biết giữ giới, ta không đi về phía phóng đãng, dâm hành.

Người xuất gia là người sống cuộc đời phạm hạnh, thánh thiện, sự thánh thiện do công phu giữ giới mà có chứ không phải do người khác ban cho ta.

Chỉ nên tự cầu cái thắng lợi về Pháp

Đã có pháp thắng thì không còn sở sinh

Hết sở sinh rồi thì không tạo tác thêm nữa

Muốn không còn luân hồi thì đừng nên có những hành động phóng đãng.

Hết sở sinh: có thể được hiểu là không sinh ra trở lại trong luân hồi, hoặc là những phiền não, hệ lụy, lang thang đã được chuyển hóa không còn phát sinh ra nữa.

Bài kệ 24

Tịnh như thủy vô cấu

淨 如 水 無 垢

Sinh tận vô bỉ thọ

生 盡 無 彼 受

Lợi thắng bất túc thị

利 勝 不 足 恃

Tuy thắng do phục khổ

雖 勝 猶 復 苦

Thanh tịnh như nước trong, không còn chút cấu uế

Hết chất liệu luân hồi (sở sinh) thì không tiếp nhận cái kia nữa

Cái thắng và cái lợi không còn làm tiêu chuẩn để đi theo

Bởi vì dù có thắng có lợi nhưng cái khổ vẫn còn đó.

Tịnh như thủy vô cấu: Thanh tịnh như nước không còn chút cấu uế. Bài kệ 23 dùng hình ảnh của đất và bài kệ 24 dùng hình ảnh của nước. Đức Thế Tôn dạy La Hầu La: Phải tập cái tâm của con như nước. Người ta đổ xuống nước dầu thơm hay sữa, nước cũng không mừng, mà đổ xuống phân, bùn, nước tiểu thì nước cũng không giận, tại vì nước có khả năng tiếp thu và chuyển hóa rất lớn. Nước có thể thanh tịnh hóa được tất cả.

Sinh tận vô bỉ thọ: Chữ sinh được dịch từ chữ upādhi, tức những chất liệu có công năng nuôi dưỡng sự luân hồi. Chữ sinh được viết tắt từ chữ sinh y, tức những dây mơ rễ má làm cho ta vướng vào cõi hệ lụy. Y là nền tảng của khổ đau, là chất liệu hệ lụy, của luân hồi. Sinh là sinh tử, là vào ra, là lên xuống trong cõi hệ lụy. Tại sao ta phải vào ra, lên xuống trong cõi hệ lụy? Tại vì có những chất liệu của phiền não, có những nghiệp nhân do ta tạo ra. Ta tạo ra gốc rễ của sự đam mê, của hận thù, nên ta phải trở lại hoài trong thế giới của hệ lụy.

Nhờ công phu tu tập, ta cắt đứt được tất cả các dây mơ rễ má, ta không đi vào cõi hệ lụy nữa (sinh tận). Sinh y ở đây cũng là upādisesa (dư y), những vướng mắc (upādāna), những lậu hoặc (āsrāva), những tùy miên (anusaya) còn sót lại trong chiều sâu tâm thức chưa được chuyển hóa hết. Sinh y ở đây là dư y (upādisesa), chứ không phải là uẩn (skandha). Niết bàn dư y là Niết bàn còn lại những tàn dư phiền não chưa chuyển hóa hết. Niết bàn vô dư y (anupādisesanirvāna) là Niết bàn tuyệt đối không còn dư y phiền não. Ta không cần buông bỏ năm uẩn mà vẫn có thể đạt tới Niết bàn vô dư y như trong trường hợp của Bụt và của các vị A la hán. Bỉ là cuộc đời hệ lụy. Khi nguồn gốc của hệ lụy không còn, ta sẽ không còn tiếp nhận cái hệ lụy đó nữa (bỉ). Ta có giải thoát, có tự do của một vị Bồ tát rong chơi không bị ràng buộc. Cõi của chúng ta là cõi phàm thánh đồng cư, tức cõi mà phàm và thánh cùng sống chung với nhau. Trong khi người phàm bị ràng buộc, lên xuống, khổ đau, thì các bậc thánh lại tự do rong chơi ngay trong cõi đó.

Lợi thắng bất túc thị: Người đời cho hạnh phúc là được nhiều lợi, lợi ở đây là tiền bạc chứ không phải lợi ích của sự tu học. Thắng là leo lên chỗ cao, đạp người khác xuống dưới. Cuộc sống của mình không còn đi theo tiêu chuẩn của thắng bại hay lợi hại.

Tuy thắng do phục khổ: Hai tiêu chuẩn thắng bại và lợi hại ấy không đủ để kéo ta vướng vào, tại vì tuy gọi là thắng lợi, nhưng nó vẫn nằm trong phạm vi của cái khổ. Bại thì khổ, mà thắng cũng khổ; lỗ lã thì khổ đã đành, mà lợi danh cũng khổ; tất cả đều nằm trong vòng tương đối. Lợi tức và ưu thắng không đủ để cột chân ta lại trong vòng hệ lụy, tại vì tuy có thắng lợi nhưng cái khổ đó vẫn còn.

Bài kệ 23

Thị vi đệ nhất khoái

是 為 第 一 快

Thử đạo tịch vô thượng

此 道 寂 無 上

Thọ nhục tâm như địa

受 辱 心 如 地

Hành nhẫn như môn quắc

行 忍 如 門 閾

Đó là cái lạc thú đệ nhất

Con đường yên lặng (của ý niệm và ngôn từ) này không có gì cao hơn

Lúc bấy giờ mình có khả năng nhẫn chịu được, tâm mình cũng như đất

Và cái hành nhẫn cũng như một thành quách.

Thị vi đệ nhất khoái: Đó là cái khoái lạc lớn nhất.

Thử đạo tịch vô thượng: Vô thượng là không có gì cao hơn. Không có con đường nào cao hơn con đường đưa tới sự vắng lặng đó. Vắng lặng không có nghĩa là không có âm thanh, mà vắng lặng có nghĩa là những ý niệm về có- không, sinh-diệt đã rơi rụng. Thi sĩ Bùi Giáng có làm câu thơ: Ta bước qua từ ngữ rụng hai lần

Nhờ sự quán chiếu, những ý niệm nhưcó hay không, sinh hay diệt rơi rụng và thực tại được hiển bày ra. Thực tại (ultimate reality) không thể nào được diễn tả bằng các ý niệm có-không, sinh-diệt. Trong Như Thị Ngữ (Itivṛttaka) nói: Có một cái không sinh, không diệt, không tới, không đi, không này, không kia, không có, không không. Nếu không có cái không sinh, không diệt, không tới, không đi, không này, không kia, không có, không không đó, thì làm sao có nẻo thoát cho cái có sinh, có diệt, có tới, có đi, có này, có kia, có có, có không.

Ta bước qua, là bước qua ngưỡng cửa của sự nhận thức lưỡng nguyên.

Con đường tịch diệt này không có gì cao hơn. Chữ tịch diệt ở đây không phải là không còn gì nữa, mà có nghĩa là sự vắng mặt của những ý tưởng xôn xao như có và không, tôi và anh, trong và ngoài, chủ thể và đối tượng. Những ý tưởng xôn xao không còn, thì gọi là vắng lặng, là im lặng hùng tráng.

Thọ nhục tâm như địa: Khi nếm được hạnh phúc lớn đó, khi đi vào được trong không gian mênh mông của sự vắng mặt tất cả các ý niệm đó, thì tâm mình giống như đại địa có thể chịu đựng được tất cả. Nhẫn là có sức chịu đựng rất lớn.

Khi dạy thầy La Hầu La, Bụt đã nói: Con phải luyện cho tâm con giống như đất. Người ta có đổ xuống đất dầu thơm, những thức ăn rất ngon, hoặc phân hay nước tiểu, thì đất cũng chấp nhận tất cả. Đất có khả năng tiếp nhận và chuyển hóa rất hay, đất không kỳ thị; cái thơm ngon đất chấp nhận đã đành, mà cái hư thối đất cũng chấp nhận, đất không đau khổ và không kỳ thị.

Nếu nếm được cái lạc thú của Niết bàn, tâm ta rộng mở rồi, thì những gì trước kia ta không chấp nhận được, bây giờ ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng. Tâm ta trở thành như đất (tâm như địa).

Hành nhẫn như môn quắc: Sự thực tập nhẫn nhục (kṣānti-pāramitā) trở nên vững chãi như một bức trường thành.

Bài kệ 22

Sở kiến bất phục khủng

所 見 不 復 恐

Vô ngôn ngôn vô nghi

無 言 言 無 疑

Đoạn hữu chi xạ tiễn

斷 有 之 射 箭

Cấu ngu vô sở ỷ

遘 愚 無 所 猗

Cái mình thấy không làm cho mình sợ hãi nữa

Không còn nghi ngờ gì nữa về ngôn từ hay không ngôn từ

Mũi tên bắn rơi được cái ý niệm có không rồi

Thì khi gặp kẻ ngu muội không cần diễn bày gì nữa cả.

Chúng ta hãy nhớ lại câu: Chim chóc ưa trở về mây trời, hươu nai ưa trở về đồng quê, còn các bậc chân nhân thì ưa trở về Niết bàn.

Niết bàn là nơi thảnh thơi, Niết bàn đang có mặt ở đây trong giây phút hiện tại. Tùy ta muốn chọn sự bận rộn, lo lắng, sợ hãi hay muốn chọn Niết bàn. Có hai cách để định nghĩa Niết bàn:

Định nghĩa đầu là sự vắng mặt của các phiền não như đam mê, hận thù, nghi kỵ, tại vì đam mê, hận thù, nghi kỵ là những ngọn lửa đốt cháy mình. Sự vắng mặt của đam mê, hận thù, nghi kỵ là sự mát mẻ. Định nghĩa đầu của Niết bàn là sự mát mẻ, sự tắt lửa. Khi ngọn lửa đam mê, hận thù đang cháy, thì ta không có Niết bàn. Nhưng khi ta thấy không có ngọn lửa đam mê và hận thù đang cháy thì đó là Niết bàn. Nirvāna trước hết có nghĩa là không bốc cháy.

Định nghĩa thứ hai của Niết bàn là sự vắng mặt của sự kỳ thị, của cái nhìn lưỡng nguyên. Dưới cái nhìn lưỡng nguyên, ta thấy có trong có ngoài, có ta có người, có chủ thể có đối tượng. Khi vượt thoát cái nhìn lưỡng nguyên, ta không còn thấy sự tách biệt giữa chủ thể và đối tượng, tâm và vật, ta và người. Không còn thấy sự kỳ thị và phân biệt, ta có rất nhiều tự do, tự do thênh thang, đó là Niết bàn. Thấy có ta và có người, ta so sánh ta thua người đó, hay hơn người đó, hoặc bằng người đó. Đó là ba loại mặc cảm: Mặc cảm thua người, mặc cảm hơn người và mặc cảm bằng người. Ba loại mặc cảm này đều dựa trên sự phân biệt giữa ta và người. Khi thấy rõ ta với người đó tương tức, ta có trong người đó và người đó có trong ta, thì ta không còn mặc cảm, dù là mặc cảm thua người, hơn người hay bằng người. Không còn cái thấy nhị nguyên, ta sẽ có rất nhiều không gian, có rất nhiều tự do. Đó là Niết bàn. Niết bàn có mặt trong giây phút hiện tại, ta không cần phải đi tìm ở một cõi xa xăm nào trong tương lai.

Đợt sóng khổ đau tại vì nó lên xuống, sinh diệt, tự so sánh mình với những đợt sóng khác và nó có mặc cảm. Nhưng khi đợt sóng biết rằng nó là nước thì nó không còn đau khổ vì chuyện lên xuống, ra vào, lớn nhỏ. Đợt sóng không cần phải đi tìm nước ở chỗ khác, tại vì chính nó đã là nước rồi. Nếu ta nghĩ Niết bàn là một thực tại ở ngoài mà ta cần phải đi tìm, thì ta vẫn còn kẹt trong cái thấy nhị nguyên. Đó không phải là Niết bàn, Niết bàn không có trong và ngoài, này và kia. Trong khóa tu ở Nottingham University vừa rồi, tôi nói với báo chí: Nếu Tây phương đặt Thượng đế trở lại vào đúng vị trí của Ngài thì mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp. Ta đặt Thượng đế sai chỗ, vì ta cho Thượng đế là một thực tại ở bên ngoài mà ta phải đối phó nên ta mới đưa thế giới tới sự khủng hoảng hiện nay.

Sở kiến bất phục khủng: Cái ta thấy, ta không còn sợ nữa. Sở kiến là cái ta thấy. Bất phục khủng là ta không còn sợ hãi nữa.

Vô ngôn ngôn vô nghi: Không còn nghi ngờ gì về vấn đề ngôn từ hay không ngôn từ nữa. Ngôn là cái có ngôn từ, vô ngôn là cái không có ngôn từ.

Đoạn hữu chi xạ tiễn: Mũi tên bắn rơi đượccái ý niệm có không. Tiễn là mũi tên. Đoạn là làm cho chấm dứt. Hữu là being in existence. Người hành giả giương cây cung, lắp một mũi tên, nhắm cái hữu (being) mà bắn một phát. Hữu rơi xuống, đồng thời vô cũng rơi xuống. Một nhà thần học nói: “Thượng đế là nền tảng của hiện hữu” (Paul Tillich). God is the ground of being. Trong tuệ giác của đạo Bụt, being là một ý niệm đối lại với ý niệm non-being. Nhà thần học này có khuynh hướng muốn liệt Thượng đế vào phía being. Ta có thể đặt câu hỏi: “Nếu Thượng đế là nền tảng của being (hữu thể) thì ai là nền tảng của non-being (vô thể)?” Người hành giả tu thiền lắp mũi tên vào cây cung, nhắm cái being mà bắn một phát. Nếu bắn rớt cái being xuống, thì cái non-being cũng rớt theo, tại vì đây là một cặp đối nghịch. Trong chân lý tuyệt đối, không có ý niệm being hay non-being, cho Thượng đế là being là sai, mà cho Thượng đế là non-being cũng sai. Thượng đế là cái tuyệt đối (ultimate) vượt thoát cả being và non- being, tại vì being và non-being vẫn còn nằm trong vòng lưỡng nguyên. Đặt Thượng đế vào being là đặt không đúng chỗ. Nói không có Thượng đế là sai, mà nói có Thượng đế cũng sai. Thượng đế vượt ra ngoài ý niệm có và không.

Niết bàn, trước hết là sự vắng mặt của những ngọn lửa và sau đó là sự vắng mặt của những cặp ý niệm đối lập nhau. Mục đích của người hành giả không phải là đi tìm cái non-being, mà là tìm sự vượt thoát cả being và non-being. Mục đích của người tu là đạt tới vô sinh (birthlessness). No-birth không có nghĩa là death, không lý ta tu chỉ để tìm cái chết? Khi ta lắp mũi tên vào cây cung và bắn rơi cái sinh, thì cái tử cũng rơi theo, đó gọi là bất tử (deathlessness). Một mũi tên bắn rơi hai lá cờ ảo tưởng.

Năm 1962, tôi xin xuất bản một tập thơ tại Sài Gòn có tên “Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện”, đó là những bài thơ nói về thao thức muốn chấm dứt chiến tranh, đạt tới hòa bình. Người ta gọi những bài thơ đó là phản chiến, nhưng sự thực thì không phải như thế. Khi đem lên kiểm duyệt, người ta bỏ hết, chỉ để còn lại ba bài. Có một bài nhan đề là “Một mũi tên rơi hai cờ huyễn tượng”, bắn một mũi tên làm rơi hai lá cờ nhị nguyên hữu và vô, sinh và diệt. Nhưng những người làm chính trị không hiểu được. Họ cho là mình vừa chống quốc gia, vừa chống cộng sản, đi theo phong trào trung lập, mà phong trào trung lập lúc đó đang bị cấm ở Việt Nam, vì bị cho là thân cộng. Những người trong ban kiểm duyệt của Bộ thông tin không thể nào hiểu được ý của bài thơ này: Với niệm lực và định lực, mình bắn rơi hai ý niệm, mình đang cổ vũ cho đường lối trung lập.

Khi mũi tên bắn rơi cái hữu, thì cái vô cũng rơi theo, lúc đó chúng ta có vô phân biệt trí (nirvikalpa-jñāna). Cái sinh-diệt rơi xuống rồi, thì không gian mở rộng với bao nhiêu là tự do, bao nhiêu là hạnh phúc.

Cấu ngu vô sở y: Vô sở y là không cần nói. Đối với người có thành kiến sâu dày, thì không làm sao nói được, ta không có nhu yếu cãi lộn nữa tại vì người ấy không thể hiểu.

Khi biết được Thượng đế là ai rồi, là gì rồi, thì anh không còn là nhà thần học nữa. Nghe người khác cãi nhau, ta chỉ ngồi cười, tại vì cãi nhau rằng có Thượng đế hay không có Thượng đế, có Niết bàn hay không có Niết bàn, chỉ tốn công vô ích.

Bài kệ 21

Bất một bất phục sinh

不 沒 不 復 生

Thị tế vi nê hoàn

是 際 為 泥 洹

Như thị tượng vô tượng

如 是 像 無 像

Khổ lạc vi dĩ giải

苦 樂 為 以 解

Nơi không có cái mất đi cũng không có cái còn sinh ra

Nơi ấy là Niết bàn.

Như thế thì vấn đề có đối tượng tri giác hay không có đối tượng tri giác

Và vấn đề bản chất của cái khổ và cái vui, mình đã hiểu thấu.

Bất một bất phục sinh: Bất một, là không biến mất, không từ có trở thành không, tại vì có và không cũng chỉ là những ý niệm; chúng ta vượt thoát có và không. Bất phục sinh, là không hẳn mình phải sinh trở lại, tại vì không sinh cũng không diệt.

Thị tế vi Niết bàn: Tế là cõi. Cõi không có cũng không không, không sinh cũng không diệt, đó là Niết bàn. This domain is Nirvāna. Niết bàn đang có mặt cho ta, tùy ta có muốn hay không muốn thôi; cũng như trời mây lúc nào cũng có đó cho chim muông và đồng quê lúc nào cũng có đó cho huơu nai, tùy chúng muốn chọn hay không mà thôi.

Như thị tượng vô tượng;

Khổ lạc vi dĩ giải

Như thế thì có đối tượng của tri giác hay không có đối tượng của tri giác (Như thị tượng vô tượng), đối tượng của tri giác có thể là mặt trời, mặt trăng hay con người, thì bản chất của cái vui và cái khổ, ta đã hiểu thấu (Khổ lạc vi dĩ giải). Chữ 以 này có thể bị chép sai, đúng ra là chữ 已, có nghĩa là đã.

Khổ và vui thường được căn cứ trên các ý niệm của ta, như ý niệm có và không, sinh và diệt. Khi những ý niệm có đối tượng hay không có đối tượng không còn nữa, thì không gian của Niết bàn hiển hiện. Lúc đó, ta hiểu thấu được bản chất của khổ và vui, ta không còn bị cuốn hút, bị hạn chế, bị trói buộc bởi khổ và vui.

Khóa tu mùa Đông sắp tới, chúng ta sẽ tiếp tục học hết Phẩm Nê Hoàn và học một số các kinh khác, có thể chúng ta sẽ được học bản dịch mới của “Ba mươi bài tụng Duy Biểu”, có thể ta sẽ được học 44 bài kệ về chân lý tuyệt đối trong Du-Già Sư Địa Luận, có thể chúng ta sẽ tiếp tục học những kinh rất hay trong Pháp Cú Kinh chữ Hán.

Chúng ta may mắn được ở chung với nhau ba tháng, được ngồi thiền chung, đi thiền chung, học kinh chung, pháp đàm chung rất hạnh phúc. Xin đại chúng chuẩn bị ngày mai làm lễ Đối thú an cư, xác định nghiêm mật giới trường, đừng ra khỏi giới trường trong ba tháng an cư, ngoại trừ trường hợp tăng thân sai mình đi làm công việc. Đây là cơ hội rất tốt và rất hiếm, ở đời không biết có bao nhiêu người mong ước có được cơ hội tham dự khóa tu ba tháng. Ngay cả nhiều thầy, nhiều sư cô bên Mỹ, hay ở Âu châu cũng ít có cơ hội được an cư. Chúng ta có cơ hội này, chúng ta phải dâng lên niềm cảm tạ của ta đối với đức Thế Tôn và các vị tổ sư. Nếu đức Thế Tôn không chế ra truyền thống An cư thì có thể thầy và nhiều vị giáo thọ cũng phải đi dạy chỗ này chỗ khác. Nhờ có khóa An cư mà thầy trò được ở lại luôn ba tháng với nhau và thầy rất hạnh phúc. Hạnh phúc có đó, Niết bàn có đó. Niết bàn là sự vắng mặt của các ngọn lửa đốt cháy. Chúng ta học cách dập lửa, học từ các sư anh, sư chị của mình. Nếu có tri giác sai lầm nào làm mình đau khổ như nỗi buồn, sự cô đơn, tủi thân, thì ta phải nhờ sư anh, sư chị giúp ta tháo bỏ tri giác sai lầm đó; tháo bỏ được thì tự nhiên ta sẽ có Niết bàn. Niết bàn là công chuyện hàng ngày của mình. Nirvāna is our daily business.

Bài kệ 20

Diệc vô nhật nguyệt tưởng

亦 無 日 月 想

Vô vãng vô sở huyền

無 往 無 所 懸

Ngã dĩ vô vãng phản

我 已 無 往 反

Bất khứ nhi bất lai

不 去 而 不 來

Cũng không có ý niệm về mặt trời và mặt trăng đang có mặt

Không đi cũng không ở lại

Không có một cái ngã để đi và để về

Thì không có cái đi và cái về.

Diệc vô nhật nguyệt tưởng: Không có tri giác về mặt trời, mặt trăng nữa. Bụt đang nói đến các nhà thiên văn học. Chúng ta tưởng tượng có những thiên hà (galaxy), những thế giới, những ngôi sao cách xa mình hàng ngàn, hàng triệu năm ánh sáng và ta nghĩ tất cả đều nằm trong không gian ngoài tâm thức ta. Khi đạt tới cái thấy bất nhị, Niết bàn, thì ta không còn kẹt vào tri giác về mặt trăng, mặt trời nữa.

Vô vãng vô sở huyền: Không cần đi cũng không ở lại.

Ngã dĩ vô vãng phản: Khi cái ngã đã không có (ngã dĩ vô) thì làm gì còn chuyện đi hay chuyện về (vô vãng phản). Vãng là đi, phản là trở về.

Bất khứ nhi bất lai: Không có khứ cũng không có lai. Người ta đặt cho đức Thế Tôn là Như Lai, có nghĩa là không từ đâu tới và cũng không cần đi về đâu (Tùng vô sở lai, diệc vô sở khứ, thị cố danh Như Lai). Không phải chỉ có đức Thế Tôn mà chúng ta cũng vậy, bản chất của chúng ta là không tới cũng không đi.

Bài kệ 19

Vô hữu hư không nhập

無 有 虛 空 入

Vô chư nhập dụng nhập

無 諸 入 用 入

Vô tưởng bất tưởng nhập

無 想 不 想 入

Vô kim thế hậu thế

無 今 世 後 世

Không đi vào cõi hư không

Không có cái nơi đi vào để đi vào

Không đi vào cõi tưởng hay cõi vô tưởng

Không đi vào đời này hay đời sau.

Vô hữu hư không nhập: Trong thiền định, có thể ta đi vào cõi hư không vô biên (infinity of space), tức không vô biên xứ. Không vô biên xứ là một trạng thái thiền định. Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ là bốn đối tượng của vô sắc định. Cõi vô tưởng (phi tưởng xứ) là cõi không còn tri giác.

Vô hữu hư không nhập: Không có cái cõi gọi là không vô biên xứ để mình đi vào, tại vì không có người để đi vào cõi đó.

Vô chư nhập dụng nhập: Không có những nơi đi vào để ta đi vào. Đi vào, hàm chứa chủ thể đi vào và đối tượng đi vào và khi thấy còn một chủ thể đi vào và một đối tượng đi vào hiện hữu độc lập với nhau, thì chưa thấy được sự thật. Biết được mình là ai rồi, ta vượt thoát được ý niệm về chủ thể và đối tượng riêng biệt. Không có người đi vào thì không còn lo lắng về chỗ mình sắp đi vào.

Vô tưởng bất tưởng nhập: Không đi vào cõi tưởng (cõi có tri giác) hay cõi phi tưởng (cõi không có tri giác).

Vô kim thế hậu thế: Không còn có đời này và đời sau, không còn sự phân biệt giữa hiện tại và tương lai, tức là đã vượt thoát thời gian.

Niết bàn là sự tự do, không bị hạn chế bởi thời gian và không gian. Vì vậy có Big Bang hay không có Big Bang, không phải là chuyện quan trọng. Không có bắt đầu, không có chung cục, không có nơi này, không có nơi kia, không có sự co lại hay phình ra. Hiện nay, có lý thuyết cho rằng vũ trụ đang giãn ra do Big Bang, rồi tới một lúc nào đó vũ trụ sẽ co lại.

Đối với Niết bàn, không có tương lai, không có quá khứ, không có thời gian, không có sự co lại, không có sự giãn ra. Kinh Niết Bàn không phải là kinh nói về chuyện siêu hình, kinh Niết Bàn rất thực tế, liên hệ tới sự sống hàng ngày. Chúng ta phải học kinh Niết Bàn như vậy, vì Phật học của chúng ta là Phật học ứng dụng. Ý nghĩa đầu tiên của chữ Niết bàn là sự mát lạnh. Định nghĩa thứ nhất của Niết bàn là sự vắng mặt của nóng bức, vì đam mê, sợ hãi, hận thù có khả năng đốt cháy; mà khi có sự đốt cháy thì không có Niết bàn. Niết bàn là chấm dứt sự đốt cháy (extinction).

Trong tâm học Phật giáo có tâm hành tham (đam mê), tâm hành sân (hận thù). Khi đam mê và hận thù bừng cháy lên thì có sức nóng đốt cháy và không có Niết bàn. Nhưng trong tâm học đạo Phật cũng có tâm hành vô tham, vô sân. Có những giây phút mà ta không bị ngọn lửa của đam mê, hận thù đốt cháy. Niết bàn có mặt khi những tâm hành vô tham, vô sân biểu hiện. Niết bàn không phải là cái gì quá xa vời mà ta tưởng tượng ra trong thế giới siêu hình. Niết bàn không phải là đối tượng của siêu hình học. Niết bàn là đối tượng của sự thực tập hàng ngày: Khi có tham, có sân là không có Niết bàn; khi có vô tham, vô sân là có Niết bàn. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có những giây phút có Niết bàn và những giây phút không có Niết bàn, tùy theo ý chúng ta chọn, cũng như con chim muốn chui vào trong lồng hay muốn trở về trời mây, cũng như con nai chọn vào ở trong sở thú hay chọn trở về đồng quê. Ta chọn đi về không gian của tự do, tươi mát hay không là tùy ta.

Định nghĩa đầu tiên của chữ Niết bàn là chấm dứt sự đốt cháy, là làm nguội xuống. Chúng ta có một vị Bồ tát tên là Thanh Lương Địa (the Bodhisattva of earth cooling). Chúng ta rất cần vị Bồ tát này, chúng ta phải gọi Ngài về lập tức tại vì chúng ta đang ở trong giai đoạn hâm nóng toàn cầu (global warming). Thanh lương là không có sự đốt cháy. Làm thế nào để Bồ tát Thanh Lương Địa có mặt trong từng giây phút của đời sống hàng ngày, tức là ta có Niết bàn. Niết bàn không phải là cái gì quá xa vời phải tu 10, 20 năm mới có.

Niết bàn, trước hết là sự vắng mặt của những ngọn lửa đang đốt cháy, ngọn lửa của tham, sân, nghi ngờ. Định nghĩa thứ hai của Niết bàn là sự vắng mặt của tri giác sai lầm, của cái nhìn nhị nguyên. Thấy có cái tâm hiện hữu ngoài vật, có cái trong đối lập với cái ngoài, có cái ta và có cái người, có chủ thể tồn tại độc lập ngoài đối tượng, là cái thấy nhị nguyên, cái thấy đó gây ra đau khổ và những nhận thức sai lầm. Niết bàn là sự vắng mặt của phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng (kleśa- āvaraṇa) là tham, sân, si, mạn, nghi. Sở tri chướng (jñeya- avāraņa) là những cái kẹt về nhận thức. Đó là những nhận thức sai lạc: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Đạt tới vô ngã là đạt tới Niết bàn.

Khi vượt khỏi cái nhìn nhị nguyên “có hiện tại và tương lai”, vượt thoát được thời gian, thì không còn kỳ thị, phân biệt. Lúc đó, những câu hỏi về nguyên ủy của vũ trụ như vũ trụ do ai sáng tạo ra, khi vũ trụ tiêu diệt thì sẽ có gì, hoặc những ý niệm về các cặp đối lập như có-không, còn-mất, tới-đi không còn nữa và Niết bàn có mặt. Ta không còn lo lắng (vô ưu) nữa và sự rong chơi được thỏa mãn một trăm phần trăm.

Bài kệ 18

Chư khổ pháp dĩ tận

諸 苦 法 已 盡

Hành diệt trạm nhiên an

行 滅 湛 然 安

Tỳ-kheo ngô dĩ tri

比 丘 吾 已 知

Vô phục chư nhập địa

無 復 諸 入 地

Nếu khổ đau đã hết và các hành đã lắng dịu

Thì hạnh phúc sẽ có mặt một cách lặng lẽ, và sẽ có bình an

Này các vị Tỳ-kheo, tôi đã thực chứng điều này

Cho nên tôi không cần phải đi tìm vào một cõi nào nữa.

Chư khổ pháp dĩ tận: Chư khổ pháp là những hiện tượng đem tới khổ đau như vô minh, buồn giận, đam mê, lo lắng, u sầu, sợ hãi. Dĩ tận là đã hết. Khi những pháp khổ đau đã hết.

Hành diệt trạm nhiên an: Tất cả các hành trở thành vắng lặng. Chữ diệt phải được hiểu là vắng lặng, lắng dịu, không còn xôn xao. Chữ diệt ở đây không có nghĩa diệt và sinh, có hay không có. Chữ diệt trong Niết bàn, có nghĩa là vắng lặng, là lắng dịu, là mát mẻ và an ổn. Hành là tất cả những hiện tượng như sông núi, mặt trăng, mặt trời, con người, chim muông, cây cỏ, đất đá, thân thể của chúng ta… Hành là saṃskāra, tiếng Anh là formations. Bông hoa là một hành, được tập hợp bởi những yếu tố như đất, nước, lửa, gió, sức nóng và người làm vườn. Cái bàn cũng là một hành, trái núi là một hành, ngôi sao kia là một hành. Đó là những hành vật lý (physical formations). Hình hài của chúng ta cũng là một hành, gọi là hành sinh lý (physiological formation). Cái giận, cái buồn, cái vui của chúng ta cũng là những hành, gọi là hành tâm lý (mental formations). Tất cả hành có thể có tác dụng gây đau khổ nếu ta bị dính vào chúng, nếu ta có cái thấy sai lạc về chúng.

Chúng ta không biết được bản chất của các hành, chúng là vô thường mà ta tưởng là thường, là vô ngã mà ta tưởng là ngã. Chính cái thấy sai lạc đó đưa tới đau khổ, chứ không phải các hành làm cho ta đau khổ. Hình hài của chúng ta làm cho ta đau khổ, tại vì ta có một quan niệm sai lầm về hình hài của mình. Đối tượng đam mê mà ta chạy theo kia không làm cho ta đau khổ, mà chính tại vì ta có một cái nhìn sai lạc về nó nên ta bị dính vào nó. Ta có vọng tưởng về đối tượng đam mê, nên ta có dục tưởng. Dục là sự đam mê, và chính vì có dục tưởng cho nên ta khổ, chứ không phải đối tượng đam mê làm cho ta khổ. Danh lợi không làm cho ta khổ, nhưng cái thấy của ta về danh lợi làm cho ta khổ.

Cái ví dụ về con chó bị anh chàng liệng cục đá lại chạy theo sủa cục đá rất hay. Cục đá, thật ra, đâu có tội tình gì, nguyên do làm cho con chó đau khổ là anh chàng liệng cục đá. Con chó vô minh tưởng cục đá là kẻ thù của nó. Khi đau khổ, chúng ta nghĩ rằng thế giới này hay hình hài, năm uẩn này làm cho mình đau khổ. Thật ra, chỉ vì ta có nhận thức sai lầm về thế giới, về năm uẩn, nên ta mới đau khổ.

Hành diệt, có nghĩa là những cái thấy sai lầm của chúng ta về hành không còn nữa và các hành, tuy là còn đó, nhưng không còn làm cho mình đau khổ nữa. Những cái thấy thì ta vẫn còn thấy, những cái nghe thì ta vẫn còn nghe, những cái suy nghĩ thì ta vẫn còn suy nghĩ; nhưng cái thấy, cái nghe, cái suy nghĩ của ta không còn sai lạc nữa và ta không còn đau khổ nữa. Trạm nhiên, có nghĩa là rất yên tĩnh. Khi tri giác sai lầm không còn, thì có sự vắng lặng, có sự thanh tịnh, an bình. Sự an bình đó là Niết bàn. Nếu khổ đau đã hết và các hành đã lắng dịu thì hạnh phúc sẽ có mặt một cách lặng lẽ và sẽ có bình an.

Tỳ kheo ngô dĩ tri: Ngô là cái ngã. Dĩ tri là đã biết. Ngày xưa, có khi người ta dịch “vô ngã” là vô ngô.

Ta chưa biết ta là ai! Trong Thiền tông thường có câu hỏi: “Anh là ai?” (Who are you?) Đó là một công án. Một công án khác cũng rất phổ thông, nổi tiếng ở Trung Quốc là câu hỏi: “Niệm Phật thị thùy?” (Who is the one that invokes the Buddha’s name?). Niệm Phật thị thùy có nghĩa là: Ai là người đang niệm Phật? Công án này là một câu hỏi: Anh là người đang niệm Phật, nhưng anh là ai? Người đang niệm Phật đó là ai? Anh đã biết anh là ai chưa? Ta tu để nhìn sâu và để biết ta là ai. Nhưng trong công án này có một lỗ hổng và nhiều người không thành đạt được công án này, tại vì họ không biết lấp lỗ hổng đó. Lỗ hổng nằm ở chỗ ta hỏi người niệm Phật là ai như thể ta đã biết Phật là ai rồi. Có Phật và có người niệm Phật. Thật ra, chúng ta cũng chưa biết Phật là ai? “Who is the Buddha whose name you invoke?” Tôi đề nghị công án thứ hai: “Phật thị thùy?”(Who is the Buddha?) Trong công án “Niệm Phật thị thùy?” ta muốn biết người niệm Phật là ai và ta tưởng ta đã biết Phật là ai rồi.

Khi ta biết ta là ai, thì ta cũng biết Bụt là ai và khi ta biết Bụt là ai, thì ta cũng biết ta là ai. Hai câu hỏi “Niệm Phật thị thùy?” và “Phật thị thùy?” là một. Chúng ta đã học một bài kệ rất hay:

Bụt đang thở, Bụt đang đi

Mình đang thở, mình đang đi

Ngoài chuyện thở và chuyện đi, có một người thở và đi. Ta nghĩ phải có một chủ thể, thì hành động mới xảy ra được. Nhưng trong tuệ giác vô ngã, thì có hành mà không cần phải có hành giả, có tác mà không cần có tác giả. Khi nói “gió thổi”, ta nghĩ có “gió” và có “một người thổi”, nhưng sự thật là chỉ có gió (wind) mà không có người thổi (blower). Nếu không có thổi (blowing), thì không có gió (wind). Gió mà không thổi, thì không phải là gió; hễ có gió là có thổi. Chúng ta chỉ cần gió mà không cần một người đứng ngoài để thổi, cũng như niệm Phật là niệm Phật, mà không cần có người niệm Phật. Chỉ có chuyện niệm Phật đang xảy ra, vì niệm là một tâm hành. Trong tâm hành niệm có năng niệm và sở niệm, niệm luôn là niệm cái gì, ví dụ như niệm hơi thở, niệm bước chân hay niệm Bụt. Có chủ thể niệm và đối tượng niệm, nhưng cả chủ thể và đối tượng đều nằm trong niệm, vì không thể nào có chủ thể mà không có đối tượng. Bụt có dạy, nơi nào có chủ thể thì nơi đó có đối tượng và nơi nào có đối tượng thì nơi đó có chủ thể. Chủ thể và đối tượng đi đôi với nhau. Không thể có chủ thể niệm đứng riêng, rồi ta đem chủ thể đó đến đối tượng niệm như là ta đem cây thước tới đo cái bàn rồi đo cái ghế. Tâm của ta gồm cả chủ thể và đối tượng, nếu cho tâm chỉ là chủ thể thì đó là một sự sai lạc căn bản mà chính khoa học bây giờ cũng chưa thoát ra khỏi. Khoa học nghĩ rằng, có một cái tâm bên trong và cái tâm đó vươn ra để nắm bắt thế giới bên ngoài. Khoa học kẹt vào cái thấy lưỡng nguyên, cho tâm và vật là hai cái riêng biệt. Chỉ một số rất ít nhà khoa học đang tìm cách vượt khỏi chướng ngại đó, còn phần lớn vẫn còn kẹt vào trong cái thấy lưỡng nguyên, tức cho rằng tâm tồn tại độc lập ngoài vật.

Người niệm Phật là ai, có nghĩa là người niệm là một thực tại riêng biệt và Phật được niệm là một thực tại riêng biệt. Thấy mình và Phật là hai thực tại riêng biệt là một cái thấy sai lầm. Niệm là một tâm hành, hễ là tâm hành thì phải có đối tượng và chủ thể. Khi niệm Phật xảy ra, thì năng niệm và sở niệm đều có mặt trong niệm; chúng ta không cần có một người đứng ngoài để làm chuyện niệm, cũng như có gió mà không cần một người đứng ngoài để thổi. Đây là phương diện của tâm học sâu sắc.

Bài tập của chúng ta rất hay, ban đầu ta tưởng Bụt và mình là hai thực thể:

Bụt đang thở, Bụt đang đi

Con đang thở, con đang đi

Nhưng sau đó, ta tìm ra được:

Bụt là thở, Bụt là đi

Con là thở, con là đi

Ngoài cái thở và đi không có Bụt, không có con. Con và Bụt nằm ngay trong cái thở, cái đi. Khi Bụt thở thì hơi thở rất có phẩm chất; vì hơi thở có phẩm chất, nên chúng ta thấy có Bụt trong hơi thở.

Tỳ kheo ngô dĩ tri: Này các vị Tỳ kheo, tôi đã biết rồi. Tôi đã thực chứng điều này rồi.

Vô phục chư nhập địa: Tôi đã biết mình là ai rồi, thì không cần có một cõi để đi vào, dù cõi ấy là Niết bàn.

Ta nghĩ khi chết rồi, ta sẽ đi vào một cõi nào đó,ta sẽ xuống địa ngục hay lên thiên đường, ta lên cõi trời này, cõi trời kia hay vào Tịnh độ. Đó là cái thấy nhị nguyên: có một người và người đó sẽ đi vào cõi này hay cõi kia. Nhưng khi hiểu được vô ngã, không còn đi, không còn tới thì ta không còn lo lắng ta sẽ đi về đâu nữa, tại vì sẽ không có chuyện đi, chuyện tới.

Trong bài kệ này, Niết bàn được diễn tả rất cụ thể và sâu sắc. Nếu ta đã biết mình là ai rồi, thì ta không còn phải lo lắng sau này mình sẽ đi vào cõi nào: Tịnh độ, Thiên đường hay Cực lạc thế giới.