Chương trình Hiểu và Thương

(Thư cảm ơn của Sư cô Chân Không)

“Mùa thiên nhiên đã về, mang áo mới!

Tôi nghe mênh mông nắng reo đồng nội

Đất vùng quê khoai sắn lên tươi xanh

Hoa nở, chim ca, trái nặng trên cành

Sung túc quá, một mùa xuân vũ trụ !

Tôi linh cảm thấy loài người muôn xứ

Đang đứng lên, chèo chống giữa phong ba

Ủ nguồn nhân nơi tin tưởng chói lòa

Lấp cạn hố phân chia và sầu khổ

Bông trí tuệ đang tưng bừng đua nở

Cây tình thương đang khoác áo xanh tươi

Hương tự do ướp lấy cánh hoa đời.”

(Trích thơ “Mùa nhân loại mang áo mới”, Thầy Làng Mai)

 

Kính thưa quý vị đạo hữu và ân nhân!

Trong năm vừa qua, nhờ tấm lòng chung tay tiếp sức của quý vị, các nhà hảo tâm, các mạnh thường quân trong và ngoài nước, cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức Thich Nhat Hanh Foundation, Maitreya Fonds, tăng thân Sen Búp Sydney mà chương trình Hiểu và Thương đã tiếp tục thực hiện được những công tác xã hội, hành trình lan tỏa tình yêu thương đến với những hoàn cảnh khó khăn trên khắp đất nước Việt Nam:

Chương trình thường niên tại các trường mầm non có:

– Hỗ trợ tiền ăn bán trú cho 3.531 trẻ mầm non thuộc ba tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Bình Thuận. Mỗi tháng các cháu được hỗ trợ từ 66.000đ – 80.000đ bổ sung thêm vào chế độ ăn dinh dưỡng.

– Hỗ trợ lương cho 209 giáo viên mầm non ở ba tỉnh Quảng Trị, TT Huế và Bình Thuận. Mức hỗ trợ tuỳ theo các cô giáo thuộc nhóm trường do chương trình Hiểu và Thương xây dựng và quản lý; nhóm trường do các chùa quản lý; hay công tác tại nhóm trường công lập. 

Chương trình dành cho các bô lão, mà đại diện là các Tiếp hiện xã hội thường xuyên mỗi ba tháng đến thăm trực tiếp, quan tâm, hỗ trợ đến 945 người già neo đơn ở các tỉnh Quảng Trị, Huế, Bình Thuận, Đồng Nai, Đồng Tháp và Bến Tre.

Chương trình “Giúp em đến trường” tiếp tục tiếp sức trao học bổng cho 787 học sinh và 326 sinh viên nghèo vượt khó ở các tỉnh Quảng Trị, Huế, Bình Thuận, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre và một số tỉnh khác. Trong đó, với tình thương và quan tâm của tăng thân Sen Búp Sydney – Úc đã yểm trợ học bổng cho hơn 110 em, tạo cho các em thêm một chút điều kiện để trang trải trong cuộc sống cũng như sự hứng khởi và niềm tin vào con đường học vấn tương lai.

Tại các tỉnh miền Nam, chương trình đã hỗ trợ lợp mái tôn mới cho 55 căn nhà của các gia đình nghèo. Ngoài ra, 20 giếng nước tưới hoa màu được trao tặng cho những hộ nông dân nghèo ở Đồng Nai, và hỗ trợ xây dựng một cây cầu ở Đồng Tháp với trị giá 200.000.000 đ nhằm giúp bà con có thêm điều kiện canh tác và sinh sống.

Trong không khí chan hòa đón mùa xuân về, chương trình đã trao tặng 4.660 phần quà yêu thương đến đồng bào có hoàn cảnh khó khăn trên khắp các miền quê hương Quảng Trị, Huế, Bình Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre và một số nơi khác để mọi người cùng nhau đón mừng Tết nguyên đán Ất Tỵ thêm ấm áp. 

Và một chương trình không thể thiếu đó là những món quà Tết dành cho các cháu ở các trường mầm non thuộc ba tỉnh Quảng Trị, Huế và Bình Thuận. Với 3.320 chiếc áo ấm và 1.100 bộ đồng phục Hiểu và Thương đã được quý thầy, quý sư cô hay đại diện các tác viên xã hội đem đến các trường, tận tay mặc cho các cháu trong niềm vui ngập tràn yêu thương dành cho các thế hệ tương lai, những mầm non đang hé của dân tộc. Trong câu chuyện trao đổi về các sinh hoạt của chương trình, một bác Tiếp hiện đã chia sẻ rằng: 

“Trong chương trình phát áo quần Tết mà Ni Trưởng luôn quan tâm đến các cháu người dân tộc thiểu số thì luôn bắt gặp những hình ảnh rất dễ thương. Con cảm nhận nhiều nhất được sự vui mừng rỡ của các cháu khi được mặc trên người bộ áo quần mới. Có những khi đoàn đến trường vào đúng giờ ăn trưa nhưng vì chuyến đi của đoàn còn thăm nhiều trường khác nữa nên phải tranh thủ tặng cho các cháu. Khi nhìn thấy các bạn của mình được quý sư cô lần lượt mặc bộ áo quần mới thì các cháu liền bỏ cơm và đến nói thì thầm với cô giáo: “Con rất thích có áo mới!” với đôi mắt long lanh. Nhìn các cháu nâng niu bộ áo quần mới, chiếc áo ấm mới mà thương biết bao. Và dù đi đến đâu, sinh hoạt tại các trường mầm non hay tặng quà trong những chương trình cứu trợ, đón Tết, quý thầy, quý sư cô và các tác viên xã hội vẫn luôn hướng dẫn cho mọi người tập hát các bài thiền ca – một chất liệu nuôi dưỡng bằng những trái tim tràn đầy yêu thương cuộc đời – làm cho không khí trở nên vui tươi và hào hứng hơn”.

Kính thưa quý vị thân hữu!

Trong năm vừa qua, cả dân tộc Việt Nam ta lại dậy lên tinh thần tương thân tương ái đồng hành cùng với đồng bào các tỉnh miền núi miền Bắc đi qua những mất mát đau thương do ảnh hưởng tàn phá nặng nề của cơn bão Yagi, cùng những cơn lũ quét gây ra bao đau thương mất mát lớn lao về cả con người và tài sản. Chúng ta đã không cầm được những giọt nước mắt xót thương. Chương trình đã thông qua thầy Từ Hải làm trưởng đoàn và phái đoàn quý thầy, quý sư cô tại tổ đình Từ Hiếu – ni xá Diệu Trạm phối hợp với các tăng thân, các cơ quan địa phương và các tình nguyện viên với những bước chân của hiểu và thương đã tổ chức những chuyến đi hướng về đồng bào đang gặp nạn và trao tới tận tay những phần quà yểm trợ tinh thần cho nhiều gia đình bị mất người thân, bị trôi hay sập nhà, những hoàn cảnh neo đơn và đặc biệt cho những học sinh vùng cao. 

Sau đó là những chương trình động viên, hỗ trợ bà con lợp mái tôn khắc phục đời sống sau bão lũ tại những vùng bị sạt lở nặng nề thuộc huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Đoàn đã vượt qua nhiều đoạn đường xa khó khăn và nguy hiểm để tới thăm hỏi và tặng nhiều phần quà cho các em nhỏ tại các điểm trường mầm non, tiểu học tại các huyện Bảo Yên, huyện Sapa. 

Đoàn cũng tặng hơn 180 máy lọc nước cho người dân các bản làng; yểm trợ hệ thống máy nấu nước nóng cho trường THCS Nội trú số 2 để các em học sinh tắm vào mùa đông và xây dựng một cây cầu Hiểu và Thương nối liền hai bản ở xã Nậm Xây, huyện Văn Bàn; thực hiện dự án trồng rừng với 20 hecta cây dẻ cười ở Si Ma Cai, thuộc tỉnh Lào Cai; trao tặng những thiết bị, đồ dùng thiết yếu, hỗ trợ dự án khoan giếng nước, xây dựng lại bếp ăn, làm cầu dân sinh ở huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái để giúp các thầy cô giáo vùng cao trong việc chăm sóc và giảng dạy cho các em học sinh tại các điểm trường bán trú, nội trú chịu ảnh hưởng do bão lũ gây nên… 

Thật xúc động biết bao khi nhìn thấy những nụ cười rạng ngời, những ánh mắt long lanh đầy vui sướng của các em nhỏ vùng cao khi được học những bài hát mới, được chơi đùa cùng quý thầy, quý sư cô. Lòng ai cũng hân hoan khi thấy các em cầm trên tay những chiếc balo với màu sắc mà mình yêu thích, những cuốn vở, những cây bút viết mới hay được đi thử đôi ủng để dành đi học trong những ngày mưa gió và được ăn những bát cơm đầy… Những món quà tuy nhỏ nhưng đã đem lại rất nhiều hy vọng, hiểu biết và thương yêu trong trái tim của rất nhiều người. Niềm vui của các em cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc của quý thầy, quý sư cô và tất cả những vị bồ tát đã chung tay góp sức, đóng góp cho chương trình. 

Như quý vị đã biết về sự cố cháy bất ngờ xảy đến với cư xá Mây Tím của quý sư cô ở tại xóm Hạ, Làng Mai, Pháp những ngày cuối năm 2024 đã làm bao người nao lòng. Trong hoàn cảnh ấy, tăng thân đã đón nhận không biết bao nhiêu là tình cảm thương yêu mà quý vị đã dành cho, khiến ai cũng nhận ra rằng dù trong hoàn cảnh nào, cấp thiết đến đâu, những trái tim yêu thương, những đôi chân không ngại gian khó, hiểm trở, những bàn tay ấm áp vẫn luôn tìm đến nắm lấy những bàn tay, san sẻ tình người. Mỗi người trong chúng ta đã trở thành một cánh tay của đức Bồ tát Quán Thế Âm!

Thay mặt cho tất cả, Chân Không kính gửi lòng tri ân sâu sắc đến quý vị ân nhân, các cá nhân, đoàn thể, tăng thân đã luôn đồng hành gửi gắm tình thương và tịnh tài đến chương trình Hiểu và Thương – cánh tay nối dài của quý vị đem những giọt nước từ bi thanh lương đến với đồng bào còn nhiều thiếu thốn, khó khăn. Nguyện cầu cho tất cả chúng ta cùng gia quyến đón chào một năm mới với thật nhiều bình an và hạnh phúc!

Sen búp xin tặng người!

Kính mến và tri ân!

Sư cô Chân Không. 

Mọi đóng góp cho chương trình Hiểu và Thương, xin gửi về các địa chỉ hoặc các ngân hàng sau:

Tại Việt Nam:

     Chủ tài khoản: Đỗ Thị Mỹ Phượng (Sư cô Chân Tư Nghiêm)

     Số tài khoản:   1052.585.720

     Ngân hàng:      Vietcombank 

Tại châu Âu và Mỹ, xin liên hệ Thich Nhat Hanh Foundation theo đường link: https://thichnhathanhfoundation.org/love-and-understanding-program



Nghệ thuật sống hạnh phúc

(Trích từ sách “Hạnh phúc cầm tay” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Cuộc sống đầy rẫy khổ đau nhưng cuộc sống cũng tràn đầy những mầu nhiệm như trời xanh, mây trắng, nắng ấm, ánh mắt trẻ thơ… Cuộc sống không chỉ có khổ đau, chúng ta phải biết tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Bất cứ lúc nào, những mầu nhiệm ấy cũng có mặt khắp nơi trong ta và chung quanh ta.

Nếu tự thân ta không có hạnh phúc, bình an thì chúng ta không thể hiến tặng hạnh phúc và bình an cho ai được, kể cả những người ta thương, những người ta cùng chung sống trong một mái ấm gia đình. Có bình an, hạnh phúc thì chúng ta sẽ mỉm cười và nở ra như một bông hoa, khi đó, mọi người chung quanh ta, từ gia đình cho đến xã hội, ai cũng được thừa hưởng. Chúng ta có cần cố gắng để hạnh phúc không? Có cần cố gắng để thưởng thức vẻ đẹp của trời xanh không? Có cần phải thực tập để có thể tận hưởng được vẻ đẹp đó không? Không. Chúng ta chỉ tận hưởng thôi. Mỗi giây, mỗi phút của đời sống hằng ngày đều có thể như thế cả. Bất cứ lúc nào, ở đâu, chúng ta cũng có khả năng thưởng thức nắng ấm, thưởng thức sự có mặt của nhau, hay thưởng thức hơi thở của chính mình. Chúng ta không cần phải đến Trung Quốc để ngắm trời xanh. Không cần phải đi về tương lai để thưởng thức hơi thở. Chúng ta có thể tiếp xúc với chúng ngay bây giờ. Nếu chúng ta chỉ để ý đến khổ đau thôi thì rất tội nghiệp.

 

 

Chúng ta quá bận rộn đến nỗi không có thời gian để nhìn mặt những người ta thương, kể cả những người trong gia đình ta. Ta cũng không có thời gian để nhìn lại chính mình. Xã hội đã tạo ra một lối sống mà ngay cả khi có thời gian rảnh rỗi, ta cũng không biết cách trở về tiếp xúc với bản thân. Ta đánh mất thời gian quý giá của ta bằng cả triệu cách: mở ti vi ra xem, nhấc điện thoại lên gọi, nổ máy xe đi đâu đó… Chúng ta không quen đối diện với chính mình, chúng ta chán ghét bản thân và muốn chạy trốn khỏi bản thân.

Thiền là ý thức những gì đang xảy ra trong thân thể, cảm thọ, tâm hành và thế giới. Mỗi ngày có hàng ngàn trẻ em chết đói. Những nước siêu cường quốc có đủ vũ khí hạt nhân để tiêu diệt hành tinh của chúng ta nhiều lần. Tuy nhiên mặt trời mọc sáng nay rất đẹp, những đóa  hồng nở ven tường sáng nay là một mầu nhiệm. Cuộc sống đáng sợ nhưng cuộc sống cũng mầu nhiệm. Thiền tập là tiếp xúc với cả hai mặt. Đừng nghĩ rằng chúng ta phải trang nghiêm mới thực tập được. Kỳ thực, thực tập giỏi, chúng ta phải cười nhiều.

Gần đây, khi đang ngồi với một nhóm trẻ, thấy Jim cười rất đẹp, tôi nói: “Jim, con cười đẹp lắm!”. Em trả lời: “Cám ơn Thầy”. Tôi nói: “Con không cần phải cám ơn Thầy. Ngược lại Thầy phải cám ơn con. Bởi vì nhờ nụ cười của con mà sự sống đẹp hơn. Vì vậy thay vì nói cám ơn, con có thể nói: “Đâu có gì đâu thưa Thầy, tự nhiên thôi mà!”

Nếu em bé mỉm cười được, nếu người lớn mỉm cười được thì điều đó rất quan trọng và đáng quý. Nếu trong đời sống hằng ngày ta có thể mỉm cười, ta có khả năng bình an và hạnh phúc thì không những ta mà tất cả mọi người đều được thừa hưởng. Đó là nền tảng căn bản nhất của công việc chế tác hòa bình. Khi thấy Jim cười, tôi rất hạnh phúc. Nếu cậu bé ý thức rằng cậu đang làm cho người khác hạnh phúc thì cậu có thể nói: “Bạn quá tuyệt vời”.

Xuân trong thơ thiền sư

Sư cô Chân Trăng Bảo Tích

 

“Châu báu chất đầy thế giới

Tôi đem tặng bạn sáng nay

Một vốc kim cương sáng chói

Long lanh suốt cả đêm ngày…”

 

Mùa xuân đang đến theo từng nhịp gõ của thời gian, bàng bạc khắp đất trời, trong lòng người, trong từng hơi thở chuyển mình nơi mỗi tế bào của vũ trụ. Mùa xuân mang đến những món quà mà mỗi người sẽ đón nhận và cảm nhận nó theo mỗi cách khác nhau. Và bài viết này sẽ mời bạn đến với một khung trời mà nơi đó chúng ta sẽ cùng nhau được nếm một chút “sắc hương mùa xuân” qua những cái nhìn và cảm nhận đặc biệt của các vị thiền sư. Mời bạn ngồi thật bình yên, cùng nâng trên tay một chén trà ấm và thơm để cùng nhau xuyên không gian, và cùng ngược về dòng lịch sử của “những mùa xuân năm trước”

         “Người ở trên lầu hoa dưới sân

         Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông

         Hồn nhiên người với hoa vô biệt

         Một đóa hoa vàng chợt nở tung.

         Phương phi xuân sắc trắng hay vàng

         Thời tiết tùy loài hợp sắc hương

         Khi mọi loài hoa rơi chật đất

         Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn.”

Đây là những dòng thơ của Thiền sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm. Ngài được mệnh danh là “thiền sư yêu hoa cúc”. Hoa cúc chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ Ngài. Như một người tri kỷ, Ngài ngồi ngắm hoa với cõi lòng thanh thoát, mặt rõ mặt, lòng tận lòng. Cả vũ trụ hội tụ nơi một điểm gặp gỡ. Không còn cái ranh giới phân biệt giữa hoa và người ngắm. Người đi vào trong hoa, hoa đã ở trong người. Đóa hoa vàng nở tung là một thực thể vật chất đang hiện hữu hay cũng chính là cái bừng sáng tĩnh tại trong cõi tâm thênh thang, rỗng lặng của người đang ngồi đó?

Mùa xuân, hàng trăm loài hoa đua nhau khoe sắc, én liệng bầu trời, hoàng oanh vẫy gọi. Không khó để hiểu những vị thiền sư thường cũng là những nhà thi sĩ, đó là bởi khả năng có mặt với thực tại, có mặt trong hiện tại để cảm nhận được những vẻ đẹp của sự sống xung quanh, những hiện hữu đang biến chuyển tinh tế trong từng sát na. Đây là những câu thơ trong bài “Cảnh xuân” của vua Trần Nhân Tông, vị tổ khai sơn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào thế kỷ 13:

         “Liễu rủ hoa hồng chim hát ca

         Mây chiều in bóng trước hiên nhà

         Khách vào, thế sự không cần hỏi

         Chỉ tựa lan can ngắm cỏ hoa.”

Tâm thế của một người vô sự còn được thể hiện rõ nét qua bài “Lên núi Bảo Đài”:

          “Cảnh vắng đài thêm cổ

           Xuân sang màu chửa hồng

           Xa gần mây núi hợp

          Rợp bóng nẻo hoa trồng

          Vạn sự nước xuôi nước

         Trăm năm lòng ngỏ lòng

         Tựa lan, nâng sáo thổi   

         Trăng sáng đầy cõi tâm.”

 

 

Kim chỉ nam trong thiền tập mà Trúc Lâm Đại Sĩ nêu ra đó là “miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác”. “Cảnh tịch an cư tự tại tâm”, tâm bình thì thế giới bình. Tâm không còn ruổi rong, tìm kiếm thì tự dưng sẽ thấy “châu báu đầy nhà”. Châu báu của mùa xuân là liễu rủ, hoa hồng, là chim hát ca, là mây núi bao la, là một đôi mắt còn sáng để thấy được hết cảnh sắc đang phơi bày của thế giới, là một đôi tai còn có thể nghe để nhận diện sự sống sinh động hùng vĩ đang chảy tuôn rạo rực trong từng khoảnh khắc, và một tâm hồn vẫn còn những sợi tơ rung động để có thể hòa nhịp, đồng cảm với sự sống. Và để rồi từ đó thấy mình trong sự sống bao la và cũng chính là sự sống bao la ấy, phá tung đi hàng rào của cái tôi nhỏ bé, giải phóng cái cảm giác mình là một bản ngã cô đơn tách biệt.

Hạnh phúc của một người tu chính là sự tự tại. Một tâm hồn tự do, “vạn sự nước xuôi nước, trăm năm lòng ngỏ lòng”. Đó là một thái độ không nắm bắt, cái trí tùy thuận, tâm không bị sai xử bởi những cái như ý và bất như ý diễn ra của cuộc đời. Trong cái tâm thế đó, tiếng sáo cất lên ắt cũng sẽ thênh thang chạm đến tột cùng. Tiếng sáo hòa vào trong ánh trăng, trăng chảy tràn vùng tâm thức. Tất cả hòa quyện thành một. Đó là một bản hòa ca. Cái hiện hữu duy nhất là bản hòa ca của vũ trụ.

Tinh thần thong dong, thái độ ung dung tự tại này còn được bắt gặp trong rất nhiều bài thơ thiền. Chẳng hạn dưới đây là bài tả cảnh cuối mùa xuân của thiền sư Vô Sơn Ông trong bài “Chùa Gia Lâm”:

         “Chân dạo tới thiền đường

         Cuối xuân sắc hoa nhạt

         Rừng vẳng tiếng ve suông

         Mưa tạnh trời bích ngọc

         Hồ lặng lộ khuôn trăng  

         Khách về, tăng chẳng nói

         Hoa thông rụng ngát vườn.”

Cái gì đến thì sẽ đến, cái gì đi thì sẽ đi. Mọi thứ vận hành theo quy luật nhân duyên. Không phải vì tâm mình cố níu giữ mà mùa xuân sẽ ở lại. Mưa rồi cũng sẽ có lúc tạnh để lại bầu trời quang. Vì mặt hồ lặng mà thấy được vầng trăng soi bóng. Thiền sư Hương Hải thế kỷ 17 cũng có những câu thơ rất nổi tiếng: “Nhạn quá trường không/ Ảnh trầm hàn thủy/ Nhạn vô di tích chi ý/ Thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Nhạn bay qua mặt hồ, nhạn đi rồi thì bóng cũng không để lại, mặt nước cũng không cố tình lưu bóng. “Đừng tìm về quá khứ, đừng tưởng tới tương lai”, đừng đánh mất mình trong những gì đang không là thực tại. Đó là nguyên tắc cốt lõi của chữ “thiền”. “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Đứng trước hiện tượng mà tâm lặng rỗng, không bị lay động bởi những nắm bắt hay xua đuổi, chỉ đơn thuần bình yên có mặt để thấy, để quán sát được tự tính nhân duyên đang vận hành, chữ “vô tâm” ấy chính là tinh yếu của thiền.

Khám phá với hai chữ “nhân duyên” sẽ giúp con người ta bớt được với nhiều khổ đau.

         “Niên thiếu chưa từng hiểu sắc, không

          Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng

          Diện mục xuân nay từng khám phá

          Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng.”

                      ( Trúc Lâm đại sĩ– “Cuối xuân”)

          “Xuân sang hoa bướm khéo quen thì

           Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ

          Nên biết bướm hoa đều huyền ảo

          Thấy hoa, mặc bướm, để lòng chi.”

                    (Thiền sư Giác Hải – “Thị tật”)

 

 

Mọi thứ đều do nhân duyên mà tụ hội. “Có thì có tự mảy may/ Không thì cả thế gian này cũng không”. Đó là thái độ không còn vướng vào hình sắc, có thể nhìn sự vật bằng con mắt vô tướng. “Đám mây không bao giờ chết”. Hình ảnh Trúc Lâm Đại Sĩ an nhiên ngồi ngắm cánh hồng đang rơi cũng dễ làm ta liên tưởng đến cành “nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác:

         “Xuân đi trăm hoa rụng

         Xuân đến trăm hoa cười

         Trước mắt việc đi mãi

         Trên đầu già đến rồi

         Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

         Đêm qua sân trước một nhành mai.”

Sự sống vẫn đang luôn trong những chu kỳ tái sinh và tạo dựng. Và cũng để nhắc nhở chúng ta thử nhìn lại rằng một kiếp người kéo dài được bấy mươi năm? “Chim quyên kêu rã bao ngày tháng/ Đâu phải mùa xuân dễ luống qua?”. Chúng ta có đang hoài phí những mùa xuân của cuộc đời mình không? Cuộc đời mình là để làm gì? Ta đã làm chi đời ta?

Thơ của các vị thiền sư thường như những “tiếng sấm”. Và những bài thơ trên là những tiếng “sấm xuân”. “Một tiếng sấm xuân vừa chấn động/ Khắp nơi cây cối nảy mầm non” (vua Trần Thái Tông). Đọc thơ thiền cũng là một cơ hội để được nghe những “tiếng thét” của các bậc tiền nhân lão bối mà “tỉnh giấc hôn trầm”, sống tỉnh táo hơn, có ý thức hơn và để trân quý sự sống, sự có mặt của mình giữa cuộc đời này hơn. Trên đây là một chút lòng của bậc hậu sinh với những cái nhìn, cái thấy, cái hiểu còn sơ sài, nông cạn tuy vẫn luôn hầu mong tìm theo được vết tích ấn tâm của các bậc tiền bối. Mùa xuân đang đến với bao chồi non lộc biếc mang theo những niềm hy vọng mới, thổi những luồng sinh khí mới. Xin cảm tạ bạn đọc đã cùng ngồi với nhau trong chuyến du hành không thời gian này. Xin chúc nhau một năm mới với thêm nhiều những chuyến du hành mới và luôn khám phá ra những điều đặc biệt và mới mẻ trong những khoảnh khắc của mỗi hành trình.

Làng, An Cư Kiết Đông 2024-2025

Lớp Văn Học Thiền: Thơ Văn Lý – Trần

Người đã về đã tới

(Thầy Chân Trời Hải Thượng)

Thứ … ngày … tháng … năm …

Tôi nằm trên cái võng xanh bên hành lang, ngay bên khoảng vườn giữa lòng tăng xá. Làng bao nhiêu người mà làm biếng là vắng hoe, im lìm. Người đi hết nên tôi chẳng cần đi tìm không gian tĩnh lặng ở đâu khác nữa. Một lúc mới có một thầy đi qua, thấy tôi chăm chú đọc sách liền chọc một câu: “Thầy có đang làm biếng thật không đó?” (“Are you truly lazy?”). Biết thầy đang nhắc vui nên tôi chỉ cười. Làm biếng tức là ngược lại với làm siêng. Thật thú vị khi nghĩ rằng ngày đầu tuần ngoài kia cả thiên hạ mải miết đổ về những “business” (công việc làm ăn) của họ thì chúng tôi không có thời khóa ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm im lặng gì cả. Thầy Kai Li kể lúc mới đến Làng, thầy đã rất lấy làm sửng sốt khi biết một tu viện mà làm biếng! Người ta còn chẳng dành bao nhiêu nước bọt để sách tấn nhau làm siêng. Một thầy tu làm biếng thì không phải không có, nhưng “lazy day” (ngày làm biếng) mà là thời khóa cho cả tu viện thì mới là điều đáng nói. Lúc đó, Sư Ông nói với thầy Kai Li rất nghiêm túc: “Đúng đó, thầy nên càng làm biếng càng tốt (Yes, you should be as lazy as possible)”. Sau này thầy nhận ra đó là một thực tập rất sâu sắc.

Thỉnh thoảng ta nghe người ta nói: “Đừng có ngồi không đó, làm gì đi chứ”. Điều này rất phổ biến vì xã hội của ta là một xã hội phải luôn có mục tiêu để hướng tới. Chúng ta có khuynh hướng luôn đi theo một chiều hướng nào đó và luôn có một mục tiêu đặc biệt trong tâm thức. Trái lại, đạo Bụt tôn trọng giáo lý vô nguyện (vô tác). Những người thực tập chánh niệm thì thường hay nói: “Đừng làm gì hết, hãy ngồi yên đó”. Không làm thực ra cũng là làm. Giáo lý này dạy ta không cần phải đặt ra một mục tiêu phía trước để chạy theo, bởi vì mọi thứ đã có sẵn trong ta rồi.

 

 

Tôi thấy mình thực tập thành công hơn với những ngày “im lặng hùng tráng” toàn chúng, khi không ai động đến sách vở, giấy bút, mạng máy gì cả. Còn thật tình tôi cũng hay biến thứ Hai thành ngày “xả hơi”, nghỉ ngơi, đi chơi sau những ngày “chạy việc”, chứ không theo đúng tinh thần “không đi đâu nữa, có chi để làm”. Đã từng đi học, đi làm, tham gia vào guồng quay bên ngoài nên vẫn còn cảm giác ngồi không là tội lỗi. Có mười lăm ba chục phút trống liền gắng tìm việc làm thêm cho đỡ tiếc. Còn các thiền sư thì dành mấy giờ đồng hồ chỉ để thiền trà, làm từng động tác và thưởng thức từng động tác. Tu rồi tôi mới biết người tu trông giống ngồi không, vô công nhưng thực ra không phải. Cái “business” (công việc) của người tu khác với người đời.

Giờ chiều cư dân của Làng từ những chỗ “ẩn cư” xuất hiện đông đúc trở lại. Có vài thầy và sư chú mặc áo tràng cúng cháo. Nhịp mõ khi tụng chú đi nhanh hòa với giọng tụng nghe rất đã tai. Vì tối nay có thời khóa nên Tâm Nguyên rủ tôi đi bộ sớm hơn hôm trước. Đi mời gọi thêm, cuối cùng chúng tôi có cả thảy bốn người. Dư âm của tiếng chuông tiếng mõ còn chưa dứt, tôi kể với các em là mỗi lần làm lễ mà tụng đến hai câu:

“Nguyện sinh về tịnh độ, Sen nở thấy vô sinh”

là tôi thấy tức cười. Tâm Nguyên vì từng là chú tiểu nên rành các nghi lễ truyền thống đã giải thích cho chúng tôi biết rằng những câu ấy không phải Sư Ông tự đặt ra. Để khai thị cho người nghe, các vị thiền sư xưa đã đưa vào các nghi lễ những giáo lý như:

“Tịnh Độ vốn sẵn nơi chân tâm, Di Đà hiện ra từ tự tánh, Chiếu sáng ba đời khắp mười phương, Mà vẫn không rời nơi hiện cảnh…”

để sau này ta còn thấy được thấp thoáng trong đạo Bụt tín mộ, đạo Bụt bình dân những viên ngọc tuệ giác như vậy. Tôi lấy làm vui trong lòng vì thấy Tâm Nguyên đã chững chạc, trưởng thành lên nhiều. Em trầm tính hơn, thích dành thời giờ ngồi yên một mình và ham đọc sách. Lớn lên từ nhỏ trong một ngôi chùa quê tu pháp môn niệm Phật, ban đầu khi giới thiệu em qua Làng tôi cũng lo em sẽ khó thích nghi với môi trường ở đây. Nhưng hôm nay tôi cảm được là Tâm Nguyên đã làm hòa được hai dòng chảy này trong mình rồi.

Thứ …, ngày… tháng… năm…

Tôi rời phòng đi ngồi thiền từ sớm để có được cái cảm giác đặt từng bước chân trên đường khi xung quanh tiếng chuông đại hồng âm vang theo lời kệ xướng. Lên tới thiền đường đã thấy có vị đến trước để thực tập lạy Bụt. Hôm nay mấy sư anh đi ra ngoài gần hết nên khi ngồi xuống tụng kinh thấy hơi lúng túng chuyện mình phải lên ngồi gần bàn thờ. Từng sống ở chúng rất đông cũng như chúng rất ít người mới biết quý cái không khí “hùng kinh mỗi sáng gọi nắng mai bừng lên”. Buổi tụng kinh nào cũng thường gồm một bài tụng và một bài đọc. Cách học kinh của Làng là tưới tẩm, người tu không buộc phải học thuộc lòng kinh hay giới nhưng quanh năm suốt tháng các bài kinh xoay vòng gieo vào lòng. Những câu kinh như “Nguyện thấy được Tịnh Độ, dưới mỗi bước chân mình; Nguyện tiếp xúc bản môn, trong mỗi khi hành xử” có thể chẳng tốn thời gian ôm sách ê a. Dễ hiểu một phần bởi nó là một với thứ ngôn ngữ ta nói hằng ngày. Nếu còn dùng những văn bản như “Tự thị bất quy, quy tiện đắc” thì chẳng khác phải học thêm một ngoại ngữ, bởi âm một đằng nghĩa một nẻo… “Thức đã không như bất cứ hiện tượng nào khác thì còn có gì cần được tạo tác nữa đâu? Phép quán sát này được gọi là Vô Tác, cánh cửa giải thoát thứ ba”. Hôm nay vị đọc câu kinh này đã ngắt đúng ở chữ “không”. Nếu đọc liền một mạch thì nghe xuôi nhưng thực ra nghĩa lý lại lộn ngược.

 

 

Giờ sáng phòng còn có mình tôi vì các sư chú đi học lớp ngoại ngữ. Thấy tờ Lá thơ Làng Mai cũ sẵn trên bàn của Tâm Nguyên, tôi lật vài trang xem hình. Bị cuốn vào bài bình thơ Bàng Bá Lân của Sư Ông, tình cờ tôi thấy một đoạn Sư Ông nói trúng ý mình đang tìm:

“Ai mà không cần một giấc mơ!? Theo phương pháp thực tập của Làng Mai thì mình phải làm cách nào để giấc mơ hiện thực ngay trong ngày hôm nay… Tôi cũng vậy, tôi nghĩ rằng mơ ước của tôi, tôi có thể đưa tay ra đụng tới nó bất cứ một giây phút nào trong đời sống hàng ngày.”

Đoạn này làm tôi nhớ có lần ở Đức, một cô cư sĩ hỏi rằng Sư Ông đã có tuổi rồi, liệu Sư Ông còn ước mơ nào chưa thực hiện nữa không? Sư Ông đã trả lời rằng:

“Này con, ngày nào thầy cũng được sống và làm những gì thầy ưa thích. Thầy không còn dự án nào nữa cả, không còn mong ước gì nữa cả.”

Một điều Sư Ông nhấn mạnh ở đây, đó là giấc mơ của mình, mình có thể chạm tới liền nếu mình muốn. Bằng cách nào? Đâu phải Sư Ông không chỉ bảo tận tình cho mình. Bao lần huynh đệ chúng ta đã hát “Chỉ cần một hơi thở nhẹ, là bao phép lạ hiển bày”. Một buổi ngồi thiền nào đó, ta có thể lại nghe giọng nói ấm áp của Sư Ông bên tai:

“Bạch đức Thế Tôn… khi con thở vào, con thấy là con đã về. Khi con thở ra con thấy là con đã tới. Con đã về trong phút giây hiện tại. Đó là quê hương đích thực của con. Con đã tới, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, với tịnh độ hiện tiền. Điều này có thể thực hiện trong vòng một hơi thở vào hay một hơi thở ra. Nếu con có thể về được, tới được thì con có cần phải làm gì nữa đâu. Con có thể mặc tình thích ý rong chơi trong cõi Bụt.”

Giống như “hạnh phúc”, “liền lập tức” đã trở nên quen tai tới mức nhiều người trong chúng ta đã quên đi giá trị đích thực của nó. Đó phải chăng chỉ để đáp ứng thị hiếu “mì ăn liền” của con người hiện đại? Giáo pháp của Đức Như Lai vốn “vượt thoát thời gian”, nếu không ăn được liền lúc này thì ta cũng không bao giờ nếm được nó. Now or never! (Bây giờ hoặc là không bao giờ)

Tôi định dành buổi chiều thứ Sáu để kiếm những dữ kiện cuối cùng cho bài viết. Tâm trạng nửa như bị hối thúc, nửa như chơi. Lên ngôi chùa điện tử, “Xứ sở của giây phút hiện tại”, lục tìm các hình chụp thư pháp của Sư Ông nhưng không thấy câu nào ưng ý. Hoặc là trong cái kho pháp thoại mênh mông vẫn có những ý hay nhưng ai biết chính xác ở đâu mà tìm?

Lang thang tình cờ tôi đọc được một bài viết của thầy Minh Hy, kể chuyện một lần Sư Ông dạy:

“Quả thứ nhất ‘Đã về – Đã tới’ ở Làng Mai hơi khác với quả Dự Lưu trong truyền thống. ‘Dự Lưu’ thì còn phải đi nữa, còn ‘Đã về – Đã tới’ thì không cần tìm cầu chi nữa. ‘Người chẳng tìm cầu chi nữa’. Câu này hay lắm, mình phải viết lại, nếu mất thì uổng lắm. Ai chứng được quả này rồi thì mình nhìn mình biết liền, không cần người ấy nói.”

Cả câu đối vốn là thế này:

Tịnh độ nơi đây thích ý rong chơi người chẳng tìm cầu chi nữa
Bản môn bây giờ phỉ lòng an trú ta há theo đuổi gì thêm

Chưa rõ nó đang ngự ở thiền đường nào. Tìm không thấy câu thư pháp mình cần, tôi tính bỏ cuộc. Chắc nhiêu đó cũng không thừa thiếu gì. Phòng máy vắng vẻ, chỉ có một sư em ngồi bên đang xem lại một đêm nhạc thiền. Văn nghệ ở Làng có nhiều kiểu loại. Những đêm nhạc thiền thì chất hơn cả, bởi các tiết mục được để tâm đầu tư nhiều về nội dung. Máy tính chỗ tôi ngồi không loa, tai nghe lại hỏng nên tôi chỉ xem ké máy bên một đoạn. Sư em nói rằng cả buổi trình diễn này chỉ đọc một bài thơ duy nhất, một câu chuyện được kể xen kẽ thơ với nhạc. Vậy ra Sư Ông có một bài thơ tên là “Câu chuyện của dòng sông”? Hay một truyện ngắn?

“Đêm hôm đó, dòng sông có cơ hội để nghe được tiếng khóc của mình. Đó là tiếng sóng vỗ vào hai bên bờ sông. Khi nó nghe được tiếng sóng vỗ của chính nó, dòng sông tỉnh ngộ. Nó hiểu ra là bản chất của sông cũng là bản chất của mây. Nó chính là mây. Mây đang nằm trong sông vì cả hai cùng có bản chất là nước. Mây làm bằng nước. Vậy thì tại sao mình phải chạy theo mây? Sông tự nhủ, “ta chỉ chạy theo mây nếu như ta không phải là mây mà thôi!”

Khi chúng ta chạy đuổi theo một thứ gì, muốn nắm bắt nó, ta sẽ đau khổ. Khi không có gì để đuổi theo, ta cũng khổ đau. Nếu bạn đã là dòng sông, nếu bạn đã từng chạy theo mây, đau khổ, than khóc vì cảm thấy cô đơn, xin hãy nắm lấy tay chính mình như nắm tay một người bạn. Hãy quán chiếu thật sâu, bạn sẽ thấy rằng thứ mà bạn tìm kiếm kia vẫn thường hiện diện ngay đây, đó chính là bạn! Bạn là thứ mà bạn muốn trở thành.

Vẫn là chuyện của kẻ đi kiếm và thứ để tìm. “Ai tìm, mà ai được?”. Tôi ôm võng đi tìm chỗ yên tĩnh, cắp thêm mấy cuốn sách Phép lạ của sự tỉnh thức, Trái tim mặt trời, Nẻo về của ý… để xem lại những tư tưởng thiền cô đọng nhất của Sư Ông thuở ban đầu mà tôi đã đánh dấu cho bài viết.

“Chúng ta quen sống với sinh diệt mà không quen sống với bất sinh và bất diệt. Sóng sống đời sống của nước hoặc ta sống đời sống của bất sinh bất diệt, điều ấy nào có lạ lùng gì, nào có khó khăn gì. Thì bao giờ mà sóng chẳng sống đời sống của nước, ta chẳng sống đời sống của bất sinh bất diệt? Chỉ cần biết là ta đang sống tròn đời sống của bất sinh bất diệt mà thôi. Tất cả nằm trong một tiếng biết, mà biết tức là nhận ra, là chánh niệm. Bao nhiêu công phu của thiền quán chỉ là để tỉnh dậy mà biết một điều đó: sinh diệt đâu có động gì được đến ta.” Trích tác phẩm Trái tim mặt trời của Sư Ông

Gập cuốn sách nhìn lên, tôi thấy trong tấm cửa kính lớn bóng mình nằm trên võng dưới hiên, quay lưng với nắng đang phối màu cho đồi xanh và mây trắng cuồn cuộn nổi. Lá rơi tơi bời, tôi nằm lơ lửng giữa trời. Mây trắng cao đẹp như vậy, ắt hẳn đâu đó vẫn có những dòng sông đang ôm mây trong lòng mà vẫn cồn cào. Bóng mây trôi qua, bức thư pháp nhỏ của ai sau cửa kính trong phòng lọt vào tầm nhìn tôi: “Ta còn tìm cầu chi nữa? This is it!”. Ngay ở đó, chính là nó!

 

(Trích từ Tập san Giếng Nước Thơm Trong, số 2)

 

Hiến tặng an lạc cho cuộc đời

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 09.07.2006 tại xóm Thượng, Làng Mai)

Chúng ta có Tam Bảo như một dòng sông nước ngọt, gồm có Bụt, Pháp và Tăng. Chúng ta được dạy rằng mỗi người trong chúng ta đều có Phật tánh. Tuy chúng ta là chúng sanh, nhưng đồng thời cũng là Bụt. Nếu vứt bỏ chúng sanh, ta không thể nào tìm ra Bụt được. Do đó, ta phải tìm Bụt ngay trong chính chúng sanh của mình. Khi ta đang là chúng sanh, điều đó có nghĩa là ta đang mang trong mình bản chất của một vị Phật.

Vậy thì chúng ta đi tìm Bụt ở đâu? Chúng ta đi tìm sự giải thoát, giác ngộ, hạnh phúc ở đâu? Không cần tìm kiếm đâu xa, bởi tất cả đều có ngay trong thân và tâm của chính mình. Nếu ta muốn tìm Bụt, ta phải tìm ngay trong thân và tâm. Nếu ta muốn tìm Tịnh độ, ta cũng phải tìm trong chính thân tâm này. Sự giải thoát và tự do cũng nằm ngay trong đó.

Chúng ta hãy tập nhìn thân và tâm của mình như một vũ trụ nhiệm mầu, nơi ta có thể tìm thấy tất cả những gì mình mong cầu. Giải thoát, giác ngộ, an lạc hay Tịnh độ – tất cả đều nằm trong đó. Khi ta hiểu và nhận ra điều này, ta sẽ nuôi dưỡng một lòng kính ngưỡng sâu sắc đối với thân và tâm của chính mình, không còn xem thường hay hủy hoại chúng nữa.

Nếu ta khinh thường thân thể, nếu ta ghét bỏ hoặc coi nhẹ thân mình, nghĩa là ta đang đánh mất tất cả. Vì thân và tâm không phải hai thực thể tách biệt. Ngoài thân không có tâm, mà ngoài tâm cũng không có thân. Do đó, có được thân tâm này, ta có cơ hội tìm ra sự giải thoát, giác ngộ và hạnh phúc. Khi ta biết nhìn thân tâm bằng một thái độ cung kính, ta cũng sẽ biết kính trọng thân tâm của người khác. Không có sự khinh thường, không có sự phân biệt, vì ta không thể tìm thấy Tịnh độ, giác ngộ hay Bụt ngoài thân và tâm của chính mình.

Dù đến từ truyền thống Ki-tô giáo, ta cũng có thể nhận thấy điều tương tự: Thiên quốc, Thượng Đế hay Chúa Kitô đều nằm trong thân và tâm, chứ không phải ở một nơi xa xôi nào đó. Khi ta nhận ra thân và tâm mình chứa đựng sự màu nhiệm của pháp giới, của vũ trụ, của Bụt, ta sẽ có một cái nhìn khác về chính bản thân. Ta không còn xem thân này là thứ tầm thường hay ghét bỏ nó.

Ngày xưa, Thầy có viết một bài thơ với câu:

“Đừng ghét bỏ thân thể em,
Vì đó là đền thờ của linh hồn nhân loại.”

 

Nếu ta học được giáo pháp từ Đức Thế Tôn, ta sẽ có cơ hội trở về với chính thân tâm của mình, tìm thấy hạnh phúc, thảnh thơi, tự do và giác ngộ mà ta hằng tìm kiếm. Tại Làng Mai, Thầy dạy chúng ta rằng ta phải có mặt cho chính thân tâm mình.

 

 

Thân và tâm ta là một vương quốc, và ta chính là vị quốc vương chịu trách nhiệm cho vương quốc đó. Vương quốc này rộng lớn, bao gồm năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Làm sao ta có thể có an lạc và hạnh phúc nếu ta không thực sự có mặt cho thân và tâm mình? Một vị quốc vương không thể bỏ bê vương quốc của mình. Vì vậy, sự thực tập của ta chính là luôn có mặt cho thân và tâm.

Thân và tâm cần sự hiện diện của ta. Và để có mặt cho mình, ta cần thực hành các phương pháp cụ thể. Mỗi khi ta thở có ý thức, ta đưa tâm trở về với thân, và ta đang thực sự có mặt. Khi bước chân đi trong chánh niệm, mỗi bước chân đưa tâm trở về với thân, giúp ta hoàn toàn hiện diện trong khoảnh khắc ấy. Đây chính là sự thực tập căn bản của chúng ta.

Khi ta thật sự có mặt cho chính mình, thân và tâm ta sẽ được chăm sóc. Khi thân và tâm được chăm sóc, ta sẽ cảm nhận được sự lắng dịu, sự an lạc.

Nhiều khi ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ đến khi được ở bên người ta thương. Ta ao ước có người đó bên cạnh để cảm thấy hạnh phúc. Ta tin rằng nếu không có người ấy, ta không thể có hạnh phúc. Nhưng sự thực tập của ta là phải có hạnh phúc ngay cả khi ở một mình.

Kinh Người Biết Sống Một Mình dạy rằng dù ta đi bộ hay uống trà với người khác, nếu ta không thực sự có mặt cho chính mình, thì phẩm chất của sự có mặt ấy sẽ rất nghèo nàn. Vì vậy, muốn có mặt cho người khác, cho cuộc đời, ta cần phải tập có mặt cho chính mình trước.

Nếu ta có thể có hạnh phúc khi ở một mình – khi ngồi, khi đi, khi uống trà – thì khi ở bên người khác, ta sẽ có khả năng lan tỏa hạnh phúc ấy. Chúng ta chỉ có thể làm người khác hạnh phúc khi chính chúng ta đã thực sự có hạnh phúc. Khi có mặt cho bản thân một cách vững chãi, khi có an lạc và thảnh thơi, ta mới có thể chia sẻ những điều ấy với người khác.

Vì vậy, ta cần tự hỏi: “Mình có gì để hiến tặng?” Sự thực tập của ta hướng đến việc hiến tặng. Nhưng ta sẽ hiến tặng điều gì? Ta hiến tặng sự vững chãi, sự thảnh thơi (tức là tự do), và sự an lạc. Nếu không có những phẩm chất ấy, ta không có gì thực sự để hiến tặng.

Ở Làng Mai, có một câu linh chú:

“Darling, I’m here for you.”
(Người thương ơi, tôi đang có mặt cho anh đây.)

Món quà quý giá nhất mà ta có thể hiến tặng cho người khác chính là sự có mặt đích thực của mình – sự có mặt trong đó thân và tâm hợp nhất, hòa điệu, thảnh thơi.

 

 

Là một tăng thân, một cộng đồng, ta cần có mặt cho chính mình trước khi có thể chăm sóc và hỗ trợ người khác. Làng Mai không phải là một khách sạn hay một nhà ăn, chỉ cung cấp chỗ ngủ và thức ăn. Điều ta muốn cung cấp là sự an lạc và vững chãi – nhưng những thứ đó không thể mua ở bên ngoài. Ta có thể mua thêm nệm trải giường, mua thêm thức ăn, nhưng không thể mua được “an” và “lạc”.

An và lạc phải được tự chế tác qua sự thực tập của ta.

Khi là một sư anh, ta mong rằng sư em của mình biết chăm sóc bản thân, biết thở, biết bước đi trong chánh niệm, biết nở nụ cười để có mặt cho chính mình. Khi thấy sư em làm được điều đó, ta có một niềm vui rất lớn. Nếu sư em chưa biết chăm sóc bản thân, ta phải giúp em ấy học cách làm điều đó.

Ta có thể hỏi: “Này em, em có gì để hiến tặng cho người khác không?”

Nếu sư em chưa có gì để hiến tặng, ta phải là tấm gương, để em thấy rằng một sư anh có an, có lạc, có sự vững chãi, có khả năng hiến tặng.

Sự hiến tặng này không phải là lao tác nặng nhọc. Ngoài đời, người ta lao tác để có lương, còn ở đây, ta không có đồng lương nào. Lao tác của ta không phải là sự hiến tặng lớn nhất, mà chính tình thương và hạnh phúc của ta mới là món quà đích thực.

Muốn hiến tặng mãi mãi, ta phải nuôi dưỡng sự thực tập của mình trong từng bước chân, từng hơi thở, từng nụ cười. Và khi ta hiến tặng, chính ta là người thừa hưởng nhiều nhất.

 

Ngõ bình yên

(Sư cô Chân Trăng Thiên Hà)

Người nữ tu
Thức sớm
Trăng chờ ngoài hiên gió
Chiếc áo len khoác qua mảnh vai yên.

 
 

Người nữ tu
Chân trần in đá sỏi
Tiếng bước chân giữa trời mai huyền diệu
Từng bước thảnh thơi
Hơi thở đầy ánh trăng
Nắng trong
Hạt sương thơm
Bích đào hồng lên khoảng trời mới hé.

Người nữ tu hạnh phúc
Mỉm cười
Chạm vào ngõ bình yên
Chiếc lá rơi nghiêng qua trời thực tại
Im lìm nghe đá sỏi hân hoan.

 

 

Mỗi phút giây – tôi học làm người yêu chân thật

(Trích từ sách Bây giờ mới thấy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Bạn đừng đi tìm hạnh phúc trong tương lai. Bạn đừng chờ đợi cái ngày ấy, cái bao giờ ấy. Bạn đừng nói chỉ khi nào, chỉ bao giờ tôi có được cái ấy thì tôi mới có hạnh phúc. Cái ấy là cái gì? Cái ấy là cái danh, cái ấy là cái lợi, cái ấy là cái quyền hành, cái ấy là cái sắc dục. Đừng dại dột nói rằng chỉ khi nào, chỉ bao giờ anh có được những cái ấy thì anh mới thật sự có hạnh phúc. Hãy nhìn quanh. Có bao nhiêu người đang có những cái ấy, thế mà họ vẫn không hạnh phúc. Họ không bao giờ thấy họ có đủ những cái ấy. Bởi vì túi tham không có đáy. Khát nước mà cứ ăn muối thì lại càng khát. Họ không biết được rằng chỉ có cái tri túc mới làm cho ta hết khát và đem lại cho ta hạnh phúc. Ngày xuân, người thiếu phụ trang điểm và leo lên lầu nhìn xuống. Sắc màu của những cây dương liễu mùa xuân mầu nhiệm quá, nhưng nàng không có hạnh phúc. Tại vì chàng không có mặt đó. Mùa đông năm rồi nghe lời nàng, chàng đã ra đi để kiếm chút công hầu, nghĩ rằng có nhau thì chưa đủ, phải có một chút danh vọng và quyền hành nào đó thì họ mới thật sự có hạnh phúc. Và người thiếu phụ bắt đầu hối tiếc đã để cho chồng ra đi tìm kiếm một chút danh lợi trong cuộc đời.

Có người nói yêu nhau không phải là ngồi đấy để nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng. Có thật sự như thế không? Nếu cả hai cùng phải nhìn về một hướng, thì hướng ấy là hướng nào? Hướng của công hầu ư? Như vậy có nghĩa là tình của ta chưa đủ làm cho ta có hạnh phúc. Hoặc nếu đó là hướng của chiếc máy truyền hình. Nếu đó chỉ là hướng của cái Tivi thì sự thật quả là sầu thảm. Ngày xưa chỉ cần nhìn nhau là hạnh phúc. Bây giờ nhìn nhau thì không còn hạnh phúc nữa, bởi vì cả hai đứa đã từng làm khổ nhau. Cho nên nhìn về phía máy truyền hình chỉ là để khỏa lấp sự trống vắng và khổ đau trong bản thân của mỗi người.

 

 

Còn nếu cái hướng cả hai người đang nhìn về đó là hướng của lý tưởng, thì cái lý tưởng ấy là gì? Cố nhiên không phải là cái hướng của quyền hành và danh lợi. Bởi vì quyền hành và danh lợi không phải là lý tưởng. Lắm khi cái vỏ ngoài lý tưởng mà mình ca ngợi chỉ chứa đựng được cái nội dung quyền hành và danh lợi bên trong. Chúng ta tự đánh lừa chúng ta và chúng ta đồng thời đánh lừa những kẻ khác. Đạo pháp, dân tộc, nhân loại, chủ nghĩa xã hội, chân, thiện, mỹ.

Tại sao ta không có quyền ngồi đó để nhìn nhau? Nhìn nhau để thấy được cái mầu nhiệm của nhau, và cũng để thấy được cái mầu nhiệm ấy nơi chính mình, để cho mình biết trân quý nó. Nhìn nhau là để nhận diện được những mầu nhiệm trong cái bây giờ và ở đây. Nhìn nhau cũng là để thấy được những thao thức, những khổ đau của người kia và cũng là của chính mình. Thấy và hiểu được những nỗi khổ niềm đau ấy làm cho cái hiểu biết và cái thương yêu lớn lên: đó là bí quyết của phép nuôi lớn tình yêu.

“Không có gì có thể sống mãi nếu không có thực phẩm.

Tình yêu cũng vậy. Dù đẹp cách mấy thì tình yêu cũng là vô thường. Ta phải học nuôi tình yêu.”

 

Nuôi tình yêu bằng thực phẩm nào? Bằng cái hiểu và cái thương.

Mà chỉ khi ta biết cách nhìn nhau, và biết cách nhìn lại bản thân mình, ta mới chế tác được hai loại năng lượng quý báu ấy để nuôi lớn tình yêu. Nuôi lớn tình yêu, không những ta trị liệu được cho bản thân mà ta còn trị liệu được cho người bên cạnh. Tình yêu càng được nuôi lớn càng có đối tượng lớn. Người yêu ơi, tình yêu của anh nếu là tình yêu chân thật thì nó sẽ lớn lên không ngừng và sẽ ôm từ từ hết cả mọi người và mọi loài. Tình yêu của anh không những nuôi dưỡng được anh mà còn nuôi dưỡng được tất cả chúng tôi. Đó là tình yêu không biên giới, không kỳ thị. Đó là trái tim chứa đựng được thái hư. Đó là vô lượng từ, vô lượng bi. Nó đem niềm vui cho tất cả cho nên nó là vô lượng hỷ. Nó không loại trừ bất cứ ai cho nên nó là vô lượng xả. Tình yêu không lớn lên là tình yêu đang bắt đầu chết. Cho nên nhìn nhau là để nuôi lớn tình yêu. Nhìn vào nỗi khổ niềm đau của người yêu, ta thấy được nỗi khổ niềm đau của mọi loài, và tâm bi của ta sẽ lớn lên, hùng tráng như sấm động, lòng từ của ta sẽ là mưa cam lộ thấm vào trái tim của mọi loài. Một đám mây trông hiền lành như thế nhưng có khả năng tạo thành sấm sét. Tình thương chân thật không bao giờ là sự yếu đuối. Đại bi là đại dũng. Đại từ cũng là đại dũng.

Khoá tu “Bình an trong từng hơi thở – Bình an trong mỗi con người” tại chùa Pháp Hoa, Vancouver – Canada 2025

 

Kính thưa quý vị!

Hành trình hoằng pháp tại Canada năm 2025 của quý thầy, quý sư cô Làng Mai sẽ tiếp tục được diễn ra tại chùa Pháp Hoa, Vancouver từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 05.

Kính mời các bạn cùng trở về chùa để tham dự khoá tu cuối tuần. Trở về để chúng ta cùng nhau học cách thở chánh niệm để an trú trong giây phút hiện tại, học cách nuôi dưỡng bình an, chế tác những niềm vui và hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. Đây cũng là cơ hội để mỗi người trong chúng ta khám phá được những giá trị đích thực của nội tâm và kết nối để lan toả tình thương, sự chữa lành những thương tích, cùng nhau nâng đỡ trên hành trình tỉnh thức.

Để đăng ký ghi danh khoá tu, xin quý vị truy cập vào đường link:

Khoá tu “Bình an trong từng hơi thở – Bình an trong mỗi con người” tại chùa Pháp Hoa, Vancouver – Canada 2025

Mọi thắc mắc xin liên hệ về email:

dangky.phaphoa@gmail.com