(Phiên tả Pháp thoại ngày 08 & 11 tháng 01 năm 1998, Làng Mai, Pháp)
Kinh Diệt trừ phiền giận được dịch từ kinh Thủy dụ (水喻經), Taishō 26, kinh số 25 trong bộ Trung A hàm (Madhyama Āgama). Kinh này cũng có trong Tăng chi bộ (Aṅguttara Nikāya), chương Năm, phẩm XVII, kinh Āghātapaṭivinaya.
Kinh Diệt trừ phiền giận do thầy Xá Lợi Phất nói. Chúng ta sẽ thấy các kinh do thầy Xá Lợi Phất nói cũng hay như kinh do Bụt nói và chúng ta sẽ có niềm tin về sự tiếp nối này. Trong Tam tạng kinh điển, ngoài những kinh do Bụt trực tiếp nói, còn có những kinh khác do các thầy và các sư cô nói ngay trong thời đức Bụt còn tại thế. Điều này chứng tỏ có sự tiếp nối ngay trong thời của Bụt.
Thủy dụ có nghĩa là ví dụ về nước. Có nhiều kinh lấy những hình ảnh gần gũi đời thường làm ví dụ như kinh Xà dụ (ví dụ về con rắn), kinh Nguyệt dụ (ví dụ về mặt trăng). Ở đây thầy Xá Lợi Phất đã lấy nước làm hình ảnh để dạy các sư em của thầy làm thế nào diệt trừ phiền giận. Điều này chứng tỏ rằng vào thời của Bụt, các thầy trong tăng đoàn thỉnh thoảng cũng có giận nhau và không nhìn mặt nhau. Thầy Xá Lợi Phất thấy được điều đó nên đã giảng kinh này để giúp cho các thầy đừng giận nhau nữa. Đây là một kinh rất thực tế, chúng ta phải đọc nhiều lần để có thể học được phương pháp của sư anh Xá Lợi Phất. Thầy vẫn là sư anh của chúng ta.
Ðây là những điều tôi đã được nghe, hồi Bụt còn cư trú trong tu viện Cấp Cô Ðộc, rừng Thắng Lâm, tại thành Xá Vệ.
Hôm ấy, tôn giả Xá Lợi Phất nói với các vị khất sĩ:
“Này các bạn đồng tu, hôm nay tôi muốn chia sẻ với các vị về năm phương pháp diệt trừ phiền giận. Xin các bạn lắng nghe và chiêm nghiệm.”
Các vị khất sĩ vâng lời và lắng nghe. Tôn giả Xá Lợi Phất nói:
“Năm phương pháp diệt trừ phiền giận ấy là những phương pháp nào?
“Ðây là phương pháp thứ nhất, này các bạn:
“Nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương nhưng lời nói lại dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên biết cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi.”
Đây là trường hợp thứ nhất: đối xử với những người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói lại dễ thương.
Chúng ta hãy nhìn trong tăng thân xem thử có người nào như vậy không? Hành động có vẻ không mấy thiện cảm nhưng khi nói thì có những lời dịu dàng, dễ thương. Ít nhất là ta phải thấy được điểm tích cực nơi người kia, khi đó ta có thể dễ dàng tha thứ được những điểm tiêu cực của họ. Thông thường khi chúng ta đã thấy điểm tiêu cực của ai đó, thì tất cả những điểm tích cực của người đó lập tức bị che lấp hết. Đó là nhược điểm chung của tất cả chúng ta. Khi người kia nói hay làm điều gì đó khiến cho ta bực bội thì ta liền bị cái khuyết điểm của người đó tràn lấp tâm tư và ta không còn thấy được những mặt tích cực của người đó, vậy là ta giận, ta buồn rầu, ta đau khổ. Nếu không để cho điều tiêu cực đó lấn áp thì ta vẫn giữ được hạnh phúc và tình thương của ta.
Trong sự thực tập của Làng Mai, chúng ta thường lấy hình ảnh khu vườn làm ví dụ. Khi ra vườn, thấy có một cái cây đang héo, đang chết, ta đừng vì vậy mà buồn khổ. Bởi vì ngoài cây đang héo đó còn có biết bao nhiêu cây khác đang xanh tốt, đang khỏe mạnh, cho ta rất nhiều niềm vui và bóng mát. Vì một cây đang héo mà ta sầu khổ thì rất uổng.
Mỗi người đều là một khu vườn của mình. Anh là khu vườn của tôi. Trong khu vườn ấy có vài cây đang héo, nhưng không phải vì thế mà tôi ghét bỏ anh, tôi không quý trọng anh. Bí quyết của sự diệt trừ phiền giận ở đây là làm thế nào để những điểm tiêu cực không che lấp hết tất cả những điểm tích cực của người kia. Có che lấp hay không là do ta vì những điểm tích cực của người kia vẫn còn y nguyên. Do ta tiếp xúc với những điểm tiêu cực của người kia nên tâm tư bị bít lấp và ta không thấy được điểm tích cực của người đó nữa. Sau này, khi người đó qua đời hoặc rời tăng thân này rồi thì từ từ ta mới thấy được rằng sự có mặt của người đó rất dễ chịu đối với ta. Vậy mà trong thời gian người đó ở với ta thì ta đã không dễ thương với người đó, ta đã không biết tận hưởng những cái tích cực của người đó.
Ví dụ mà thầy Xá Lợi Phất đưa ra cũng thuộc về nước. Thầy nói:
“Này các bạn tu, ví dụ có một vị khất sĩ tu theo hạnh a lan nhã, ưa mặc y phấn tảo, một hôm đi qua một đống rác bẩn có phân, nước tiểu, nước mủ và các thức dơ dáy khác, trông thấy một tấm vải còn lành lặn. Vị ấy dùng tay trái cầm miếng vải lên và lấy tay phải căng nó ra. Thấy miếng vải chưa bị rách thủng mà cũng không bị phân, nước tiểu, nước mủ và các chất dơ bẩn khác dính vào, vị ấy liền xếp miếng vải lại, cất lấy, đem về nhà để giặt sạch và may chung với các tấm vải khác làm y phấn tảo.”
A lan nhã là nơi rừng vắng. Y phấn tảo tức y bá nạp, nghĩa là lượm những miếng vải đem về giặt sạch và may lại thành y để mặc. Khi đi ngang qua thấy một miếng vải khá tốt, thầy đó dùng tay trái cầm miếng vải lên và lấy tay phải căng nó ra và nhận thấy rằng miếng vải này còn tốt, thầy liền nghĩ đến nước. Miếng vải này chưa bị dính phân, nước tiểu, và dầu có dính sơ sơ cũng không sao. Chỉ cần đem về giặt sạch là mình có thể để dành, góp với miếng vải khác để may thành y phấn tảo. Cho nên vị thầy này trân trọng xếp miếng vải đó cất đi, đem về giặt sạch để dành may y phấn tảo. Chúng ta cũng vậy. Khi tiếp xử với một người nào mà thấy người đó có phần tốt thì ta phải giữ phần tốt lại. Vì ta có thể sử dụng phần tốt của người đó. Nếu ta biết cách sử dụng thì sự có mặt của người đó sẽ mang lại yếu tố tích cực cho ta. Không phải vì người đó có vài khuyết điểm mà ta đẩy họ ra khỏi đoàn thể ta. Ta nói người này không được ở đây, phải cho người này đi ra khỏi đoàn thể mình càng sớm càng tốt. Làm như vậy là ta đang không áp dụng theo phương pháp của thầy Xá Lợi Phất. Ở Á Đông, người ta thường nói: Dụng nhân như dụng mộc (dùng người cũng như dùng gỗ). Bất cứ miếng gỗ nào dù lớn, nhỏ, vuông, tròn, nếu ta biết cách sử dụng thì miếng gỗ đó cũng có ích lợi. Trong tăng thân có một người nào đó có những khuyết điểm, và ngoài những khuyết điểm đó vẫn có ưu điểm, nếu ta biết cách thì ta vẫn thừa hưởng được ưu điểm của người đó. Đó là phương pháp đầu tiên.
“Cũng như thế, này các bạn tu, khi có một người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói còn dễ thương thì ta hãy đừng để tâm nghĩ tới hành động của người ấy mà chỉ nên chú ý tới lời nói dễ thương của người ấy, để có thể dứt trừ sự phiền giận của mình. Người có trí phải nên thực tập như vậy.”
Chúng ta cũng nên thực tập như vậy khi sống trong tăng thân. Ta có thể sử dụng cuốn tập, ngòi bút và ngồi xuống quán chiếu một người nào đó trong tăng thân. Ta quán chiếu để thấy được những điểm yếu, những cái không dễ thương của người kia. Ta không nhắm mắt trước những cái tiêu cực và không dễ thương. Ta có quyền nhìn thẳng những cái không dễ thương và tiêu cực. Chúng ta phải chép xuống rõ ràng nhưng sau đó phải có can đảm, thiện chí nhìn vào những điểm tích cực của người đó. Chúng ta phải viết xuống, viết cho hết, viết cho đủ. Người đó tuy có những khuyết điểm nhưng vẫn còn những điểm dễ thương này. Những điểm dễ thương này có thể nuôi dưỡng mình và làm đẹp cho tăng thân. Ta phải học như thế nào để thấy và trân quý được những cái dễ thương của người đó. Ta phải viết ít nhất một trang hoặc hai trang về người đó. Nếu quả thật ta có tâm chí muốn xây dựng tăng thân thì ta phải quán chiếu những người chung sống trong tăng thân. Ta phải thấy được tất cả những điểm tích cực cũng như tiêu cực của người đó. Đó là ta quán chiếu bằng con mắt và trí tuệ của ta. Và bên cạnh ta còn có sư em, sư anh của ta. Người sư anh, sư em cũng làm công việc đó. Có thể họ sẽ thấy những cái mà ta chưa thấy được. Ta mời sư em tới và nói: “Anh quán chiếu và thấy như vậy: A có những đặc tính này, khuyết điểm này, ưu điểm này,… Riêng em thì em thấy như thế nào?” Khi đó người sư em sẽ nói em thấy những điểm như thế này, như thế này,… Hai anh em cùng chia sẻ tuệ giác cho nhau, nhờ vậy ta có những cái thấy sâu sắc hơn về người kia. Nếu ta tiếp tục như vậy với những sư em, sư chị khác thì tự nhiên cái thấy của ta đầy đủ hơn. Và mỗi khi ta có vấn đề hay gặp đau khổ với người đó, ta về đọc lại những trang giấy đã viết trước kia, ta thấy: “À, người đó có những khuyết điểm này, nhưng vì những lý do này, vì lý do kia mà người đó nói năng hay hành xử như vậy. Ngoài những khuyết điểm này người đó cũng có những ưu điểm rất quý cho mình và cho tăng thân. Ta không được quên những điều ấy.” Ta thực tập nhìn người đó như nhìn một khu vườn. Có một vài cây héo úa, chết khô nhưng cũng có rất nhiều cây đang mạnh khỏe, tươi xanh. Nửa giờ đồng hồ ngồi chiêm nghiệm và đọc lại những ghi chép cũ đã giúp ta bớt khổ rất nhiều. Tại sao ta không làm?
Chúng ta nên biết rằng các bác sĩ hành nghề ở ngoài họ có hồ sơ của từng bệnh nhân, tình hình tim, gan, máu,… như thế nào. Đó là nghề nghiệp để lấy tiền kiếm sống. Còn chúng ta đang xây dựng tăng thân và chúng ta biết rằng nếu tăng thân có hạnh phúc thì sẽ làm chỗ nương tựa cho không biết bao nhiêu người. Ta cũng phải có hồ sơ của từng sư anh, sư chị, sư em của mình. Ta phải nương tựa vào tuệ giác của những người trong chúng để cho hồ sơ đó được đầy đủ. Và mỗi khi ta có khó khăn, buồn phiền về một sư anh, sư chị, sư em , ta có thể đọc lại hồ sơ người đó để thấy rõ hơn.
Trường hợp thứ hai cũng tương tự như trường hợp thứ nhất.
“Ðây là phương pháp thứ hai, này các bạn:
“Nếu có một ai đó mà lời nói không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên biết cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi.
“Này các bạn tu, ví dụ như cách thôn xóm không xa có một hồ nước sâu nhưng mặt nước lại bị rêu cỏ che lấp. Lúc bấy giờ có một người đi tới gần hồ, tự thân đang bị sự đói khát và nóng bức hành hạ. Người ấy cởi áo để trên bờ hồ, nhảy xuống, dùng hai cánh tay khoát rêu cỏ ra và khoan khoái mặc tình tắm rửa và uống nước mát dưới hồ. Cũng như thế, này các bạn tu, khi có một người mà lời nói không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương thì ta hãy đừng để tâm nghĩ tới lời nói của người ấy mà chỉ nên chú ý tới hành động dễ thương của người ấy thôi để có thể dứt trừ sự phiền giận của mình. Người có trí phải nên thực tập như vậy.”
Đây là trường hợp thứ hai: đối xử với những người mà lời nói không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương.
Khi đọc kinh thỉnh thoảng chúng ta thấy Bụt là một thi sĩ, và ta thấy trong kinh này thầy Xá Lợi Phất cũng là một thi sĩ, thầy dùng hình ảnh rất đẹp. Hãy tưởng tượng người sư anh, sư chị, sư em của mình là một hồ nước trong và có khi mình cần đến hồ nước đó. Tuy là trên hồ nước có rác, rêu, bèo nhưng dưới lớp bèo đó là cả một hồ nước trong mát. Đừng vì những thứ rác, rêu, bèo đó mà ta không thấy được giá trị của người kia. Người kia đôi khi có tính bộp chộp, nóng nảy, hay tuyên bố những câu không có trách nhiệm, thỉnh thoảng nổi cơn nhưng đó chỉ là những rơm rác phủ lên mặt hồ. Nếu biết khám phá thì ta thấy người kia cũng là một hồ nước trong, mát và nếu tăng thân biết cách chăm sóc người đó thì tăng thân có thể thừa hưởng rất nhiều từ người đó.
Chúng ta hãy nhìn lại xung quanh để xem ta có sư anh, sư em, sư chị nào như vậy không. Có một ít rác, rơm phủ trên mặt nước, nhưng phía bên dưới là cả một hồ nước rất sâu, rất mát. Ta chỉ cần khoát những cái rơm rác đó ra thì tha hồ rửa rau, tắm giặt. Ta hãy theo phương pháp của thầy Xá Lợi Phất, ghi vào sổ những người nào được xem là hồ nước trong với một ít rơm rác ở trên mặt. Mỗi khi người đó lộ ra những khuyết điểm, ta không giận dữ, ta không còn có ý tưởng đẩy người ấy ra khỏi tăng thân. Hễ có một chút khó khăn là tìm cách đẩy người ta ra khỏi tăng thân thì rốt cuộc chỉ có một mình ta ở lại tăng thân thôi. Có những đạo tràng rất đông người tu học, luôn luôn có tới 500 thầy hoặc 500 sư cô. Đi khoảng mười năm về ta cũng thấy 500 thầy, 500 sư cô. Nhưng nhìn cho thật kỹ sẽ thấy không phải cùng 500 vị ban đầu đó. Trong thời gian mình đi 10 năm có thể chỉ còn một số thầy cũ thôi và phần lớn là những người mới. Như vậy cũng không hay lắm. Hễ ai có những lỗi lầm hay khó chịu gì thì bị đẩy đi hết, rồi nhận người mới vào, thì tuy rằng luôn luôn có 500 người, nhưng 500 người đó không phải là một tăng thân như mình ước muốn. Tăng thân như mình ước muốn là không cần phải đẩy ai ra khỏi hết và mình có thể giúp được cho mọi người, từ người dễ cho tới người khó.
Ở Đạo tràng Mai Thôn, chúng ta không sử dụng luật pháp để trừng trị, tẫn xuất mà chúng ta chỉ sử dụng những phương pháp giúp người kia chuyển hóa được những yếu kém của mình để có thể ở lại và đóng góp phần tích cực của mình cho tăng thân. Nếu chúng ta sử dụng theo phương cách đẩy người ta ra khỏi tăng thân mỗi khi họ có lầm lỗi thì cho dù Đạo tràng Mai Thôn vẫn luôn có đông người nhưng họ không phải đều là những người cũ. Cái hay là làm sao cho những người cũ ở lại được với chúng ta, hoặc đại đa số là còn ở lại. Cho nên khi thấy một đạo tràng sau 10 năm hay 20 năm vẫn có 500 người ta cũng đừng bị lóa mắt, nhìn kỹ sẽ thấy có những người bị đẩy đi rồi người mới được thay vào. Tuy là có số đông như vậy nhưng phẩm chất của sự thực tập chưa được cao. Và nếu chúng ta muốn tăng thân có phẩm chất cao thì ta phải thực tập theo phương pháp của thầy Xá Lợi Phất. Ta phải thấy rằng che lấp dưới những khuyết điểm đó còn rất nhiều ưu điểm. Nếu tăng thân biết cách thì vẫn có thể thừa hưởng được.
“Ðây là phương pháp thứ ba, này các bạn:
“Nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ phiền giận ấy đi.
Đây là trường hợp thứ ba: đối xử với những người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút dễ thương.
Đây là trường hợp của rất nhiều người. Vì những người này từ khi sinh ra cho đến khi lớn lên đi học, họ chưa bao giờ gặp được điều kiện thuận tiện nên những hạt giống tốt trong tâm chưa được tưới tẩm, chưa được phát triển, dẫn đến lời nói và hành động đều không dễ thương. Nhưng dù vậy trong lòng người đó vẫn còn những hạt giống tốt. Và nếu ta biết cách thì ta sẽ làm cho những hạt giống tốt trong con người đó được phát triển, từ từ những sự dễ thương từ lời nói và hành động được phát hiện ra, làm được như vậy thì mới hay. Còn nếu thấy người đó nói không dễ thương, hành động không dễ thương mà đuổi người đó đi thì tội nghiệp cho người đó và ta cũng không có cơ hội để thực tập. Ta thực tập như thế nào để tưới tẩm những hạt giống tốt của người đó – những hạt giống chưa bao giờ được tưới tẩm trong thời thơ ấu, và tưới tẩm như thế nào để một buổi sáng nọ người đó nói được một câu và phát ra một hành động rất dễ thương thì hoa trái đó là phần thưởng cho mình và cho tăng thân. Hoa trái đó là công trình của ai nếu không phải là công trình của mình, của tăng thân! Và ai sẽ thừa hưởng hoa trái đó? Mình và tăng thân sẽ thừa hưởng.
Đây là trường hợp thứ ba, dù cho hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương nhưng trong tâm có hạt giống dễ thương. Người đó sở dĩ như vậy là vì không có may mắn được cha mẹ, anh em hay xã hội tưới tẩm những hạt giống tốt trong đời. Bây giờ người đó có được một cơ hội, có thể là cơ hội cuối cùng, đó là nhờ tăng thân. Nếu tăng thân có hiểu biết, thương yêu và tăng thân tưới tẩm được những hạt giống tốt thì người đó có cơ hội đầu tiên hay cơ hội cuối cùng để có thể nói được một câu dễ thương, làm được một hành động dễ thương và như vậy ta cứu được người đó. Và sự thực tập của ta cũng được Bụt và thầy Xá Lợi Phất khen ngợi. Một người chưa bao giờ nói được một lời hay làm được một hành động dễ thương, ấy vậy mà khi tới thực tập với chúng ta một thời gian, họ đã nói ra được một câu dễ thương, đã làm được một hành động dễ thương, chuyện này đã xảy ra. Thử hỏi đó không phải là một phần thưởng quý giá cho chúng ta hay sao? Hơn nữa, thân nghiệp và khẩu nghiệp chỉ là cành lá phía trên, chính ý nghiệp mới là gốc rễ. Nhìn vào tâm của người đó và thấy được trong tâm của người đó còn có những hạt giống tốt, nhận diện và tưới tẩm những hạt giống đó thì có thể một tuần, hai tuần, hay một tháng, hai tháng, người đó bắt đầu làm và nói ra được một câu dễ thương. Tăng thân sẽ hào hứng, phấn khởi, hân hoan, thấy rằng phương pháp của Bụt để lại rất mầu nhiệm và chúng ta có thể tiếp nối được công trình của Bụt.
“Ðây là phương pháp thứ ba, này các bạn:
“Nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi.
“Này các bạn tu, ví dụ có một người đi tới một ngã tư kia, kiệt sức, khát nước, thiếu thốn, nóng bức và phiền muộn. Tại ngã tư ấy có một lỗ chân trâu, trong ấy còn đọng lại một ít nước mưa. Vị này nghĩ: ‘Mặc dù nước trong lỗ chân trâu ở ngã tư đường này rất ít, nhưng nếu ta dùng tay hoặc lá cây để lấy thì ta sẽ có thể quấy cho nó đục ngầu lên và sẽ không uống được, do đó sẽ không thể trừ bỏ được sự khát nước, thiếu thốn, nóng bức và phiền muộn trong ta. Vậy ta hãy quỳ xuống, tay và đầu gối áp sát đất, dùng miệng mà uống nước trực tiếp.’ Người ấy liền quỳ dài xuống, tay và đầu gối áp sát đất, đưa miệng vào lỗ chân trâu mà uống. Cũng vậy, này các bạn tu, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy, mà hãy nên chú ý tới chút ít dễ thương còn có trong tâm người ấy thôi để có thể dứt trừ được phiền giận của mình. Người có trí phải nên thực tập như vậy.”
Hình ảnh nước trong lỗ chân trâu là hình ảnh tuyệt vời nhất của kinh này, còn đẹp hơn hình ảnh của hồ nước trong mà ta sẽ học ở phương pháp thứ năm. Chúng ta hãy tưởng tượng có những người sống trong khung cảnh không có tình thương hoặc họ tin rằng không có ai thương họ cả. Những người đó lẽ tất nhiên rất đau khổ, rất khao khát tình thương. Một nhà văn Pháp, tên Jean-Paul Sartre đã nói: “Con người là chó sói của con người”. Ta sống và được bao bọc bởi những con chó sói đội lốt người. Chúng ta không nghĩ như vậy, nhưng trong xã hội đã có những người nghĩ như vậy. Chúng ta sống sao nổi với ý niệm đó. Có những người được thương, nhưng không biết là mình được thương. Những người đó phải thực tập để thấy rằng mình sai lạc.
Hồi còn nhỏ, tôi có đọc một truyện tiền thân của đức Thích Ca. Khi đó Ngài đang bị trừng phạt làm một con quỷ đói dưới địa ngục và đang bị những tên giữ ngục đầu trâu mặt ngựa hành hạ, bắt phải nuốt những viên sắt nóng. Con quỷ ấy thấy những tên đầu trâu mặt ngựa hành hạ những con quỷ đói khác nên phát sinh một niềm thương xót và muốn can thiệp. Nó nói: “Ông ơi! Tại sao ông hành hạ chúng nó tàn nhẫn như vậy? Xin ông hãy nương tay một chút.” Nghe quỷ đói nói như vậy, tên lính đầu trâu mặt ngựa giận quá, quay lại dùng chĩa ba thọc vào bụng con quỷ đói. Con quỷ đói này chết ngay và nhờ công đức dám can thiệp kia, đã tái sinh lại làm người. Từ đó trải qua nhiều kiếp tu hành, người này chỉ đi lên và cuối cùng thành Bụt Thích Ca. Chúng ta thấy đức Thích Ca đã từng bị đọa đày ở dưới đáy của địa ngục. Còn chúng ta hiện nay có người tự cho là đang ở trong địa ngục, nhưng địa ngục của chúng ta vẫn còn có nhiều tiện nghi. Câu chuyện này có hai điểm hay: Thứ nhất, dù ở dưới đáy tận cùng của sự đau khổ, chúng ta vẫn có cơ hội để đi lên. Thứ hai, ở dưới tận cùng của địa ngục vẫn còn có tình thương. Chúng ta đừng tưởng rằng xung quanh chúng ta không có tình thương, chẳng qua là chúng ta quá u mê chưa tiếp xúc được mà thôi. Chúng ta cũng đừng tưởng trong con người chúng ta không có tình thương. Chúng ta có tình thương, nhưng vì hạt giống đó không được tưới tẩm nên chưa biểu hiện rõ ràng mà thôi.
Trường hợp thứ ba mà thầy Xá Lợi Phất nói là trường hợp một người mà thân nghiệp không dễ thương, khẩu nghiệp không dễ thương, chỉ còn sót lại trong tâm (ý nghiệp) một ít dễ thương mà thôi. Điều này rất đúng, bởi vì nếu ý nghiệp dễ thương thì thế nào cũng biểu hiện qua lời nói và hành động. Trong tâm chỉ còn sót lại một chút dễ thương, tức là hạt giống dễ thương còn quá bé cho nên không biểu hiện ra lời nói và hành động. Nếu chúng ta không biết quán chiếu thì khó mà thấy được chút dễ thương kia. Trong kinh Bhaddāli, kinh thứ 65 Trung bộ kinh, đức Thế Tôn dạy rằng: Ví dụ có một người bị hư một con mắt, nếu người đó và những người xung quanh không biết chăm sóc con mắt còn lại thì anh ta sẽ bị mù hẳn. Trường hợp thứ ba của thầy Xá Lợi Phất cũng giống như ví dụ này của Bụt. Chúng ta phải quán chiếu và chăm sóc người mà hành động và lời nói đều không dễ thương để người đó đừng mất luôn chút thiện căn còn lại trong tâm. Lẽ tất nhiên với những ai phạm giới hoặc từng gây khó khăn trong chúng thì ta phải giúp người đó chuyển hóa, nhưng giúp như thế nào để họ giữ được một chút thiện căn còn lại. Trường hợp này phải khéo léo giống như người đi đường bị khát nước, phải hết sức khôn khéo mới uống được nước trong lỗ chân trâu. Đoạn kinh này rất hay và chúng ta phải nhớ đời hình ảnh nước trong lỗ chân trâu. Bây giờ, chúng ta không phải là du tăng đi bộ từ nước này sang nước nọ, nhưng ngày xưa các thầy phải đi bộ từ nơi này sang nơi khác, dọc đường bị khát, không có suối, không có khe và phải uống nước trong lỗ chân trâu. Thầy Xá lợi Phất dùng hình ảnh có thật lấy từ kinh nghiệm của các thầy.
Đây là phương pháp thứ tư, này các bạn: Nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không còn lại một chút gì gọi là dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận kẻ đó thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi.
Đây là trường hợp thứ tư: đối xử với những người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không còn lại một chút gì gọi là dễ thương.
Đây là trường hợp của một người mà cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đều xấu hết. Trường hợp này rất ít xảy ra. Khi chúng ta học tâm lý học đạo Bụt thì ta biết rằng người nào cũng có hạt giống thiện và bất thiện. Có thể những hạt giống thiện chưa được tưới tẩm và ta không thấy nhưng không có nghĩa là không có. Chúng đang bị che lấp, bị phủ kín bởi những tầng lớp khổ đau, phiền não nhưng kỳ thực là có tồn tại. Trường hợp này có thể là không có, nhìn thì ta không thấy nhưng chắc chắn trong tâm vẫn còn những hạt giống tốt đang bị che lấp. Nếu nhìn bằng con mắt của người thường, ta sẽ thấy trong ba nghiệp hoàn toàn chỉ có những điểm tiêu cực mà không có điểm tích cực nào cả. Nếu biết nhìn bằng con mắt của Bụt, Bồ tát thì ta sẽ thấy cái nhìn đó chưa phải là cái nhìn sâu sắc lắm. Ta phải nhìn kỹ để thấy được những hạt giống thiện ở trong đó. Tại vì A lại da thức (tàng thức) chứa đựng cả những hạt giống tốt và những hạt giống xấu. Khi những hạt giống tốt quá nhỏ thì những hạt giống xấu sẽ lớn lên, gần như che lấp hết mọi thứ nhưng không có nghĩa là những hạt giống tốt đó hoàn toàn tiêu hẳn. Theo đúng đệ nhất nghĩa đế là phải như vậy. Một con người cực ác vẫn có hạt giống của bồ đề như thường. Giả sử có một người mà cả thân, khẩu, ý đều xấu, không dễ thương thì ta nên học cách đối xử như trong đoạn kinh này của thầy Xá Lợi Phất. Lòng từ bi là điều đẹp nhất trên thế gian. Lòng từ bi làm cho trái tim của chúng ta rộng mở và thấy được những điều mà những người khác vì không có tình thương nên không thấy được.
“Này các bạn tu, ví dụ như có một kẻ đi xa, trên con đường dài nửa đường bị bệnh. Khốn đốn, héo hắt, cô độc, không bạn đồng hành, thôn xóm phía sau đã lìa bỏ lâu rồi mà thôn xóm phía trước cũng còn cách đó rất xa, người đó đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, biết mình sẽ chết ở dọc đường. Trong lúc ấy, có một người khác đi tới, thấy được tình trạng này, liền ra tay cứu giúp. Người ấy dìu người kia tới được thôn ấp phía trước, chăm sóc, chữa trị và chu toàn cả về các mặt thuốc thang và thực phẩm. Nhờ sự giúp đỡ ấy mà kẻ kia thoát nạn. Sở dĩ kẻ kia thoát nạn là nhờ ở lòng thương xót và lân mẫn của người này. Cũng như thế, này các bạn tu, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không còn lại một chút gì có thể gọi là dễ thương hết, thì ta phải phát khởi tâm niệm này: ‘Một người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà tâm ý cũng không dễ thương là một người rất đau khổ, người này chắc chắn đang đi về những nẻo đường xấu ác cực kỳ, nếu không gặp được thiện tri thức thì người ấy sẽ không có cơ hội chuyển hóa và đi về các nẻo đường hạnh phúc.’ Nghĩ như thế, ta mở được lòng thương xót và lân mẫn, diệt trừ được phiền giận của ta và giúp được cho kẻ kia. Người có trí phải nên thực tập như thế.”
Đoạn văn này nói lên được cái thấy và cái tình của một vị Bồ tát. Người kia không có một chút gì dễ thương, không có cái gì để cống hiến cho mình cả, không có cái gì để cống hiến cho tăng thân cả. Vị Bồ tát thấy rằng một người mà cả ba nghiệp đều xấu thì rất đau khổ, họ làm sao có được niềm vui. Họ đang tuyệt vọng và lâm vào bước đường cùng, đi tới đâu cũng đau khổ. Nếu ta không phát khởi tâm đại bi để giúp cho người kia thì ai sẽ làm điều đó Cho nên trong bản kinh nói rằng: “Nếu không gặp được thiện tri thức thì người ấy không có cơ hội chuyển hóa và đi về các nẻo đường hạnh phúc”. Chúng ta thử hỏi người thiện tri thức đó là ai? Câu trả lời sẽ là: “Người thiện tri thức đó phải là ta”. Nếu ta không làm thì ai làm? Nếu ta không làm người thiện tri thức đó, nếu ta không làm vị Bồ tát đó thì ai làm cho người kia? Một người mà lời nói, hành động và trong tâm không còn chút gì gọi là dễ thương thì thử hỏi làm sao người đó có được chút hạnh phúc, làm sao có thể liên hệ được với những người khác, có thể truyền thông được với những người khác? Con người đó là địa ngục, ở trong tâm và ở trong thân. Người đó đang đau khổ vô cùng mà ta còn trừng phạt và đuổi người đó đi thì người đó sẽ đi về đâu? Ai sẽ chăm sóc cho người đó? Nghĩ như vậy mà phát tâm bất xả, nghĩa là không buông bỏ, cố gắng tìm mọi cách để giúp được cho người đó. Chỉ có các vị Bồ tát lớn mới làm được chuyện này.
Bản kinh này cho chúng ta biết rằng không có trường hợp nào là trường hợp tuyệt vọng. Dù trường hợp của người kia khó tới mức nào đi nữa thì ta vẫn có thể thực tập và giúp được người đó. Hiện nay trên thế giới có biết bao nhiêu người đang ở tù vì ba nghiệp của họ không thanh tịnh. Người ta nghĩ rằng nhốt họ lại, trừng phạt họ là phương pháp duy nhất, nhưng Phật pháp không phải là con đường của sự trừng phạt hay giam cầm, càng không phải là con đường của sự loại trừ. Phật pháp là con đường của sự chuyển hóa.
Nếu trong tăng thân có những trái tim lớn thì chúng ta có nhiều khả năng giúp được một người, hai người hay ba người như thế. Trừ khi tăng thân yếu, tăng thân không có đủ hạnh phúc, không có đủ tuệ giác, không có đủ tình thương thì chúng ta mới không thể ôm ấp được một, hai, ba người như thế. Có khi chúng ta chỉ có khả năng ôm được một người, nhưng khi ôm thêm một người thứ hai nữa thì chúng ta đuối sức, tăng thân rã bè hết, đó là vì tình thương, tuệ giác và sự kiên nhẫn của chúng ta chưa đủ. Vì vậy sự thực tập của chúng ta là mở rộng được tuệ giác, mở rộng được tình thương, mở rộng được sự kiên nhẫn để có thể làm được điều mà thầy Xá Lợi Phất nói trong đoạn kinh này. Cố nhiên, người có thể làm được theo lời thầy Xá Lợi Phất thì không nhiều, nhưng trên thế gian vẫn có những người có thể làm được như vậy. Những tăng thân có thể bao dung được, ôm ấp được một người như vậy tuy là không có nhiều nhưng trên thế gian này thế nào cũng có một, hai, ba tăng thân làm được công việc ấy. Thành công được một trường hợp như vậy chứng tỏ rằng giáo lý của đức Thế Tôn là một giáo lý có thể cung cấp được cho ta câu trả lời trước những trường hợp cực kỳ khó khăn và gay cấn.
“Ðây là phương pháp thứ năm, này các bạn:
“Nếu có một ai đó mà hành động dễ thương, lời nói cũng dễ thương mà tâm ý cũng dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận hoặc ganh ghét với kẻ đó thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi.
“Này các bạn tu, ví dụ cách ngoài thôn xóm không xa có một cái hồ thật đẹp, nước hồ đã trong lại ngọt, đáy hồ sâu mà bằng phẳng, bờ hồ đầy đặn, cỏ xanh mọc sát quanh hồ, bốn phía cây cối xanh tươi cho nhiều bóng mát. Có một kẻ kia đi tới bên hồ, khát nước, phiền muộn, nóng bức, mồ hôi nhễ nhại. Người ấy cởi áo để trên bờ hồ, nhảy xuống, khoan khoái mặc tình tắm rửa và uống nước; tất cả những nóng bức, khát nước và phiền muộn của mình đồng thời tiêu tán hết. Cũng vậy, này các bạn tu, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm địa cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những sự dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Nếu không biết sống hạnh phúc với một người tươi mát như thế thì mình thực không phải là một người có trí tuệ.
Đây là trường hợp thứ năm: đối xử với những người mà hành động dễ thương, lời nói cũng dễ thương mà tâm ý cũng dễ thương.
Phương pháp thứ năm hay quá. Đôi khi giận hờn xảy ra là do ganh tị, vì thấy người kia cái gì cũng dễ thương hết.
Chúng ta quán sát lại tăng thân của mình để coi có năm hạng người mà thầy Xá Lợi Phất nói tới hay không.
Chúng ta hãy nhìn kỹ lại mình, tăng thân của mình và đặt mình vào một trong năm trường hợp trên. Ta muốn mình thuộc trường hợp nào? Cố nhiên là ta muốn làm trường hợp thứ năm phải không? Nếu ta có chí hướng thì ta phải thực tập theo kinh này. Ai thực tập cũng muốn thành công. Muốn cho Phật pháp có tương lai thì ta không thể nào làm một giọt nước nhỏ mà phải làm một dòng sông, muốn làm dòng sông thì phải tu tập để xây dựng tăng thân. Cách xây dựng tăng thân hay nhất là sống hòa hợp và hạnh phúc với tăng thân. Cụ thể là phải biết điều phục cơn giận của mình, phiền não của mình đối với những người trong tăng thân. Những ai là người có chí lớn thì phải thực tập theo năm phương pháp của thầy Xá Lợi Phất.
Kinh này rất hay. Tuy vậy chúng ta cũng có thể bổ túc sự thực tập của chúng ta đối với kinh này. Phương pháp của thầy Xá Lợi Phất là khi ta tiếp xúc với phần tiêu cực của một người nào đó thì đừng quên phần tích cực của họ, đừng bị kẹt vào phần tiêu cực của họ. Nếu người đó chỉ có phần tiêu cực thì ta hãy phát khởi lòng từ bi (trường hợp thứ tư). Còn nếu người đó chỉ có phần tích cực thì ta phải biết thừa hưởng (trường hợp thứ năm), chứ đừng ganh tị. Thầy Xá Lợi Phất dùng ba nghiệp (thân, khẩu, ý) làm tiêu chuẩn và chia ra năm trường hợp:
Thứ nhất, thân hành tiêu cực nhưng khẩu hành tích cực – Miếng vải tốt trong đống rác
Thứ hai, khẩu hành tiêu cực nhưng thân hành tích cực – Hồ nước có rơm rác trên mặt
Thứ ba, thân hành và khẩu hành tiêu cực, nhưng ý hành lại tích cực – Nước mưa trong lỗ chân trâu
Thứ tư, cả ba nghiệp đều tiêu cực – Người sắp chết khát
Thứ năm, cả ba nghiệp đều tích cực – Hồ nước trong
Bây giờ chúng ta tóm tắt lại năm trường hợp trong kinh:
1. Trường hợp thứ nhất là lời nói dễ thương nhưng hành động không dễ thương. Trong trường hợp này, thầy Xá Lợi Phất dùng hình ảnh của một tấm vải bị vứt trong một đống rác. Thầy nói rằng tấm vải đó vẫn còn lành lặn, chưa thủng lỗ và chưa dơ lắm thì mình có thể mang về, giặt sạch và cùng với những miếng vải khác may thành một chiếc y.
2. Trường hợp thứ hai là hành động dễ thương nhưng lời nói không dễ thương. Đây là trường hợp một hồ nước có rơm, rác phủ lên mặt nhưng nếu mình cần tắm gội thì mình phải đi xuống hồ, khoát rơm rác đó ra là có thể tắm gội, có thể uống nước.
3. Trường hợp thứ ba là hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương và tâm ý còn rất ít sự dễ thương. Hình ảnh có chút ít nước mưa trong lỗ chân trâu là hình ảnh đẹp nhất trong kinh. Một người trong trường hợp này là một người rất đau khổ. Do đó ta phải làm thế nào để giúp được người đó. Trường hợp này cần hành động rất khéo léo và cẩn trọng vì thầy Xá Lợi Phất nói rằng: Mình là một người đi trên đường xa, sắp chết rồi, khát nước và kiệt quệ. Nước ở đây là nước tình thương. Chỉ còn một chút nước còn lại trong lỗ chân trâu thôi, nếu mình không uống nước đó thì mình chết. Mà muốn uống nước đó thì phải cẩn thận lắm mới được vì nếu mình làm nó vấy bùn lên thì không uống được. Mình phải quỳ xuống, phải nằm úp xuống, rồi đưa miệng trực tiếp vào lỗ chân trâu mà uống nước đó. Uống được thì có thể sống sót. Đó là vấn đề tình thương. Sống sót ở đây tức là làm sao để có thể giúp được người đó. Người đó rơi vào tình trạng thiếu thốn hạnh phúc, thiếu thốn tình thương tới mức nếu không hết sức cẩn trọng thì ta không thể giúp được người đó, người đó sẽ hoàn toàn suy sụp và tuyệt vọng. Do đó, sự thực tập tình thương ở đây là cả một nghệ thuật, cần rất nhiều sự thấu hiểu. Trong khi thực tập như thế này, vì ta thấy được sự thiếu thốn tình thương nơi người kia nên sự phiền giận trong mình không còn nữa – đó là điều lợi lạc trước nhất cho mình. Khi người kia thấy ta đối xử được như vậy, tình thương ở trong họ lớn lên và dần lấy lại được sự thăng bằng. Đứng về phía người thực tập thì ta vượt qua được sự phiền giận và làm lớn được tình thương nơi mình. Đối với người kia thì họ có một cơ hội để được chấp nhận, để được thương yêu và để có thể phát triển được chất liệu dễ thương ở trong con người họ. Đoạn kinh này rất hay. Vì vậy kinh này được gọi là kinh Thủy dụ. Thủy dụ tức là ví dụ về nước. Hình ảnh sẽ làm cho ta nhớ đời là hình ảnh một ít nước mưa còn lại trong lỗ chân trâu.
Chúng ta không phải là những du tăng đi bộ từ nước này sang nước khác như ngày xưa, nên chúng ta tưởng đây là chuyện không xảy ra được. Nhưng các thầy ngày xưa đi bộ bằng chân không từ làng này sang làng khác, quận này sang quận khác, nước này sang nước khác và các thầy rất thường gặp trường hợp này, tức là khi không có nước uống thì phải tìm chỗ có nước mà uống. Nhiều khi không có suối, không có khe, chỉ có nước ở trong lỗ chân trâu. Vì vậy hình ảnh này được các thầy kinh nghiệm trực tiếp và truyền lại trong kinh cho chúng ta.
4. Trường hợp thứ tư là cả thân, ngữ, ý đều không dễ thương. Cả ba đều là dấu trừ hết. Đây là trường hợp mình gọi là extreme. Phương pháp của thầy Xá Lợi Phất rất hay. Để diệt trừ phiền giận ta phải quán chiếu thấy được rằng một người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương và tâm ý cũng không dễ thương, một người như vậy là một người đau khổ nhất trên đời. Nếu ta không giúp người đó thì người đó không có cơ hội nào nữa hết. Cho nên ta phải phát khởi lòng thương. Nếu phát khởi được lòng thương thì không những ta không còn phiền giận mà người đó cũng có cơ hội được chuyển hóa. Chúng ta thấy rõ ràng trong trường hợp cực kì khó khăn như vậy, sự thực tập vẫn có thể có được. Cũng như trong trường hợp tiền thân của đức Thích Ca ở dưới đáy địa ngục, vẫn có thể thực tập được. Ở một nơi tưởng chừng không có tình thương, vậy mà tình thương vẫn có thể được phát hiện ra từ tâm của mình, và chỉ cần như vậy, mọi thứ đều có thể thay đổi.
Đây là hình ảnh một người kiệt quệ, đi được nửa đường thì ngã sóng soài xuống, thế nào cũng chết vì thôn xóm phía sau đã cách rất xa rồi mà thôn xóm phía trước cũng còn rất xa. Khi một người đi ngang qua thấy như vậy, nghĩ rằng nếu họ không được cứu giúp thì người kia chắc chắn sẽ chết. Người đó đã cúi xuống, xốc người kia lên và dìu người kia đi cho tới khi đến được một xóm làng và ở lại đó trong vài ngày để lo lắng cho người kia phục hồi được sức khỏe trước khi tiếp tục cuộc du hành. Một hình ảnh rất đẹp. Trong ví dụ thứ tư này hoàn toàn không có một chút nước nào cả dù là một chút nước trong lỗ chân trâu. Tức là sự thiếu vắng những cái dễ thương, những hạnh phúc trong đối tượng của mình. Ấy vậy mà thầy Xá Lợi Phất vẫn có thể làm cho tình thương phát sinh ra được, bởi vì nếu tình thương không phát sinh ra được thì mình khổ và người kia cũng khổ.
Nếu ta có hờn oán, căm thù hay giận hờn một người nào đó thì ta phải lập tức đọc kinh này, rồi liệt người mà ta hờn oán, hận thù đó thuộc vào trường hợp thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, hay thứ năm. Đây là vấn đề của ta chứ không phải là vấn đề của người đó. Vì ta đang bị lửa sân hận oán thù đốt cháy. Đây là vấn đề sống sót của ta, cho nên ta phải đọc kinh này và thực tập. Nếu người kia thuộc trường hợp khó nhất, trường hợp thứ tư, thì ta biết rằng người mà ta đang thù hận, đang căm ghét là người đang đau khổ nhất đời. Người đó đang cần sự giúp đỡ chứ không phải cần sự trừng phạt. Vì trong khi chúng ta giận thì chúng ta chỉ muốn trừng phạt mà thôi. Chúng ta không biết rằng người kia đang đau khổ, và điều mà người kia không cần tới chính là sự trừng phạt, vậy mà chúng ta cứ muốn trừng phạt như thường. Ta quán chiếu cho tới khi nào trong lòng nảy sinh ra ý muốn giúp người kia thì lúc đó sự phiền giận của ta được tiêu tan hết. Và người kia cũng được thừa hưởng.
Nếu trong đại chúng có người nào cảm thấy có sự phiền giận, căm thù với một người nào khác thì phải lập tức đọc kinh này, phải lập tức liệt người đó vào một trong năm trường hợp và nếu đó là trường hợp thứ tư thì phải quán chiếu như thầy Xá Lợi Phất nói: người này thân, khẩu, ý đều không dễ thương, là người đang đau khổ nhất trên đời mà ta còn giận người đó nữa thì ta là kẻ không có trí tuệ. Nếu ta là một người có lương tri, có tình thương thì đối với những trường hợp này ta phải làm đủ cách để giúp người đó, còn nếu phiền giận và muốn trừng phạt người đó nữa thì ta là một người mất trí, một người không có trí tuệ. Quán chiếu như vậy,tự nhiên ta không còn ý niệm muốn trừng phạt người đó, ngược lại ta muốn làm cho người đó không còn khổ nữa và trong trái tim ta sẽ phát sinh ra một hồ nước, ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, an lạc – đó gọi là thanh lương – Nam mô Bồ tát Thanh Lương Địa. Từ một hầm lửa tự nhiên xuất hiện một hồ sen, hồ sen có mặt là do chúng ta thấy được rằng người kia đang đau khổ cùng cực, nếu ta không ra tay cứu vớt thì người đó sẽ chết. Phương pháp của thầy Xá Lợi Phất rất hay, rất mầu nhiệm.
5. Trường hợp thứ năm là cả thân, khẩu, ý đều dễ thương, mà mình lại đem lòng giận người đó. Cái giận của ta hoàn toàn do sự ganh tị mà ra. Người mà thân, khẩu, ý đều dễ thương thì được người khác thương. Và khi người đó được người khác thương thì ta sinh tâm ganh tỵ và hờn giận họ, thầy Xá Lợi Phất nói rằng ta là người ngu ngốc nhất trên đời. Người đó là hồ nước trong mát mà mình không biết thừa hưởng còn đi giận. Ai lại giận một hồ nước bao giờ? Ở đời có những người dễ thương như vậy về thân, về khẩu, về ý mà ta không biết lợi dụng, không biết hưởng thụ mà lại đi ganh ghét và giận hờn người đó thì quả thật ta là người không có trí tuệ. Thấy được như vậy,ì ta cũng trở thành một hồ nước,ta được tắm gội trong hồ nước thanh lương của chính mình và cũng được tắm gội trong hồ nước thanh lương của người mà thân, khẩu, ý đều dễ thương kia.
Ở trong một tăng thân lớn, sự thực tập của chúng ta là quán chiếu những sư anh, sư chị, sư em của mình và tự thân mình xem mỗi người được liệt vào trường hợp nào trong năm trường hợp. Mình có được liệt vào trường hợp thứ năm hay không. Nếu chưa được liệt vào trường hợp thứ năm thì ta phải thực tập như thế nào để đạt được điều đó, để có thể trở thành một hồ nước trong mát. Trở thành hồ nước trong xanh, ta có được sự tươi mát và hạnh phúc trong ta, và làm suối nguồn tươi mát và hạnh phúc cho nhiều người.
Chúng ta có thể dùng các kinh khác để bổ túc vào kinh này và đưa sự thực tập của chúng ta đi xa hơn.
1. Nếu thấy một người mà ba nghiệp đều tiêu cực thì theo cái nhìn thông thường, ta cho rằng người đó không có giá trị gì cả. Nhưng theo cái nhìn của Bụt và Bồ tát thì ẩn bên dưới những biểu hiện tiêu cực của ba nghiệp thân, khẩu, ý , nằm sâu dưới đáy của tàng thức vẫn còn những điều tốt đẹp. Hễ có ngày thì có đêm, có hoa thì có rác. Tuy đứng về phương diện hình tướng ta thấy cả ba nghiệp đều không có gì dễ thương nhưng ẩn núp phía trong người đó vẫn có tính Bụt, vẫn còn khả năng chuyển hóa thành người dễ thương.
2. Song song với việc để ý tới phần tích cực của một người, chúng ta cũng phải quán chiếu về phần tiêu cực để thấy rằng người đó đã là nạn nhân của sự trao truyền. Sở dĩ người đó có thân nghiệp, khẩu nghiệp hay ý nghiệp không dễ thương, có thể do một phần hạt giống của tổ tiên để lại. Nhìn sâu ta thấy có thể trong thời thơ ấu, người đó không được sống trong một môi trường tốt. Người đó đã không được cha mẹ hay học đường dạy thương yêu, dạy cách nói lời dễ thương hay hành động dễ thương. Có thể là người đó đã được sinh ra và lớn lên trong một gia đình mà cha mẹ thường xuyên cãi cọ và làm khổ nhau. Nếu người đó được nuôi dưỡng trong một gia đình mà cha biết săn sóc cho mẹ, mẹ biết dịu ngọt với cha thì tự nhiên người đó cũng sẽ có hành động và lời nói dễ thương. Một con người thường có hành động hay lời nói không dễ thương, nếu được sống trong một môi trường mà ở đó mọi người cư xử và nói năng dễ thương với nhau thì sau vài năm người đó sẽ thay đổi. Người đó không phải cố gắng gì cả, chỉ cần hằng ngày nghe và thấy là đã thay đổi được rồi. Khi trở lại môi trường cũ, người ta sẽ ngạc nhiên thấy người đó sao bây giờ dễ thương quá như vậy. Vì vậy sở dĩ một người mà thân hành, khẩu hành hay ý hành không dễ thương là tại vì người ấy thiếu may mắn trong quá khứ, người ấy đã được trao truyền những hạt giống xấu. Thấy được điều đó rồi tự nhiên ta sẽ hết phiền giận.
Đó là hai điểm mà ta có thể bổ túc vào cho kinh Diệt trừ phiền giận. Chúng ta xây dựng tăng thân bằng cách điều phục tâm mình, điều phục sự hờn giận của ta đối với mọi thành phần trong tăng thân. Chúng ta cũng xây dựng tăng thân bằng cách thực tập uy nghi và chánh niệm. Nếu mỗi ngày ta không nói xấu người khác, nếu mỗi ngày ta bước những bước chân chánh niệm, nếu mỗi ngày ta có sự vững chãi, nếu mỗi ngày ta không hề ganh tị thì tự nhiên ta đã tạo ra năng lượng tốt cho tăng thân. Những người được sống trong môi trường đó chắc chắn sẽ được chuyển hóa. Có thể người đó từ trước đến giờ chưa được sống trong một môi trường tốt, bây giờ tiếp xúc với môi trường lành thiện đó thì tự nhiên thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của vị đó cũng dễ thương ra. Cho dù ta còn trẻ, nhưng nếu nắm được sự thực tập này thì ta có thể trở thành một vị Bồ tát trẻ ngay trong hiện tại, không trách móc, không giận hờn, không sân si. Bằng cách sống như vậy ta tạo ra môi trường để mọi người được chuyển hóa. Mỗi người trong chúng ta là một viên ngọc. Nếu chúng ta biết mài dũa thì viên ngọc có thể tỏa ánh sáng ra chung quanh, và làm thay đổi môi trường.
Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi
Con người tu có khác gì
Sống cho tươi mát; sân si hư đời
Hiểu thương chẳng trách móc người
Hiện thân Bồ tát giữa nơi đạo tràng.
“Này các bạn tu, tôi đã chia sẻ với quý vị về năm phương pháp dứt trừ sự phiền giận.”
Sau khi nghe Tôn giả Xá Lợi Phất nói, các vị khất sĩ vui mừng tiếp nhận và hành trì theo.
Chúng ta thấy phần lớn các hình ảnh mà thầy Xá Lợi Phất đưa ra là hình ảnh nước: Từ một hồ nước trong đến một chút nước nhỏ trong lỗ chân trâu. Vì thế kinh này được gọi là kinh Thủy dụ.