03. Chuyến đi

Chưa bao giờ, từ khi Âu Cơ và Lạc Long dựng nước, mà trời lại nắng khô lâu ngày đến như thế. Có hơn sáu tháng rồi trời không mưa. Các dòng sông và các dòng suối đã hầu cạn. Cỏ trên đồng cháy vàng. Lúa nếp thiếu nước không mọc được nữa. Lúa còn non mà đâu đâu cũng đã thấy cây lúa úa vàng như rơm rạ. Nắng thiêu đốt đến nỗi đó đây đất nứt nẻ ra trông rất thảm thương. Dân chúng phải chạy vào rừng trốn nắng vào những buổi trưa nóng bức nhất.

Gió cũng ít thổi. Trời im phăng phắc. Có một cái gì đè nặng trên không khí, ai cũng thấy ấm ức.

Ẩn cư tận trên đỉnh núi từ ngày Lạc Long bỏ về thủy phủ, bà Âu Cơ cũng đã tìm về đồng bằng vì nghe tiếng kêu khóc của dân chúng. Thấy con cháu rên siết vì nắng hạn, bà đau lòng. Bây giờ chỉ có một cách là cho người đi gọi Lạc Long. Hiện giờ chàng đã lên ngôi Long Vương rồi; không biết vì sao mà lâu quá chàng chưa trở lại.

Là dòng giống Tiên thuần túy bà không thể xuống Long cung được, nhưng con cháu bà vì cũng là dòng giống Rồng, nên có thể đi xuống thủy phủ. Viên ngọc quí mà Long Quân đã trao cho bà trước khi từ giã, bà đang còn giữ. Bà trao lại cho một người trai trẻ tên là Lạc Hùng, và dạy chàng tìm cách xuống long cung cầu Long Vương lên làm mưa cứu nạn. Hùng là người con trai can trường nhất và thông minh nhất của thôn Hạc Trắng. Thôn Hạc Trắng nổi tiếng là miền văn nhã của vương quốc. Ở đây có nhiều trai thanh gái lịch. Ở đây lại có một cây chiên đàn sống đã bốn nghìn năm, cao tới ngàn tầm, ngọn cây thường lẫn vào mây trắng. Tàn lá rộng che phủ cả một vùng. Có rất nhiều chim hạc đậu và làm tổ trên cây. Bà chúa Âu Cơ mỗi lần từ núi cao về hay tới dưới gốc cây để gặp gỡ dân chúng.

Hùng được cả thôn yêu mến. Bà chúa đã giao chàng sứ mệnh xuống thủy cung, nhưng chàng chưa biết cách gì xuống được thủy cung. Bà chúa cũng đã trao cho chàng một viên ngọc và dặn dò chàng nên cùng đi xuống thủy phủ với một người con gái.

Lạc Hùng có quen biết một cô con gái cùng tuổi. Nàng tên là Mỵ. Theo chàng, Mỵ là cô gái duyên dáng nhất trong thôn. Hùng nghĩ rằng đi với một người con gái như Mỵ xuống thủy phủ là một niềm vui, nàng thông minh và lanh trí, có thể giúp chàng được trong lúc đi đường. Nhưng đi với một cô gái, dù là cô gái mình yêu mến nhất, cũng là một gánh nặng. Nếu gặp những hiểm hay nguy bất trắc, sức lực của một thiếu nữ làm sao chống cự được với  ác loài thủy quái hiểm độc?

Trên con đường đến nhà Mỵ, Hùng băn khoăn không biết sẽ khởi hành cách nào. Đành rằng bà Âu Cơ có bảo rằng mang viên ngọc quí trong mình thì có thể rẽ nước đi xuống biển; nhưng đại dương bao la như thế, biết hướng nào mà đi, di trong bao lâu cho tới thủy cung? Bỗng có người hỏi:

– Hùng suy nghĩ gì vậy?

Hùng ngửng nhìn lên. Mỵ đón đường chàng, tươi cười. Nàng nói tiếp, dáng điệu có vẻ bí mật:

– Mỵ biết anh nghĩ gì rồi.

Rồi nàng hạ thấp giọng:

– Có phải anh đang nghĩ tìm xuống thủy cung phải không? Nếu thế thì em biết, em sẽ chỉ cho

Hùng mở mắt lớn nhìn Mỵ:

– Làm sao cô biết được chuyện đi chủy cung? Bà chúa mới giao cho anh việc đó hồi sáng đây mà. Ai bảo cho cô hay vậy?

Mỵ cầm lấy tay  Hùng và dắt chàng lên ngọn đồi gần đó:

– Lên trên này ngồi, em sẽ nói hết đầu đuôi câu chuyện cho anh nghe

Rồi nàng bắt đầu kể:

“Trưa hôm qua trời nắng quá em lội xuống sông, vốc nước rửa mặt. Anh biết không, nước sông đã gần cạn, chỉ còn một lạch nước nhỏ giữa dòng mà thôi. Nước cũng không được trong bởi vì đáy sông có bùn. Em vừa vốc nước trên hai tay, định đưa lên phả vào mặt thì bỗng thấy trong lòng bàn tay một chú cá nhỏ màu hồng, bằng nửa ngón tay út của em đây mà thôi. Con cá thật đẹp, mình có vẩy óng ánh, hai mắt sáng như hai viên ngọc nhỏ. Em bèn không rửa mặt nữa, cứ bụm hai tay như thế mà đem chú cá vào nhà. Em bỏ cá vào một cái bát lớn, đổ đầy nước, rồi đi dệt vải. Một lát sau nghe tiếng quẫy mạnh, em đi tới nhìn thì thấy cái bát đã nghiêng đổ, và Bố ơi, em thấy con cá đã lớn lên gấp trăm lần, to bằng bắp tay của anh đấy. Em ngạc nhiên quá nhưng cũng đem cá thả vào cái thạp nước trước nhà, nghĩ rằng như thế cá sẽ đủ nước để sống, Sáng nay thức dậy, em ra thăm cá, thì anh ơi, cá đã lớn đến nỗi không còn chỗ trong thạp mà vẫy vùng. Em biết đây là một con cá thần nên nói: “Thôi để ta đem ngươi thả xuống dòng sông trở lại”. Bỗng cá trả lời em: “Không, ta không thể biến thành nhỏ lại được nữa, vì thời hạn được phép lên đất chơi đã hết. Bây giờ chỉ có thể lớn dần lớn dần cho thành nguyên hình mà thôi. Nếu ngươi muốn cứu ta, thì xin thả ta xuống biển. Ta sẽ đền ơn ngươi. Em nghe nói, sợ quá, liền ẵm cá chạy về phiá biển. Hai cánh tay em thế này mà có lúc mang không nổi cá; mỏi quá em phải ngồi nghỉ, đặt cá xuống cỏ trước  khi có thể tiếp tục mang cá ra biển. Đến bờ biển, cá nói: “ Em là công chúa thủy cung. Em cám ơn chị đã cứu mệnh. Đáng lý em không nên liều lĩnh lội ngược một dòng nước cạn như vậy. Nhưng nay thì tai nạn đã qua. Để đền ơn chị, em xin báo tin cho chị biết vì trời nắng hạn như thế này, thế nào bà chúa Âu Cơ cũng gởi người xuống thủy phủ tìm đức Long Quân, Em không dám xen vào chưyện người lớn. Nhưng em có thể mách chị: muốn xuống tới long cung, phải có một viên ngọc quý của Long Quân. Lại  phải có hai người trẻ tuổi: một trai và một gái. Phải đi đường Đông Hải là đường ngắn nhất. Nhưng như vậy thì phải đi qua hang Ngư Tinh. Đức Long Quân chưa biết rằng ở Đông Hải, đã có một loài thủy quái hiện đang tàn phá giết chóc ngư dân trú gần đó. Bản lĩnh ngư tinh cao cường lắm, em cũng không có thể đối địch với nó, huống hồ một hai người chưa biết gì là pháp thuật. Tuy nhiên, em sẽ dạy cho chị một bài linh chú, đi ngang qua hàng ngư tinh mà chị đọc bài linh chú ấy lên thì ngư tinh sẽ sợ hãi để cho chị đi qua mà không quấy phá. Bài linh chú này em học được của đức Long Quân”.

– Thế rồi cô có học thuộc bài linh chú ấy không? Hùng vội hỏi.

– Mỵ có học thuộc; để lát nữa em sẽ dạy lại cho anh cùng học thuộc.

Bây giờ thì hãy để em kể tiếp những lời nói của công chúa thủy phủ đã. Cá thần nói: Người được giao sứ mệnh xuống thủy cung là một chàng trai. Người ấy sẽ phải đi với một cô gái. Em biết chị có quen biết với người con trai kia.Vậy những điều em báo tin cho chị đây sẽ khiến cho chị trở thành người con gái duy nhất biết đường về thủy phủ. Những người đầu tiên được xuống thủy cung sẽ có tương lai rạng rỡ sau này trên mặt đất. Những điều em dặn đây chị hãy ghi nhớ cho kỹ. Vào buổi mai khi mặt trời mới mọc, hãy nhắm đúng hướng mặt trời mà đi xuống biển. Đưa viên ngọc qúy của đức Long Vương ra cầm trên tay thì một con đường sẽ được tẻ ra dưới nước. Nhưng đi sâu xuống chừng năm trăm trượng thì sẽ không còn thấy ánh sáng soi đường. Để ý cho rõ là dưới chân phải có cát vàng. Nếu bước lên trên một tảng đá, trên một thảm rêu hoặc trên bùn đất, đó là đã đi lạc đường. Những lúc thấy lạc đường phải dừng ngay lại, cầm bảo châu soi ra xung quanh. Thấy hướng nào có màu vàng ánh tới thì đi về phía ấy. Phải tránh những hướng có  tím, màu xanh và màu đỏ; nếu không sẽ đi lạc vào những hang động thủy quái. Đi chừng một ngày đường sẽ bắt đầu thấy ánh sáng. Đó là ánh sáng từ các cung điện bằng pha lê chiếu ra. Sau đó, sẽ gặp rất nhiều loại thủy tộc, tất cả đều dưới quyền thống lãnh của đức Long Quân. Nếu gặp những sinh vật cổ quái dữ tợn thì đừng sợ hãi. Hãy nói lớn: Đây là sứ giả đưa tin cho Nãgarãja! Nạt như thế thì sẽ không bị chúng cản đường hay xâm phạm tới. Nội cung của phụ hoàng không có ai canh giữ, vì người không muốn ai đến phiền nhiễu người trong giờ tĩnh tâm và làm việc. Cứ tìm vào, và xưng danh hiệu. Nếu đức Long Quân muốn tiếp kiến thì người tự hiện hình.

Mỵ ngừng lại một lát để thở  rồi tiếp:

Chưa hết, công chúa thủy cung còn nói: “Trước khi đi, phải tìm cho ra nước suối trong và ngọt để múc một bình đem theo. Phụ hoàng cần có nước ấy mới làm mưa được. Kho mây ở ngay dưới thủy cung; chìa khóa do phụ hoàng giữ, Nhưng có nước trong thì mới có mưa tốt. Nước các dòng sông đã vẩn đục. Em biết có một cái giếng sâu cách bờ Đông Hải bảy dặm. Giếng nước ấy đã cạn. Nhưng dưới đáy giếng có một con đường đi thông ra một dòng suối trong lòng đất. Suối này còn giữ được nhiều nước ngọt rất trong ở một hốc đá lớn. Theo lòng suối cạn mà đi thì tới Đông Hải, khỏi phải leo lên miệng giếng”.

Hùng nghĩ bụng: sáng sớm mai ta phải khởi hành, và phải cùng đi với Mỵ. Chàng nhắc lại những điều chàng vừa nghe cho Mỵ, để chắc rằng chàng đã ghi nhớ được hết mọi chi tiết. Trong khi nói chàng nhìn Mỵ như dò hỏi xem coi những điều chàng nhắc lại có đúng hay không và luôn luôn hai con mắt của Mỵ chứng tỏ là chàng đã ghi nhận rất đúng.

– Bây giờ đến câu linh chú, hãy đọc lên để anh cùng học thuộc. Sợ chỉ một người biết thì có thể quên, và người kia không thể nhắc được.

– Bài linh chú ấy như thế này:

Thủy tộc vạn loài thống lãnh

Quyền oai vang động dưới trên

Chúa tể Nãga dũng mãnh

Đại dương nép phục mọi miền

Giây phút Long Vương xuất hiện

Độc long yêu quái nằm yên

Gate paragate!

Cả hai người cùng đọc linh chú với nhau cho đến khi Hùng chắc chắn là mình đã thuộc. Họ hẹn sáng ngày mai lúc tờ mờ sương sẽ gặp nhau ở đầu ngõ để cùng khởi hành.

Đêm hôm ấy, Mỵ đem câu chuyện ra thưa với mẹ nàng. Bà chăm chỉ nghe, thỉnh thoảng chắc lưỡi tỏ vẻ lo ngại. Nghe xong, bà đứng dậy đi vào chỗ cất chứa những vật dụng quý giá của gia đình, và lấy ra một chiếc bình nhỏ, trong đó có chừng mười mấy hạt trắng như hạt đậu. Bà nói:

– Đây là bình thuốc tiên mà ngày xưa bà Chúa đã cho ngoại. Bà đã hái và luyện thuốc này trên núi một mình. Trong thời ấy bà còn lên xuống thế gian rất thường, không ẩn hình hẳn trên cảnh tiên non cao như bây giờ. Ngoại đã đem tiên dược này cho mẹ uống một lần, hồi mẹ ốm nặng gần chết. Thuốc rất hay. Con đi chuyến này với công tử, tuy là hiểm nguy nhưng đây là một việc làm cứu dân cứu nước; con hãy mang theo bình linh dược này, cất chặt trong túi áo. Có thể công tử và con sẽ phải dùng tới nó.

Hai mẹ con thức cho tới khuya để tâm sự. Cuối cùng Mỵ nghe lời mẹ đi nghỉ để sáng mai có sức lên đường.

Sáng hôm sau, lúc Mỵ gặp Hùng ở đầu ngõ, lời đầu tiên nàng hỏi là chàng còn thuộc lời linh chú không. Hùng gật đầu. Chàng giắt theo bên lưng một cái bình làm bằng trái bầu khô. Vai chàng vác một cuộn dây thừng lớn.

Hai người yên lặng đi trong sương sớm. Lá khô xao xác kêu dưới chân họ. Trời còn mát. Hùng đưa mắt nhìn những đám ruộng khô cháy bên đường và thở dài. Nếu chuyến đi này bất thành thì thiên hạ sẽ không thoát khỏi một cơn đói khát cùng cực. Nhiều gia đình đã bỏ làng, tản cư lên miền Bắc, mong tìm được một địa phương mát mẻ hơn, ít bị hạn hán hơn. Chính gia đình Mỵ cũng đã sửa soạn để di cư lên miền Bắc. Chàng không chắc di cư lên miền Bắc thì sự tình sẽ khá hơn. Bởi vì hy vọng tìm được những hồ chứa nước lớn có thể dùng để tưới tẩm cho hoa mầu là một hy vọng mong manh. Gia đình chàng nhất định không đi, quyết ở lại sống chết với mảnh đất này. Nếu gia đình Mỵ đi thì Mỵ sẽ phải đi theo mà như vậy trời đất mênh mông, biết đâu mà tìm Mỵ sau này. Chắc hẳn là nếu trường hợp đó xảy ra, chàng sẽ mất Mỵ, Bởi Mỵ yêu chàng và chàng đã nói riêng với Mỵ nếu gia đình Mỵ có ý muốn cưới chàng về với Mỵ thì chàng sẽ bằng lòng.

Nhưng hai người đã tìm ra được tới giếng nước. Nhìn xuống giếng thăm thẳm sâu, Mỵ chẳng trông thấy gì. Hùng cũng lắc đầu tỏ vẻ e ngại. Nhưng chàng vẫn thản nhiên tháo cuộn dây thừng, buộc một đầu thừng vào thân cây to lớn bên thành giếng, và buông thõng đầu dây kia vào giếng. Chàng níu vào dây nhảy xuống. Trong chốc lát chàng đã biến mất vào lòng giếng đen ngòm.

Mỵ chờ một lát không thấy gì, nóng ruột. Nàng chờ thêm một hồi lâu nữa vẫn không thấy động tĩnh gì. Nàng cúi xuống giếng, hốt hoảng gọi:

– Hùng ơi, Hùng ơi!

Âm thanh vang vào thành giếng dội ngược trở lại. Nàng không nghe tiếng trả lời của Hùng. Mãi một lúc sau mới có tiếng Hùng, nhưng âm thanh không rõ lắm. Rồi Hùng trở lên, leo ngồi ở thành giếng. Chàng nói:

Giếng sâu lắm. Tối om om. Nhưng nhờ có viên bảo châu ta có thể thấy đường được. Bây giờ anh phải tìm cách đưa Mỵ xuống.

Chàng bảo Mỵ ôm choàng lấy cổ chàng. Rồi chàng tháo một sợ dây vải bên người buộc Mỵ vào thắt lưng lớn của chàng. Chàng bảo Mỵ ôm cổ chàng thật vững và đừng sợ, nếu cần thì nhắm mắt lại. Lần theo sợ dây, chàng leo xuống giếng. Mỵ nhắm mắt lại, nhưng vẫn biết là hai người đang tuột dần xuống giếng. Hai cánh tay vững mạnh của Hùng bám chắc vào sợi dây lớn, chân chàng lần vào từng hốc đá của thành giếng, từ từ leo xuống.

Giếng sâu thăm thẳm như không bao giờ có đáy. Mỵ mở mắt ra nhìn thử. Nàng ngạc nhiên thấy ánh sáng tỏ ra từ viên ngọc mang ngang lưng Hùng. Hai tay nàng ôm chặt xung quanh cổ Hùng.

Cuối cùng hai người xuống tới đáy giếng.

Hùng đặt Mỵ đứng xuống. Chàng nghỉ một vài giây để thở. Không khí đáy giếng nặng nề và ẩm mục. Chàng đưa viên ngọc ra soi quanh thành giếng. Quả có một cửa hang rộng. Chàng cúi xuống chui vào hang. Qua khỏi cửa hang, chàng nhận thấy đây là một cái động khá lớn, trần động cao hơn đầu người. Lấy viên ngọc soi lên trần, chàng thấy vô số thạch nhũ trắng tinh.

Chàng gọi Mỵ, bảo nàng chui qua cửa hang. Hai người đi theo thạch động một lát quả thấy có một dòng suối khô cạn đi ngang. Hùng và Mỵ theo lời dặn của cá thần, hướng về phía trên suối mà đi. Chân hai người đạp trên cát mịn. Đi một hồi dưới chân thấy mát. Họ trèo qua những tảng đá lớn. Bỗng họ nghe tiếng nước róc rách chảy. Nhìn lên trần chỉ thấy thạch nhũ rủ xuống như từng lớp màn buông. Phía trước từng tảng đá xanh chồng lên nhau che lấp cửa suối. Dưới chân họ là cát ướt. Nước rỉ ra dưới chân thành đá.

Hùng bảo Mỵ đứng đợi. Chàng leo thoăn thoắt lên tường đá rồi cúi mình dưới muôn ngàn giọt thạch nhũ, trườn vào phía trong. “Nước”, chàng la lên như thế, và trở lại đỡ Mỵ cùng leo lên. Chui qua được trần thạch nhũ, Mỵ thấy một cảnh tượng diệu kỳ. Một hồ nước bao la lặng im không một gợn sóng. Nhờ ánh sáng của viên ngọc, nàng thấy bốn phía thạch nhũ rủ xuống mặt hồ, và đâu đó có tiếng nước chảy róc rách êm ái. Yên lặng quá. Nàng có cảm tưởng dù trên mặt đất có cháy khô thì dưới này nước vẫn còn được cất chứa. Và nàng nghĩ tới bà Chúa Âu Cơ. Mỵ tháo trái bí khô nơi lưng của Hùng và cúi xuống dìm nhẹ chiếc bình xuống nước. Khi nước đã tràn đầy, nàng rút lên, đậy chặt nút, và đeo bình trở lại vào lưng của Hùng như cũ. Hai người leo xuống thành đá, theo lối cũ trở ra, và tự nhiên trong lòng thấy yêu thương tràn ngập. Họ thoăn thoắt chạy trên cát; không mấy chốc mà đã đi ngang qua chỗ đường hầm thông qua đáy giếng. Thay vì trở lui về giếng, họ tiếp tục đi xuống và tin chắc rằng mình đang hướng dần về phía biển Đông.

Đường đi là lòng suối, có cát, dễ đi. Nhưng một lát sau, có những tảng đá hiện ra giữa lòng suối và hai bên suối. Rồi bỗng nhiên đá hiện ra rất nhiều và cuối cùng chắn mất lối đi. Hai người phải leo qua nhiều tảng đá để tiến bước.

Mỵ bỗng ngửi thấy một mùi xú uế. Nàng đưa mắt nhìn Hùng định hỏi xem chàng có ngửi thấy gì không, thì mùi hôi trở nên nồng nặc và Hùng đã nói:

– Hôi quá.

Hai người chợt phát giác dưới chân mình một bộ xương người. Đây là lần đầu tiên họ thấy một bộ xương người. Mỵ rú lên. Nàng thấy rải rác đây đó những bộ xuơng người khác. Hùng bỗng ngừng bước, nắm tay Mỵ:

– Hang ngư tinh. Em hãy coi chừng. Hãy định tâm và bình tĩnh. Nhớ lại câu linh chú.

Mỵ nhẩm đọc trong đầu câu linh chú. Nàng hồi hộp lo sợ. Nhưng nàng vững tâm thấy mình còn thuộc lòng bài kệ mà cá thần đã dạy.

Hai người rón rén tìm đường tiến tới phía trước. Họ đi tới một hầm đá rộng, trần rất cao, có ánh áng tờ mờ từ trên chiếu xuống. Có tiếng sóng chạm vào ghềnh đá ầm ầm. Họ biết họ đã tới bờ Đông Hải, và gần sát động của ngưu tinh.

Đột nhiên, từ một hốc đá lớn đen ngòm phía trước, Ngư tinh xuất hiện, miệng ngậm một con người. Đó là một con quái ngư đầu lớn bằng đống rơm cao ngất trước sân nhà của Mỵ, thân hình nó dài tới hàng chục trượng có nhiều khoang trắng và đen. Đuôi của yêu quái, toàn một màu trắng, quật vào vách động như muốn làm vỡ tan thành đá. Hùng buông Mỵ, đẩy nàng về tường động phía sau và xông tới. Với tất cả sức lực của mình, chàng nhảy lên đưa cả hai chân đá vào cổ họng của yêu quái.  Đòn của chàng có hiệu quả lập tức: ngư tinh nhả ngay thân người đang ngậm.

Nó quật đuôi lần thứ hai đánh rầm vào thành đá và hướng đến Hùng. Miệng của yêu tinh há rộng, hai hàm răng trông như hai hàng gươm giáo. Mỵ hét lên, nhưng Hùng đã nhảy lên phía hông của ngư tinh, tránh thoát đòn đầu tiên của quái vật. Chàng la lớn:

Mỵ bình tĩnh đọc linh chú.

Chàng biết sức mình không địch nổi ngư tinh nên chỉ cố lách tránh những đòn hiểm độc của nó. Sau khi tránh xong đòn thứ tư của ngư tinh, chàng mới nghe tiếng  Mỵ, vững mạnh, vang lên trong hang đá:

Thủy tộc vạn loài thống lãnh

Quyền oai vang động dưới trên

Chúa tể Nãga dũng mãnh

Đại dương khép phục mọi miền

Tiếng Mỵ vừa đọc đến đó, đột nhiên ngư tinh dừng lại, ngơ ngác nhìn. Thấy vậy, Hùng cất cao giọng đọc tiếp những câu cuối cùng của linh chú. Giọng chàng uy mãnh lạ thường:

Giây phút Long Vương xuất hiện

Độc long yêu quái nằm yên

Gate! Paragate!

Những tiếng Gate! Paragate vang vọng lên như sấm được vách đá chuyền đi vang động cả trong ngoài… Ngư tinh bỗng quay đầu lại phía hốc đá, và nhanh như chớp, luồn ra khỏi hang động. Linh chú đã có hiệu nghiệm.

Khi Hùng và Mỵ quay lại để nhìn người vừa làm nạn nhân cho ngư tinh thì đã thấy người này bò dậy. Họ vui mừng nhận thấy người đó còn sống. Đây là người đàn ông làm nghề đánh cá. Trên thân hình ông ta có vẽ hình rồng, những thủy quái đã vẫn cứ làm hại. Hùng và Mỵ xem xét thân hình của người ngư phủ thấy có những dấu răng cắm phủng vào. Ông ta rên xiết đau đớn. Hùng đặt ông ta nằm xuống, bảo nằm nghỉ một lát. Mỵ tháo bình tiên dược. Một mùi thơm lan ra ngát cả hang động làm cả ba người sảng khoái. Nàng bỏ vào miệng ngư phủ một viên thuốc tiên, bảo người này nuốt. Một lát sau, mọi thương tích tự nhiên lành lặn, và người ngư phủ vùng đứng ngay dậy. Ông ta mở miệng định nói mấy lời để tạ ơn, nhưng không làm sao nói được một lời.

Hùng nói:

– Chúng cháu không phải là tiên thánh gì mà chỉ là người thường như Bác đấy thôi. Xin bác đừng tạ ơn mà tội. Chúng cháu được bà Chúa phái về thủy cung cầu đức Long Vương làm mưa và mời Ngài về lo việc nước. Đi ngang đây, chúng cháu biết thế nào cũng phải đối phó với ngư tinh. May mà cứu được bác, chúng cháu rất mừng.

Ba người tìm lối ra khỏi cửa động. Tìm mãi chỉ thấy một lối ra duy nhất, đó lối ngư tinh vừa tẩu thoát. Họ can đảm đi ra bằng phía ấy, và cuối cùng tìm cách trèo lên được một ghềnh đá. Hùng và Mỵ sung sướng thở không khí mát lành của buổi sáng trên bờ Đông Hải. Mặt trời đã lên tới một con sào, trễ hơn thì giờ dự định. Chàng dặn bác ngư phủ:

– Xin bác về báo tin với đồng bào miền duyên hải ngừng công việc chài lưới gần động ngư tinh. Cũng xin báo cho họ biết là đã có sứ giả đi xuống long cung cầu cứu đức Long Vương. Thế nào đức Long Vương trở lên, ngài cũng trừ khử được yêu nạn này. Bác cứ yên tâm tìm đường về xóm, cháu chắc yêu tinh còn sợ thần lực của linh chú, chưa dám trở lại ngay đâu.

Hai người chào bác ngư phủ và leo xuống bờ cát. Họ đứng hướng về phía mặt trời, chân họ chấm nước biển. Người con trai đưa ra phía trước một viên ngọc sáng ngời. Bỗng nhiên, nước biển trước mặt hai người rẽ ra một đường rộng. Hai người đi xuống, nước bèn khép lại phía trên.

Chứng kiến cảnh tượng diệu kỳ đó, bác ngư phủ đứng trên ghềnh đá há miệng kinh ngạc. Từ lúc được ngư tinh nhả ra, được cô gái cho uống thuốc linh dược, cho đến khi từ biệt hai người, ông đã không nói được một lời nào. Kinh hoàng và cảm động đã làm cho ông không thể mở miệng. Ông rời ghềnh đá và im lặng tìm về ngư thôn, nao nức biết mình còn sống.