VI. Phương pháp hành trì

Hành trì chỉ quán là để đạt tới giải thoát, tức là đạt tới sự cởi mở những trói buộc. Cái gì trói buộc ta? Trước hết là sự quên lãng mà danh từ Phật học là thất niệm. Ta sống như trong một giấc mơ, ta bị lôi kéo về quá khứ, về tương lai, ta bị ràng buộc bởi những đau buồn, hờn giận, thắc mắc, sợ hãi. Trong hiện tại, giải thoát tức là vượt ra khỏi những trạng thái ấy để sống tỉnh táo, vui tươi, an nhiên và tịnh lạc. Sống như vậy mới là đáng sống. Sống như vậy, ta sẽ nguồn vui cho những người thân thuộc và cho những kẻ sống bên ta cũng như chung quanh ta. Đạo Bụt thường nói đến sự giải thoát tối hậu là giải thoát khỏi sinh tử. Cái chết là một niềm đe dọa lớn. Bao nhiêu thắc mắc và sợ hãi đã được phát sinh từ ý niệm chết. Thiền quán cũng là để cởi cho ta sợi dây thắc mắc và sợ hãi đó. Sau đây là những phương pháp hành trì kinh Quán Niệm Hơi Thở được trình bày một cách đơn giản theo tinh thần của kinh.

Hành giả nên chọn những pháp môn hành trì nào thích hợp với mình trong giai đoạn hiện tại để thực tập trước. Tuy mười sáu phép quán niệm hơi thở có liên hệ mật thiết với nhau, hành giả không nhất thiết phải hành trì theo thứ tự các phép quán niệm này. Thứ tự này không có nghĩa là đi tuần tự từ dễ đến khó. Pháp nào cũng mầu nhiệm như nhau, nếu dễ thì cũng dễ như nhau, khó thì cũng khó như nhau.

Tuy nhiên ta có thể nói những phép đầu chú trọng nhiều tới chỉ, và những phép sau chú trọng nhiều tới quán, tuy rằng chỉ và quán không khi nào tách biệt nhau. Có chỉ tức là đã có ít nhiều quán, và có quán tức nhiên là đã có chỉ. Sau đây là những chủ đề quán niệm được phân ra bảy loại như sau:

1. Theo dõi hơi thở trong đời sống hằng ngày: cắt ngang thất niệm và suy tưởng (hơi thở thứ nhất và thứ hai).

2. Ý thức về thân thể (hơi thở thứ ba)

3. Thực hiện thân tâm nhất như (hơi thở thứ tư)

4. Nuôi dưỡng bằng thiền duyệt (hơi thở thứ năm và thứ sáu)

5. Quán chiếu cảm thọ (hơi thở thứ bảy và thứ tám)

6. Điều phục và giải thoát tâm ý (hơi thở thứ chin, mười, mười một và mười hai)

7. Quán chiếu thực tướng vạn hữu (hơi thở thứ mười ba, mười bốn, mười lăm và mười sáu)

Người tại gia cũng như người xuất gia, phải biết thực tập hàng ngày chủ đề 1 (“theo dõi hơi thở trong đời sống hàng ngày”) và chủ đề 4 (“ nuôi dưỡng bằng thiền duyệt”). Mỗi lúc thực tập tọa thiền, nên luôn luôn bắt đầu bằng hai chủ đề ấy, rồi sau mới đi tới những chủ đề quán chiếu khác. Mỗi khi thấy tâm trạng bất an, chán nản, buồn bực v.v…thì nên thực tập chủ đề 5 (“ quán chiếu cảm thọ”). Chủ đề 7 là cửa ngõ thoát ly sinh tử, bậc đại trượng phu phải đi qua cửa ngõ này. Đây là tặng phẩm lớn nhất của Bụt. Sáu chủ đề trước đều có chỉ và quán, chủ đề thứ 7 nặng nhất về quán, hành giả khi đã có khả năng tập trung tâm ý khá vững (định lực) rồi thì nên đi vào chủ đề này.

1. Theo dõi hơi thở trong đời sống hàng ngày:
cắt ngang thất niệm suy tưởng (hơi thở thứ nhất và thứ hai)

Phần lớn đọc giả không phải là những hành giả sống trong rừng, dưới gốc cây hoặc trong tu viện… Trong đời sống hàng ngày, chúng ta lái xe, làm việc trong sở, chờ buýt, nói điện thoại, đi bộ từ cao ốc này sang cao ốc khác, chùi nhà, nấu bếp, dọn dep, phơi áo quần v.v…ta phải biết thực tập quán niệm hơi thở ngay trong khi chúng ta làm các công việc ấy.

Thường thường trong khi làm các công việc này ta cứ để trí óc suy nghĩ vẩn vơ từ chuyện này sang chuyện khác. Những mừng, vui , buồn, giận, bực tức, v.v…. cứ thay nhau đến rồi đi, thuận theo những dòng suy nghĩ mông lung đó. Như vậy, ta sống mà không nắm được chủ quyền của tâm ý, ta sống trong quên lãng. Vậy ta phải nắm lấy hơi thở ta, ý thức về hơi thở ta và theo dõi hơi thở của ta. Thở vào và thở ra, ta biết là ta thở vào hay thở ra, và ta mỉm miệng cười để chứng tỏ ta là ta, ta có chủ quyền trên ta. Bằng hơi thở có ý thức, ta thiết lập sự tỉnh thức (chánh niệm) trong giờ phút hiện tại. Thở và chỉ để ý đến hơi thở thôi, đó là ta đã thiết lập được chỉ, tức là sự định tâm. Hơi thở có ý thức giúp cho tâm ta khỏi phiêu lưu vào thế giới tạp niệm, nghĩa là thế giới của sự suy nghĩ miên man, vớ vẩn.

Phần lớn các công việc ta làm đều có thể đi đôi với phép theo dõi hơi thở này. Khi nào công việc đòi hỏi một sự chú tâm đặc biệt để tránh sự lầm lẫn hoặc tai nạn, ta cần phối hợp hơi thở ý thức với công việc. Ví dụ khi tôi đang nâng một nồi nước sôi đi từ phòng này sang phòng khác, hoặc là khi tôi đang bắt điện. Tôi ý thức được từng cử chỉ của bàn tay tôi. Tôi nuôi dưỡng ý thức ấy bằng hơi thở. “Tôi đang thở ra và ý thức rằng tay tôi đang nâng nồi nước sôi”. “Tôi đang thở vào và ý thức rằng tay phải tôi đang cầm sợi dây điện”. Khi tôi đang lái xe và sắp sửa qua mặt một chiếc xe khác, “tôi đang thở vào và biết rằng tôi đang qua mặt một chiếc xe khác”. “Tôi đang thở vào và biết rằng tình trạng khá an toàn”.v.v…Tuy nhiên, không phải ta chỉ cần phối hợp hơi thở có ý thức với công việc trong trường hợp công việc đòi hỏi nhiều sự chú ý. Ta cũng có thể phối hợp hơi thở có ý thức với bất cứ động tác nào của thân thể. “Tôi đang thở vào và đang ngồi xuống”, “tôi đang thở ra và đang lau bụi trên bàn”. “Tôi đang thở vào và mỉm cười một mình”. “Tôi đang thở ra và chuẩn bị bắt một ấm nước lên bếp”.

Đình chỉ được loạn tưởng (suy nghĩ miên man) và đình chỉ được thất niệm  (sống buông xuôi theo quên lãng) là một bước rất lớn trong thiền tập, mà bước này ta có thể thực hiện được bằng phương pháp theo dõi hơi thở và phối hợp hơi thở có ý thức với công việc ta làm hàng ngày.

Có những người mất hết an lạc và có thể phát điên chỉ vì không đình chỉ được loạn tưởng. Họ phải uống thuốc an thần để ngủ, mong rằng khi ngủ thì tâm trí được nghỉ ngơi. Nhưng khi ngủ, họ vẫn đi qua nhiều lớp mộng mị và những khổ thọ như lo âu sợ hãi và bực tức vẫn tiếp tục đến công phá. Suy nghĩ nhiều quá, bạn có thể bị đau đầu, bạn có thể sẽ bị tổn thất thần khí, vì vậy thực tập phép theo dõi hơi thở và phối hợp hơi thở ý thức với công việc hằng ngày bạn sẽ có thể cắt ngang dòng loạn tưởng, đồng thời thắp sáng được sự tỉnh thức. Thở ra và thở vào có ý thức, đó là một phép tu rất mầu nhiệm mà cũng là một phép tu thật đơn giản, ai cũng có thể thực tập được.

Đây là phép áp dụng hai hơi thở đầu trong số mười sáu hơi thở được nhắc đến trong kinh. Hành giả nên tìm đọc kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm (Niệm Xứ Kinh- Satipatthàna Sutta) để bổ túc cho kiến thức đã thu nhận từ kinh Quán Niệm Hơi Thở.

Những vị sống trong chùa, trong thiền viện hay trong những trung tâm thực tập thiền học cũng phải thực hành theo những điều đã chỉ dẫn ở trên. Tuy trong thiền viện có thời khóa buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều, nhưng người sống trong thiền viện vẫn sinh hoạt như bất cứ ai khác: đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc… Phối hợp ý thức về hơi thở và ý thức về những động tác của thân thể, đó là pháp môn cơ bản để chấm dứt loạn tưởng, sống trong tỉnh thức và vun trồng định lực.

Trong những phút đầu của giờ thiền tọa, hành giả cũng áp dụng phương pháp này để điều hòa hơi thở và nếu thấy cần thiết thì cũng có thể thực tập việc theo dõi hơi thở có ý thức này trong suốt buổi thiền tọa.

2. Ý thức về thân thể (hơi thở thứ ba)

Trong thiền tập, thân thể và tâm ý trở thành một hợp thể. Trong tư thế ngồi, nằm, đứng hay đi, ta có thể thực tập ý thức về thân thể ta, ban đầu từ những bộ phận khác nhau, và sau hết đến toàn thể hình hài của ta. Ta có thể bắt đầu bằng tóc trên đầu và đi tới ngón chân. Ví dụ bạn đang ở trong tư thế ngồi thiền. Sau khi điều chỉnh hơi thở,bạn bắt đầu thở ra và quán tưởng: “Tôi đang thở ra và có ý thức về tóc trên đầu tôi”. “Tôi đang thở vào và có ý thức về não bộ của tôi”. Cứ như thế bạn đi dần tới các ngón chân. Trong quá trình thực tập, có thể có những cảm giác và những nhận định được nảy sinh. Ví dụ khi đi ngang trái tim, tôi chợt thấy nảy sinh ra một cảm giác lo lắng về tình trạng trái tim của một người bạn thân. Tôi không xua đuổi cảm giác lo lắng đó. Tôi ghi nhận nó: “Tôi đang thở vào và ý thức rằng tôi đang có cảm giác lo lắng về tình trạng trái tim của bạn tôi”. Rồi bạn tiếp tục hành trình quán chiếu thân thể bạn dưới hơi thở có ý thức. Tôi thêm một ví dụ: khi đi ngang bộ tiêu hóa, tôi chợt thấy hàng triệu sinh vật vi tế đang cùng chung sống với tôi ngay trong ruột tôi. Tôi không xua đuổi cái thấy ấy. Tôi chỉ ghi nhận nó. “Tôi đang thở vào và có ý thức về những vi sinh vật đang cùng sống với tôi và trong tôi”. Nếu bạn thấy cái ý thức về sự cộng sinh của các vi sinh vật ấy là một đề tài thiền quán giàu có, bạn có thể ghi nhận như thế, tự hẹn sẽ trở về với đề tài thiền quán đó, và tiếp tục cuộc hành trình quán chiếu cơ thể của bạn.

Nên biết là chúng ta rất ít để ý tới các bộ phận của cơ thể ta và ta chỉ chú trọng tới chúng khi chúng đau nhức hay bắt đầu có bệnh tật. Bạn có thể bỏ ra hằng chục năm lên xuống ra vào lợi danh, nhưng chưa bạn chưa từng nắm lấy ngón chân út của bạn trong ý thức. Ngón chân út của bạn quan trọng lắm đấy. Nó đã dễ thương với bạn từ trước tới nay. Giả dụ một ngày mai nó có dấu hiệu ung thư trong nó, thì bạn mới tính sao?

Bạn có thể nghĩ rằng ý thức về thân thể là một việc làm không quan trọng lắm, không phải thế đâu. Hiện tượng sinh lý, tâm lý và vật lý nào cũng là một cửa ngõ đưa ta vào chân lý. Bạn có thể quán ngón chân út của bạn và thành đạo. Bản chất của phép tu là ngưng tụ tâm ý để nhìn trong ý thức các bộ phận của cơ thể. Thực tập như vậy, một ngày kia (có thể là ngày mai hay chính chiều hôm nay) bạn có thề sẽ thấy được điều kỳ lạ và sâu sắc có thể thay đổi được cái nhìn và cách sống của bạn. Tóc trên đầu bạn là một vật rất thường chẳng có gì là đặc biệt? Không phải thế đâu! Tóc trên đầu bạn là một sứ giả của chân lý đó. Bạn hãy tiếp nhận ủy nhiệm thư từ những sợi tóc ấy, nhìn cho kỹ và khám phá cho được sứ điệp mà mỗi sợi tóc mang trong nó. Hai mắt của bạn là những hiện tượng sinh lý tầm thường chẳng có gì là đặc biệt ư? Bạn lầm rồi đấy. Chúng là những cánh cửa mở để cho bạn đi vào cõi chân thể mầu nhiệm. Bạn đừng nên xem thường vật gì hết. Nhìn cho sâu, nhìn cho kĩ, bạn sẽ thấy. Đó là thiền tập

3. Thực hiện thân tâm nhất như (hơi thở thứ tư)

Trong một buổi thiền tập khác, bạn hãy quán chiếu toàn thể hình hài bạn mà không phân biệt từng bộ phận như trước. “Tôi đang thở vào và có ý thức toàn thân thể tôi” (hơi thở thứ ba của kinh). Trong trường hợp này bạn để hơi thở, thân thể và tâm quán chiếu phối hợp thành một. Hơi thở và thân thể là một. Hơi thở với tâm là một. Tâm với thân là một. Trong phút quán chiếu, tâm không phải là một thực thể tồn tại độc lập ngoài hơi thở và ngoài cơ thể. Biên giới giữa chủ thể quán niệm và đối tượng quán niệm không còn. Đây tức là “quán thân trong thân”. Tâm ý không “đứng ngoài” để quán chiếu nữa. Tâm ý là một với đối tượng quán chiếu. Đây là nguyên lý năng sở không tịch đã được triển khai rất đầy đủ trong truyền thống đạo Bụt đại thừa.

Thực tập như thế trong khoảng từ mười tới hai mươi phút bạn sẽ cảm thấy sự vận hành của hơi thở và của cơ thể bạn trở nên êm tịnh và vi tế, do đó tâm ý bạn cũng trở nên tĩnh lặng hơn nhiều. Khi bạn mới bắt đầu, cả ba thứ (tâm,hơi thở và than thể đều thô phù như bột xay chưa nhuyễn, như người cưỡi ngựa chưa thuần, như tiếng đại hồng chung mới thỉnh. Dần dần cả ba thứ trở nên thuần thục, êm tịnh và vi tế. Bột dần dần thành nhuyễn, ngựa dần dần phi êm, chuông đã bắt đầu ngân nga dìu dặt. Hơi thở thứ tư đưa bạn về phía ấy. “Tôi đang thở vào và làm cho toàn thân tôi an tịnh” “tôi đang thở ra và và làm cho toàn thân tôi an tịnh”. Giống như khi trời nóng bạn uống vào một ly nước chanh đá và cảm thấy mát ruột mát gan, hơi thở của bạn đi vào cơ thể làm an tịnh mọi tế bào trong đó. Đồng thời mọi  “tế bào” của hơi thở cũng trở nên an tịnh hơn và mọi “tế bào” của tâm ý bạn cũng trở nên an tịnh hơn. Ba là một, một là ba; thiền quán là như thế. Ngựa phi êm thì người cưỡi ngựa cũng êm; người cưỡi ngựa càng êm thì ngựa cũng thấy càng êm. Điều này cũng đúng với âm thanh của chuông, màng nhĩ của người nghe và chính người nghe nữa. Hơi thở này đem lại thiền duyệt cho bạn. Thiền duyệt là niềm vui và sự an lạc do thiền đem tới. Đó là thức ăn. Bạn được nuôi dưỡng bằng thiền duyệt thì bạn sẽ vui tươi, đằm thắm, rộng lượng, và những người sống chung với bạn cũng sẽ được thừa hưởng cái hạnh phúc ấy một phần nào.

Hơi thở thứ tư (thở vào và thở ra làm cho toàn thân an tịnh) tuy nhắm tới mục đích làm cho an tịnh sự vận hành của cơ thể (nguyên văn: an tịnh thân hành) nhưng kì thực cũng nhắm tới mục đích làm cho hơi thở và tâm ý an tịnh. Sự an tịnh của một trong ba yếu tố (tâm ý, hơi thở và cơ thể) kéo theo sự an tịnh của hai yếu tố khác. Trong thiền tập, sự phân biệt giữa tâm và thân không còn nữa, và vì vậy hành giả an trú trong trạng thái thân tâm nhất như và không còn thấy chủ thể quán niệm tồn tại ngoài đối tượng của quán niệm.

4. Thiền duyệt là thức ăn (hơi thở thứ năm và thứ sáu)

Người tập thiền phải biết tự nuôi dưỡng bằng thiền duyệt, nghĩa là bằng sự an vui của thiền định, để trưởng thành và để có đủ năng lực hành đạo và giúp đời. Đời vừa khổ đau vừa mầu nhiệm. Truyền thống đạo Bụt Phương Nam nhấn mạnh tới tính chất khổ đau, trong khi truyền thống đạo Bụt Phương Bắc không quên nhắc tới những mầu nhiệm của cuộc đời. Trúc tím, hoa vàng, mây trắng, trăng trong v.v… là những biểu hiện mầu nhiệm của pháp thân. Thân thể con người tuy rằng vô thường, vô ngã và bất tịnh nhưng cũng là vô cùng mầu nhiệm. Khi ngồi dưới gốc cây, nơi vắng vẻ, xa lánh cảnh náo nhiệt của thị thành, người hành giả cảm thấy thoải mái và an lạc. Cảm giác thoải mái và an lạc này ta cũng đạt được khi ta xa lìa được những nhiễu nhương và phiền toái của cuộc sống quanh ta. Mỗi cuối tuần, xa lánh được thị thành náo nhiệt và đầy phiền não và thoát được về miền quê, bạn cảm thấy vui mừng và thoải mái. Qua được một kì thi, bạn cảm thấy đã rũ bỏ được hết lo âu. Chấm dứt một ngày bận rộn, tắt được máy truyền hình, đốt lên một cây nhang cho thơm nhà, ngồi lại trong tư thế hoa sen và bắt đầu thực tập nụ cười và hơi thở, bạn cảm thấy một niềm vui. Đó là cảm giác an lạc thứ nhất của thiền tập. Hơi thở thứ năm (“ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui”, “ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui”) có nhiệm vụ giúp cho bạn có ý thức về cảm giác an lạc ấy. Dứt bỏ được những bận rộn, những phiền toái và những ưu tư vô ích, bạn đi vào chánh niệm với sự vui mừng. Từ sự vui mừng này bạn đi tới sự an lạc một cách dễ dàng.

Hơi thở thứ sáu thiết lập ý thức về sự an lạc. “Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc”. Sự an lạc này phát sinh từ sự thoát ly bận rộn, phiền toái và ưu tư. Sự an lạc này cũng phát sinh từ sự thoải mái của cơ thể và của tâm ý.

Khi đau răng ta thấy rằng không đau răng là một lạc thọ, nghĩa là một cảm giác dễ chịu. Vậy mà phần lớn những người không đau răng chẳng khi nào ý thức được cảm giác dễ chịu ấy. Khi hai mắt bị mù, người ta mới thấy rằng có đôi mắt sáng có thể thấy được mây trắng và trời xanh là một điều mầu nhiệm. Tuy vậy phần lớn những người có mắt sáng chẳng khi nào ý thức được sự mầu nhiệm đó. Thiền tập là để ý thức rằng nếu khổ đau có mặt thì mầu nhiệm cũng có mặt. An lạc là thức ăn đầu của thiền giả, và thiền giả không cần đi tìm kiếm sự an lạc ấy ở bên ngoài. Thiền giả chỉ cần ý thức được sự an lạc là tự khắc có an lạc. Lạc thọ cũng giống như khí trời, ta có thể thọ dụng tùy theo nhu cầu của ta. Ta thường phân biệt ba loại cảm giác(thọ): khổ thọ (cảm giác khó chịu), lạc thọ (cảm giác dễ chịu) và xả thọ (cảm giác trung tính, không khó chịu cũng không dễ chịu). Thiền giả, bằng công phu thiền tập của mình, biết biến những xả thọ thành lạc thọ để nuôi dưỡng mình. Những thứ lạc thọ do xả thọ biến thành đều có tính cách lành mạnh và bền bỉ hơn những loại lạc thọ khác. Khi được nuôi dưỡng thường xuyên bằng thiền duyệt, hành giả trở nên thoải mái, dễ chịu, rộng lượng và từ bi; vì vậy pháp lạc sẽ thấm sang những người bên cạnh. Có an lạc, ta mới chia sẻ được sự an lạc với kẻ khác và mới có đủ nghị lực để tiếp nối công việc độ sinh, vốn là một thứ công việc đòi hỏi nhiều gian khổ và kiên nhẫn.

5. Quán chiếu cảm thọ (hơi thở thứ bảy và tám)

Các hơi thở thứ bảy và tám cũng nhắm tới sự quán chiếu về cảm thọ. Cảm thọ tức là cảm giác. Không phải chỉ là những cảm giác an lạc mà cả những cảm giác không an lạc nữa. Những cảm giác như bực bội, giận hờn, bất an, lo âu, mệt mỏi, chán nản v.v… đều là những cảm giác không an lạc. Khi một cảm giác như thế có mặt, thiền giả nhận diện nó, ý thức được sự có mặt của nó, nói một cách khác hơn là thắp lên một mặt trời chánh niệm để soi sáng nó. Đó là công trình quán chiếu. Ví dụ như cảm giác bực bội. Thiền giả tự biết: “Sự bực bội có mặt trong ta. Ta đang là sự bực bội”. Và thiền giả thở vào và thở ra trong ý thức ấy.

Pháp Thiền quán của đạo Bụt được thiết lập trên cơ bản bất nhị, vì vậy hành giả không xem sự bực bội là một kẻ thù từ bên ngoài đột nhập vào mà trái lại còn ý thức được rằng trong giờ phút hiện tại mình chính là sự bực bội nữa. Do nhận thức đó, thiền giả không còn có ý chống đối xô đuổi và đánh phá sự bực bội. Thực tập thiền quán không phải là thiết lập một ranh giới giữa thiện và ác trong bản thân mình và biến bản thân mình thành một bãi chiến trường. Đạo Bụt kỵ nhất là việc ấy. Thiền giả đối xử với sự bực bội mình một cách từ bi và bất bạo động. Thiền giả đối phó với sự bực bội của mình bằng một tấm lòng lân mẫn như là đối phó với chính người em ruột của mình. Thắp sáng ý thức chánh niệm lên duy trì ý thức ấy cùng với hơi thở ra và hơi thở vào. Dưới ánh sáng của sự quán chiếu, niềm bực bội sẽ dần biến chất. Biến chất chứ không phải tiêu tán. Mỗi cảm giác là một vùng năng lượng. Cảm giác an lạc là thứ năng lượng có thể nuôi dưỡng. Cảm giác bất an là thứ năng lượng có thể tàn hại. Dưới ánh sáng của quán niệm, năng lượng bất an có thể biến thành năng lượng nuôi dưỡng.

Cảm giác (thọ) có nguồn gốc hoặc từ thân thể (sắc) hoặc từ tri giác (tưởng). Khi ta thiếu ngủ ta có thể có cảm giác mệt mỏi hoặc cáu kỉnh, và như vậy cảm giác có nguồn gốc từ thân thể. Khi ta có tri giác sai lạc về người hoặc về sự việc thì ta có thể có cảm giác tức giận, chán nản hoặc bực bội:cảm giác ở đây có nguồn gốc ở tri giác. Theo đạo Bụt, tri giác của ta rất dễ bị lầm lạc, vì vậy cho nên ta bị khổ sở nhiều. Thiền quán là nhìn sâu vào sự vật để thấy được chân tướng của sự vật và để vượt thoát những tri giác lầm lạc ấy. Nhận lầm sợi dây là con rắn, ta hoảng sợ la lên. Hoảng sợ là một cảm giác. Nhận lầm sợi dây là con rắn là một tri giác sai lạc.

Sinh hoạt có điều độ, giữ gìn cho cơ thể lành mạnh, ta có thể giảm thiểu những cảm giác khổ đau có nguồn gốc sinh lý. Quán sát vạn vật cho sâu sắc: mở rộng tầm hiểu biết và thương yêu, ta có thể giảm thiểu được phẩm và lượng của những cảm giác khổ đau có nguồn gốc tri giác. Quán chiếu một cảm giác tức là nhận biết được những nguyên do xa gần đã làm phát sinh cảm giác ấy. Đi  sâu vào sự nhận biết ấy tức là khám phá được tự tính (bản chất) của cảm giác.

Khi có một cảm giác như bực tức, lo sợ v.v…hành giả ý thức được sự có mặt của cảm giác này và nuôi dưỡng ý thức ấy bằng hơi thở. Duy trì hơi thở ý thức, hành giả kiên trì nhìn sâu vào bản chất của cảm giác. Hễ thấy được thì có giải thoát. Hơi thở thứ bảy nói về hoạt động tâm ý: “Ta thở vào (thở ra) và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta”. Hoạt động tâm ý ở đây là sự phát sinh, tồn tại và biến chất của các cảm giác vậy.

Hơi thở thứ tám nhắm đến sự biến cải năng lượng của cảm giác. “Ta đang thở vào (thở ra) và làm cho những hoạt động tâm ý của ta an tịnh”. Nhờ sự quán chiếu về bản chất của cảm giác mà thiền giả biến cải được năng lượng không an lạc của một cảm giác thành năng lượng an lạc. Khi ta hiểu được một người thì ta có thể chấp nhận và thương yêu người đó. Mà đã chấp nhận thì ta không còn trách móc và có cảm giác bực bội với người ấy như trước. Năng lượng của cảm giác bực bội trong trường hợp này, có thể được biến thành năng lượng thương yêu

6. Điều phục tâm ý và giải thoát cho tâm ý
(hơi thở thứ chín,thứ mười,thứ mười một và thứ mười hai)

Hơi thở thứ chín là hơi thở nhận diện những hoạt động tâm ý ngoài cảm giác. “Ta đang thở vào (thở ra) và có ý thức về tâm ý ta”. Tâm ý (citta) ở đây là tổng thể mọi hiện tượng tâm lý trong đó có tri giác,tư tưởng, suy luận, phân biệt, tưởng tượng và cả tiềm thức nữa.

Bất cứ một hiện tượng tâm lý nào phát  khởi trong ta, ta phải nhận diện nó bằng hơi thở có ý thức. Ta lại còn quán chiếu hiện tượng tâm lý ấy để thấy liên hệ giữa nó với toàn bộ tâm ý ta.

Với bốn hơi thở đầu ta có thể đồng nhất ta với hơi thở và cắt đứt mọi suy tư phân biệt và tưởng tượng. Hơi thở thứ chín này là để nhận diện các hiện tượng tâm ý như suy tư và tưởng tượng khi chúng ta phát khởi. Ta đừng nên quên rằng danh từ tâm (citta) là để chỉ cho mọi hiện tượng tâm lý như cảm giác, tri giác, suy luận v.v… với tất cả đối tượng của chúng chứ không phải là để chỉ một chủ thể tâm lý có tính cách bất biến và đồng nhất có thể tồn tại ngoài đối tượng nhận thức. Tâm là một dòng hiện tượng tâm lý luôn luôn chuyển biến sinh diệt, trong ấy sự phát sinh tồn tại và hoại diệt của một hiện tượng có liên quan đến sự phát sinh, tồn tại và hoại diệt của mọi hiện tượng khác. Biết nhận diện những hiện tượng tâm lý đang phát khởi là một công trình thực tập quan trọng. Những hoạt động của tâm ý ta thường thường là lăng xăng và náo động không khác gì một dòng thác đang chảy qua các khe đá: tâm thường được vì như một con vượn không ngừng chuyền cành này sang cành khác hay một con ngựa đang phi. Thấy được sự vận hành của tâm ý nhờ công trình nhận diện rồi, ta có thể nhiếp thu tâm ý và làm cho tâm ý ta lắng lại và cảm thấy an lạc trong trạng thái tâm ý lắng đọng này. “Ta đang thở vào (thở ra) và làm cho tâm ý ta an lạc”. Bạn hãy so sánh hơi thở này với hơi thở thứ tư và thứ tám. Hơi thở thứ tư nhắm đến sự an tịnh của thân thể. Hơi thở thứ tám nhắm đến sự an tĩnh của cảm giác. Hơi thở thứ mười này nhắm đến sự an tịnh của tâm ý. Ba hơi thở này có công dụng đưa ta vào hoan hỷ địa tức là trạng thái vui mừng an lạc của thiền định. Trạng thái này đem lại cho hành giả nhiều thư thái và an lạc và nuôi dưỡng được định lực của hành giả, nhưng hành giả sẽ không ngừng lại tại đây mà phải tiến tới quán chiếu để đạt tới tuệ giác, bởi vì chỉ có tuệ giác mới thực sự đưa ta tới giải thoát.

Hơi thở thứ mười một nào một nhắm đến sự tập trung ý vào một tượng duy nhất. Chỉ khi nào ta tập trung tâm ý bền bỉ trên đối tượng ta mới có thể quán chiếu được đói tượng ấy một cách hiện hữu. Đối tượng ấy có thể là hơi thở,là một hiện tượng sinh lý, một hiện tượng tâm lý (như cảm giác, tri giác, v.v…) hay một hiện tượng vật lý (như một chiếc lá hay một viên đá cuội). Các hiện tượng vật lý này cũng đều được kinh liệt vào hàng đối tượng của tâm ý, không tồn tại độp lập với tâm ý.

Đối tượng của tâm lý trong định là một vùng đối tượng nằm dưới ánh sáng quán chiếu của tâm ý, cũng như một ca sĩ đứng trong một vùng ánh sáng tròn (spotlight) trên sân khấu vậy. Đối tượng này có thể di chuyển trên không gian và thời gian, bởi vì nó cũng sinh động như tâm ý quán chiếu. Trong định, chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu trở nên nhất như. Hơi thở cũng là một đối tượng của tâm lý trong định. Khi ta để hết tâm lý vào hơi thở, tâm ta chỉ theo dõi hơi thở, tâm ta với hơi là một, đó là định. Định là ngừng tụ tâm ý trên một đối tượng duy nhất. Sau khi thực tập với hơi thở, bạn có thể thực tập với những hiện tượng sinh lý, vật lý và tâm lý khác. Có định thì công phu quán chiếu mới thành công.

Hơi thở thứ mười hai nhằm tháo gỡ cho những chổ kẹt của tâm lý: “Ta đang thở vào (thở ra) và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do”. Tâm ý của ta có thể đang bị ràng buộc bởi những đau thương hoặc những kỷ niệm về quá khứ, hoặc đang bị lôi kéo bởi những lo lắng và dự tính về tương lai, hoặc đang nằm dưới ảnh hưởng của những cảm giác bực tức, sợ hãi hay nghi ngờ của hiện tượng hoặc đang bị rối ren mờ mịt vì một tri giác thiếu sót… Có định, ta mới có khả năng quán chiếu và cởi mở những chổ kẹt đó do tâm ý ta. Cũng như khi ta muốn gỡ một nùi chỉ rối, ta phải có đủ thư thái và thì giờ. Quán chiếu tâm ý cho bình tĩnh và cho sâu sắc ta mới gỡ rối được cho tâm ý.

7. Quán chiếu về thực tướng vạn hữu
(hơi thở thứ mười ba,mười bốn,mười lăm và mười sáu)

Hơi thở thứ mười ba nhằm quán chiếu về tính cách vô thường của vạn hữu. Mọi hiện tượng đều vô thường (“chư hạnh vô thường”), sinh lý, tâm lý cũng như vật lý. Vô thường không chỉ có nghĩa là “nay còn mai mất”. Vô thường quán là một phép quán sâu sắc và mầu nhiệm không cùng. Không có một hiện tượng nào có cá thể riêng biệt và thường còn. Tất cả đều chuyển biến thường xuyên và không có tự ngã. Vì vậy vô thường cũng là vô ngã: đây là nhận thức căn bản của đạo Bụt về thực tính vạn hữu. Vô thường cũng có nghĩa là nhân duyên sinh: vạn vật nương vào nhau mà có mặt, vạn vật làm điều kiện sinh khởi và tồn tại cho nhau. Điều kiện tức là nhân duyên. Kinh (Trung A Hàm) nói: cái này có mặt vì cái kia có mặt, nếu cái này không có mặt thì cái kia cũng không (“nhược thử hữu cố bỉ hữu. nhược thử vô cố bỉ vô). Vô thường cũng có nghĩa là vô tướng: thực tại của vạn hữu thoát ly mọi khái niệm và ngôn từ, ta chỉ quen nắm bắt hiện tượng qua những phạm trù tri giác và tư tưởng, do đó không đi vào bản chất của thực hữu một cách trực tiếp. Những phạm trù ấy tức là tướng vậy. Ví dụ về sóng và nước thường được đưa ra để giúp ta hiểu được tính chất vô hướng của vạn hữu. Sóng thì có cao có thấp có sinh có diệt, nhưng bản thân của sóng (là nước) thì không cao thấp sinh diệt. Những “tướng” cao thấp sinh diệt không động tới được bản thân của nước. Ta khóc cười theo tướng, bởi vì ta chưa thấy được tánh. Tánh (Svabhàva) là tự thân của thực tại vạn hữu, tức là của ta vậy? Vô thường cũng là không: thực tại của vạn hữu là vô tướng, không thể được nắm bắt bằng khái niệm và ngôn từ, cho nên được gọi là không. Không ở đây không thể có nghĩa là không đối với có, mà chỉ có nghĩa là vô tướng, thoát ra ngoài mọi nắm bắt của khái niệm, trong đó có các khái niệm sinh, diệt, có, không, thêm, bớt, nhơ, sạch…(Tâm Kính Bát Nhã:”thể moị pháp là không: không sinh cũng không diệt, không nhơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt”). Vô thường cũng là vô tác: vạn hữu có mặt không phải là nhắm tới một mục đích tối hậu nào cả, và vì thế tính của vạn hữu không có thêm, không có bớt, không có thủy, không có chung, người hành giả không cần phải tìm kiếm một sự tu chứng ở bên ngoài, bởi trong tự thân của các pháp đều đã tròn đầy giác tính.

Hơi thở thứ mười bốn nhắm đến sự quán chiếu về tính cách tàn hoại của vạn pháp. “Ta đang thở vào (thở ra) và quán chiếu tính tàn hoại của vạn pháp”. Vạn pháp đều vô thường vì vậy nên phápnào cũng đang trên con đường đi tới tan rã. Một bông hồng, một đám mây, một thân người, một cây cổ thụ… tất cả đều đang đi tới tàn hoại. Đứng về phương diện tướng trạng mà xét thì tất cả các pháp đều đi qua các giai đoạn sinh, trú, dị và diệt. Sinh là phát sinh, trú là tồn tại, dị là biến hoại, diệt là không còn có mặt. Người hành giả mới thực tập cần quán chiếu cho rõ ràng tính cách vô thường và tàn hoại của vạn pháp trong đó có cả hợp thể ngũ uẩn của mình. Riêng về cơ thể, pháp cửu tướng quán đã dược thiền giả sử dụng ngay từ hồi Bụt còn hiện thế. Cửu tướng quán là quán chiếu về sự tan rữa và tàn hoại của một thể xác chết, từ khi trương phình ra cho đến lúc tan thành tro bụi. Xác chết  naỳ là một xác chết để ở bãi tha ma, nhưng cũng là xác thân của chính thiền giả sau này. Trong tác phẩm  Khóa Hư Lục, vua Trần Thánh Tông đã quán tưởng như sau “ khi xưa má mượt môi hồng, ngày nay tro tàn xương trắng… Công danh cái thế chẳng qua một giấc mộng dài, phú quý kinh người, khó tránh vô thường hai chữ. Tranh nhân chấp ngã rốt cuộc là không, khoe giỏi khoe hay rốt cuộc là không, khoe giỏi khoe hay rốt cuộc chẳng thực. Tứ đại rã rời thôi già trẻ; núi khe mòn mỏi hết anh hùng. Tóc xanh chưa mấy mà màu bạc đã pha, kẻ mừng chưa đi thì người điếu đã tới. Bảy thước xương khô mặc sức sân tham tiền của; một bao máu mủ, bao năm khổ luyện ân tình…” Quán thân như vậy mà quán tâm cũng như vậy. Tâm ý sắc sảo và lanh lợi hôm  nay sẽ có thể trở nên lẩm cẩm và chậm lụt ngày mai. Núi sông, nhà cửa, tài sản, sức khỏe đều được quán như thế.

Bạn có thể mỉm cười cho rằng phép quán này có chủ đích đưa ta tới tâm trạng bi quan, làm tiêu tán sự yêu đời và vui sống của chúng ta. Điều này đúng mà không đúng. Thuốc tuy đắng nhưng có thể chữa được bệnh tật của ta. Sự thật tuy phũ phàng nhưng có cách trị liệu. Sự thực là nền tảng  của giải thoát thực sự.

Sự sống rất mầu nhiệm và không có ngằn mé. Nhựa sống reo vang trong mọi sinh thể, từ khoáng vật qua thực vật đến sinh vật. Chỉ vì ta tự giam hãm ta trong ý niệm của một cái ta nhỏ bé nên ta lâm vào trạng thái mờ ám, hạn hẹp, lo sợ và đau buồn. Theo cái thấy hẹp hòi của ngã chấp, chỉ cơ thể ta, nhà cửa ta, vợ (chồng) con ta, sản nghiệp ta… mới là sự sống. Nhưng nếu thoát ra được những biên giới ta tự tạo cho ta, ta sẽ thấy sự giống nhau của ta có mặt khắp nơi và sự tàn hoại của những hiện tượng không động tới sự sống của ta được, cũng như sự sinh diệt của các làn sóng không  đụng tới sự tàn vong của nước. Quán chiếu về sự tính tàn hoại của vạn pháp như thế, ta có thể mỉm cười trước sinh tử và ta đạt được một niềm an lạc và vui sống rất cao.

Hơi thở thứ mười lăm chính là để đưa ta thoát ra cá thể đi vào đại thể. “Ta đang thở vào (thở ra) và quán chiếu về giải thoát”. Giải thoát ở đây là giải thoát khỏi những ý niệm sinh tử, còn mất, thêm bớt…, những ý niệm làm căn bản cho tham đắm, lo sợ và giận hờn. Giải thoát ở đây là tự do, là niết bạn, là sự vắng mặt của những biên giới thoát ra ngoài sinh diệt.

Hơi thở thứ mười sáu, cũng như hơi thở thứ mười lăm, nhằm giúp ta quán chiếu để buông bỏ tham đắm, lo sợ và giận hờn. Thấy được trong túi mình có viên quý ngọc, ta buông bỏ thái độ quỵ lụy và bỏn xẻn của một người bần cùng. Thấy được mình là con sư tử, ta không còn luyến tiếc chiếc vú của con cừu mẹ. Thấy mình là mặt trời, ta buông bỏ thói quen sợ gió của một cây đèn dầu. Cũng như thế, thấy được sự sống không biên giới, ta buông bỏ tất cả mọi giới ngục tù. Nhìn vào đâu ta cũng thấy ta, ta cũng thấy sự sống của ta, vì vậy ta phục vụ cho mọi hình thức của sự sống, cho mọi loài đang sống với chí nguyện của một vị bồ tát, nghĩa là một người thức tỉnh lớn.

Buông bỏ ở đây không có nghĩa là từ giã một cái để nắm bắt một cái khác. Buông bỏ ở đây là buông bỏ sự phân biệt, thấy được rằng không có gì mất đi cũng không có gì thêm vào, ranh giới giữa ta và người là giả tạo. Người hành giả không từ giã “thân phận con người” để tìm tới địa vị một đức Phật. Hành giả thấy Phật ngay trong thân phận con người của mình, không buông bỏ gì hết, cũng không tìm cầu gì hết. Đó là ý nghĩa của danh từ vô tác (có khi gọi là vô nguyện). Đó cũng là ý niệm về vô đắc mà đạo Bụt đại thừa đã phát triển một cách đầy đủ. Buông bỏ để là tất cả và để được hoàn toàn tự do. Điều này đã có nhiều người làm được, và mỗi người trong chúng ta có thể làm được nếu có ý chí.

Xin nhắc lại: thứ tự của mười sáu hơi thở là thứ tự của bốn lĩnh vực quán niệm: thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Người hành giả thông minh biết điều phục hơi thở và thân tâm để vun bồi định lực trước khi đi sâu vào công trình quán chiếu. Thiền tập vừa nuôi dưỡng thân tâm vừa khơi mở cái thấy. Cái thấy đó làm cho hành giả không tham đắm cũng không chán ghét cuộc đời. Nó làm cho người hành giả an vui, trầm tĩnh, độ lượng và từ bi.

Cũng xin độc giả nhớ tìm đọc kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm (Niệm Xứ Kinh- Satipatthàna Sutta) và phối hợp những lời chỉ dạy của Bụt trong kinh này với kinh Quán Niệm Hơi Thở để tạo cho sự hành trì càng thêm có kết quả đẹp.

Trong mùa thủy tiên nở ở Pháp Thân Tạng
Tháng ba năm 1986