Kinh Người biết sống một mình

Sau đây là những điều tôi được nghe lúc đức Thế Tôn còn lưu trú ở tịnh xá Kỳ Viên trong vườn Kỳ Ðà tại thành Xá Vệ; Ngài gọi các vị khất sĩ và bảo:  

“Này quý thầy.” 

 Các vị khất sĩ đáp: 

“Có chúng con đây.”

 Ðức Thế Tôn dạy:

 “Tôi sẽ nói cho quý thầy nghe thế nào là người biết sống một mình. Trước hết tôi nói đại cương, sau đó tôi sẽ giải thích. Quý thầy hãy lắng nghe.”

“Thưa Thế Tôn, chúng con đang lắng nghe đây.”

Ðức Thế Tôn dạy: 

“Ðừng tìm về quá khứ

Ðừng tưởng tới tương lai, 

Quá khứ đã không còn 

Tương lai thì chưa tới, 

Hãy quán chiếu sự sống 

Trong giờ phút hiện tại, 

Kẻ thức giả an trú

Vững chãi và thảnh thơi. 

Phải tinh tấn hôm nay 

Kẻo ngày mai không kịp, 

Cái chết đến bất ngờ 

Không thế nào mặc cả. 

Người nào biết an trú

Ðêm ngày trong chánh niệm

Thì Mâu Ni gọi là

Người biết sống một mình. 

“Này quý thầy, sao gọi là tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tri giác ta từng như thế, tâm tư ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế, nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy thì người đó đang tìm về quá khứ.

“Này quý thầy, sao gọi là không tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tri giác ta từng như thế, tâm tư ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế mà không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy thì người đó đang không tìm về quá khứ. 

“Này quý thầy, sao gọi là tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: trong tương lai hình thể ta sẽ như thế kia, cảm thọ ta sẽ như thế kia, tri giác ta sẽ như thế kia, tâm tư ta sẽ như thế kia, nhận thức ta sẽ như thế kia, nghĩ như thế mà khởi tâm ràng buộc, lo lắng hay mơ tưởng tới những gì thuộc về tương lai ấy thì người đó đang tưởng tới tương lai.

“Này quý thầy, sao gọi là không tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: trong tương lai hình thể ta sẽ như thế kia, cảm thọ ta sẽ như thế kia, tri giác ta sẽ như thế kia, tâm tư ta sẽ như thế kia, nhận thức ta sẽ như thế kia. Nghĩ như thế mà không khởi tâm ràng buộc, lo lắng hay mơ tưởng về những gì thuộc về tương lai ấy thì người đó đang không tưởng tới tương lai. 

“Này quý thầy, thế nào gọi là bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người không học, không biết gì về Bụt, Pháp, Tăng, không biết gì về các bậc hiền nhân và giáo pháp của các bậc này, không tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tri giác này là mình, mình là tri giác này, tâm tư này là mình, mình là tâm tư này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này… thì người đó đang bị lôi cuốn theo hiện tại.

“Này quý thầy, thế nào gọi là không bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người có học, có biết về Bụt, Pháp, Tăng, có biết về các bậc hiền nhân và giáo pháp của các bậc này, có tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, không cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tri giác này là mình, mình là tri giác này, tâm tư này là mình, mình là tâm tư này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này… thì người đó đang không bị lôi cuốn theo hiện tại.

“Ðó, tôi đã chỉ cho quý thầy biết về đại cương và giải thích cho quý thầy nghe thế nào là người biết sống một mình.”

 Bụt nói xong, các vị khất sĩ đồng hoan hỷ phụng hành.

Khoá tu Sức khoẻ thân tâm tại xóm Mới từ 13.06 – 20.06.2025

“Muốn đạt tới hạnh phúc, ta phải cắt bỏ những nguồn thực phẩm không lành mạnh và thực tập chỉ tiêu thụ những loại thực phẩm lành mạnh có tính cách nuôi dưỡng và trị liệu.”

Từ ngày 13.06 đến 20.06.2025, khoá tu “Sức khoẻ Thân Tâm” đã được tổ chức tại Xóm Mới, Làng Mai Pháp. Gần 200 thiền sinh đã cùng nhau trở về, mang theo ước nguyện làm mới lại năng lượng và chăm sóc sâu sắc cho thân tâm của mình.

Qua những bài pháp thoại sâu sắc từ sư cô Tuệ Nghiêm và sư cô Chân Đức, thiền sinh học cách dừng lại những lao xao trong tâm trí, để thực sự lắng nghe và nhận diện những căng thẳng đang tồn tại trong cơ thể.

Bên cạnh đó, các bạn cũng được hướng dẫn cách ôm ấp những cảm xúc mạnh, nhìn sâu vào những loại “thực phẩm” mà mình đưa vào thân tâm mỗi ngày – không chỉ qua bữa ăn, mà còn qua truyền thông, lời nói, suy nghĩ và môi trường sống.

Một điểm thực tập đặc biệt trong khóa tu là thiền buông thư – cơ hội quý báu để trở về với thân thể. Bằng hơi thở ý thức và năng lượng chánh niệm, thiền sinh được mời gọi soi chiếu toàn thân, đi qua từng bộ phận trên cơ thể để làm lắng dịu, thư giãn và chữa lành.

Sau một tuần thực tập, bước chân ai cũng trở nên chậm rãi, nhẹ nhàng hơn; và trên nhiều gương mặt đã nở rộ những nụ cười rạng rỡ, tràn đầy sức sống.

Đặc biệt, hơn 50 thiền sinh đã phát nguyện thọ trì Năm giới, mang theo hạt giống chánh niệm để tiếp tục nuôi dưỡng thân tâm và góp phần chuyển hoá đời sống hàng ngày bằng hiểu biết và tình thương.

Mời đại chúng cùng nhìn lại những khoảnh khắc lắng dịu và tươi mát trong khóa tu “Sức khoẻ Thân Tâm” vừa qua:

 

Tuần lễ “Người làm vườn hạnh phúc” từ 06.06 – 13.06.2025 tại xóm Mới

“Tâm thức của chúng ta chứa đủ tất cả những loại hạt giống, có hạt giống khổ đau nhưng cũng có hạt giống hạnh phúc, có hạt giống của thù hận nhưng cũng có hạt giống của thương yêu, có hạt giống của si mê nhưng cũng có hạt giống của trí tuệ. Có thể chưa có ai giúp chúng ta nhận diện và tiếp xúc được với những hạt giống của niềm vui và hạnh phúc đó. Vì vậy cho nên chúng ta mới cần tới Thầy, tới bạn và tới sự thực tập.”

Từ ngày 06/06 đến ngày 13/06, các bạn thiền sinh đã trở về Xóm Mới để tham dự tuần lễ “Người làm vườn hạnh phúc – Happy Farm”. Người hành thiền cũng giống như một người làm vườn – cần có mặt, chăm sóc và nuôi dưỡng khu vườn tâm của mình mỗi ngày.

Bằng hơi thở chánh niệm và bước chân tỉnh thức, chúng ta nhận diện và tưới tẩm những hạt giống của niềm vui, tình thương và hiểu biết – để những hạt giống tích cực trong ta được đơm hoa, kết trái.

Kính mời đại chúng cùng nhìn lại những khoảnh khắc an lành qua các hình ảnh dưới đây:

 

Âm nhạc: Con đường tâm linh

(Thầy Chân Pháp Hữu)

Năm 2023, lần đầu tiên, một nhóm xuất sĩ Làng Mai tổ chức chuyến lưu diễn âm nhạc ở Bắc Mỹ với chủ đề “The Way Out Is In: A Musical Meditation” (tạm dịch Đường vào nội tâm: Âm nhạc thiền). Đây là một sự kết hợp đặc biệt giữa âm nhạc đương đại, thơ và những bài hướng dẫn thực tập súc tích và đầy cảm hứng. Chuyến lưu diễn bắt đầu từ ngày 21.04 tại Baltimore, đến Washington D.C. và Boston, kết thúc bằng một buổi hòa nhạc ở Toronto, Canada vào ngày 1.5. Dưới đây là những chia sẻ của thầy Pháp Hữu với BBT trong buổi ngồi chơi ngày 2.1.2024.

Tinh thần cởi mở và uyển chuyển

Khi bắt đầu chuyến lưu diễn, chúng tôi có ý định thiết kế những buổi nhạc thiền theo kiểu lồng âm nhạc vào câu chuyện dòng sông mà Thầy đã viết như một bài thơ, giống như nhiều buổi nhạc thiền chúng tôi từng tổ chức trong các khóa tu tại Làng Mai. Tuy nhiên, sư cô Hiến Nghiêm và tôi – hai người dẫn chương trình – nhận ra rằng có tới 90% số người trong thính chúng sẽ không hiểu được ý nghĩa của câu chuyện mang tính thiền quán này vì nó khá sâu. Chúng tôi cần phải giải thích ý nghĩa câu chuyện. Mô thức này phù hợp trong các khóa tu vì thính chúng là những thiền sinh và xuất sĩ, mọi người đã quen thuộc với hình ảnh “đi như một dòng sông”. Nhưng trong chuyến lưu diễn này, nhiều người đến tham dự vì họ nghe được thông tin từ bạn bè. Chúng tôi nhận thấy thơ của Thầy có lẽ không thích hợp với họ.

May mắn thay, một điểm nổi bật trong chuyến lưu diễn là chúng tôi thực tập với tinh thần cởi mở và uyển chuyển. Chúng tôi quyết định lồng những chia sẻ về chánh niệm và pháp môn thực tập thông qua những bài pháp thoại ngắn chừng năm bảy phút, dẫn dắt người nghe đến với âm nhạc. Điều này giúp thiết lập những nền tảng cơ bản cho toàn bộ buổi diễn. Chúng tôi bắt đầu bằng chia sẻ “Thầy là ai?”, bởi vì mục đích của chuyến lưu diễn là nhằm tôn vinh gia tài Thầy để lại. Sau đó, chúng tôi chia sẻ về tinh thần của đạo Bụt dấn thân, về sự sáng tạo và cởi mở của Thầy giúp mọi người có được niềm vui và hạnh phúc khi thực tập.

Hồi xưa ở Tây phương, rất nhiều người biết đến Thầy với vai trò một nhà hoạt động hòa bình và nhà thơ hơn là một vị xuất sĩ. Những bài thơ là phương tiện để Thầy truyền tải thông điệp của mình về hòa bình. Đoàn thể đầu tiên của Thầy là những thanh niên trẻ làm việc trong những ngôi làng bị chiến tranh tàn phá, chứng kiến cảnh giết chóc và bom đạn cày xới mỗi ngày. Đó là lý do hình thành những Ngày quán niệm trong truyền thống Làng Mai. Thầy nhận ra rằng chúng ta cần tới với nhau mỗi tuần một lần để cùng nhau trân quý những nhiệm mầu của cuộc sống – đạo Bụt chính là một nếp sống. Mỗi tuần chúng ta đến với nhau để thắp sáng ý thức về vẻ đẹp của giây phút hiện tại, đồng thời đem chánh niệm soi chiếu vào những khổ đau, nhìn sâu vào gốc rễ của chúng, ôm ấp và chuyển hóa chúng, cùng nhau vun trồng những tuệ giác mới và những hạt giống thiện lành trong tâm thức chúng ta.

Trong những ngày quán niệm, Thầy cho phép những bạn trẻ mang theo đàn và trống để chơi nhạc và cùng hát với nhau. Rất nhiều bài thơ của Thầy đã được phổ nhạc. Thầy cũng mời nhiều nghệ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ tới tham dự, những người trở nên rất nổi tiếng ở Việt Nam sau này. Âm nhạc rất quan trọng đối với Thầy. Sáng tác nhạc là một trong những sở thích của Thầy. Bản thân Thầy cũng là một nghệ sĩ đầy tài năng.

Nhịp cầu đưa mọi người đến với con đường tâm linh

Sau phần giới thiệu về Thầy, chúng tôi chia sẻ về hơi thở ý thức bởi vì bài hát đầu tiên nói về mười sáu bài tập hơi thở ý thức. Chánh niệm luôn luôn là chánh niệm về cái gì, vì vậy sau đó chúng tôi nói tới chánh niệm về khổ đau, rồi dẫn tới bài hát Đêm nguyện cầu, lấy ý từ một bài thơ của Thầy. Đôi khi có tiếng đàn cello hoặc piano đệm vào những lời chia sẻ. Thích chúng được trải nghiệm những khoảnh khắc thiền quán sâu lắng trong sự hòa điệu giữa âm nhạc và thiền vị.

Chúng tôi rất may mắn vì trong nhóm có những vị xuất sĩ trước đây từng là nhạc công chuyên nghiệp, như thầy Pháp Linh chơi đàn cello và sư cô Trai Nghiêm chơi violin. Đây là sự trình diễn kết hợp giữa những bài hát với giai điệu, tiếng đàn, rap, trống theo phong cách pop, hip-hop; một sự kết hợp đa dạng và linh động tạo thành nhịp cầu giúp kết nối mọi người với đời sống tâm linh. Đối với những người thuộc thế hệ trẻ như chúng tôi, con đường tâm linh không đơn thuần là trở thành Phật tử hay đi theo một tôn giáo nào. Đời sống tâm linh là khả năng tỉnh thức ở mỗi người chúng ta, là học được nghệ thuật dừng lại, kết nối với khổ đau của chính chúng ta, ôm ấp, chăm sóc và chuyển hóa chúng với lòng từ bi.

Sau những buổi trình diễn, rất nhiều người chia sẻ rằng họ tiếp xúc được với năng lượng bình an và vững chãi rất sâu sắc. Vì chúng tôi là xuất sĩ, nhiều người nghĩ rằng âm nhạc của chúng tôi phải chậm rãi và thiền vị. Do đó, khi chúng tôi trình diễn bài hát có chút phong cách nhạc beat, chút phong cách rap, thính giả đã rất ngạc nhiên thốt lên “wow”. Họ không thể tin nổi đó là một phần của buổi trình diễn. Điều này giúp họ thay đổi cách nhìn và nhận ra rằng các xuất sĩ có thể tự do sáng tạo về cách thức truyền bá Phật pháp, chuyển tải ngôn ngữ của đạo Bụt, của chánh niệm và tỉnh thức vào đời sống xã hội. Hơn nữa, chuyến lưu diễn cũng giúp chính chúng tôi vượt thoát khỏi ý niệm cũ của mình về chúng tôi là ai. Chúng tôi thấy mình cần có can đảm để đi tới, miễn sao những hình thức nghệ thuật đó luôn gắn liền với những nguyên tắc và tuệ giác căn bản của đạo Bụt. Đây cũng chính là tuệ giác của Thầy.

 

“Đó là đạo Bụt của thầy”

Khi bắt đầu chuyến lưu diễn này, ai trong chúng tôi cũng lo ngại: Liệu chúng tôi có đủ khả năng không? Chúng tôi có tham vọng quá không? Đối với tôi, một trong những điểm nổi bật của chuyến lưu diễn này là niềm vui khi được khuyến khích làm một điều gì đó “khác lạ”. Điều này đòi hỏi niềm tin nơi Phật pháp và nơi Tăng thân. Từ sâu trong tim, tôi biết Thầy luôn ủng hộ chúng tôi.

Tôi nhớ trong khóa tu mùa Hè năm 2012, khi chúng tôi tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm Làng Mai, theo qui tắc thông thường thì chúng tôi có thể biểu diễn những bài hát thật hay, nhưng không phải là hip-hop. Nhóm chúng tôi, những học trò còn trẻ tuổi của Thầy, lớn lên trong văn hóa hip-hop và pop, đánh liều thử xem sao. Chúng tôi muốn đem tới một không khí mới cho lễ kỷ niệm. Do đó chúng tôi luyện tập hai bài: một bài rap của Lupe Fiasco tên là The show goes on, nói về việc tiếp thêm sức mạnh cho những người đang đau khổ vì bị áp bức và kỳ thị; một bài khác của Jessi J và B.o.B tên là Price tag, nói về việc không bị cuốn hút bởi đời sống vật chất và chủ nghĩa tiêu thụ. Khi chúng tôi trình diễn hai bài hát, khán giả trở nên cuồng nhiệt một cách rất… chánh niệm. Gần như ai cũng yêu thích hai tiết mục đó.

Tuy nhiên, đây là một điều rất mới đối với văn hóa xuất sĩ. Vài người nhướng mày, tự hỏi “Chuyện gì xảy ra vậy? Việc này có được phép hay không?” và đi kể cho Thầy nghe. Vài ngày sau, tôi có cơ hội được ngồi uống trà với Thầy ở Sơn Cốc. Khi tôi bước vào, ánh mắt của Thầy như muốn nói “Chúng ta sẽ nói chuyện về việc con vừa làm đây”. Tôi ngồi xuống gần bên, Thầy nhìn tôi và nói: “Pháp Hữu, thầy nghe nói mấy hôm trước con và vài huynh đệ trẻ đã biểu diễn một bài hát không phù hợp với truyền thống chúng ta, và hình như các con còn nhảy nữa”. Tôi nhủ thầm: “Con không nghĩ là chúng con có nhảy”. Nhưng khi chúng tôi cảm nhận về nhạc điệu, cơ thể chúng tôi đã chuyển động theo. Do đó tôi trả lời: “Dạ, thưa Thầy, chúng con đã làm như vậy”. Thầy nói: “Một vài vị xuất sĩ có ý kiến và tới nói với thầy”.

Trong tâm trí của một vị xuất sĩ trẻ như tôi, tôi nghĩ rằng tôi đành phải từ bỏ việc này, tôi sẽ không bao giờ được phép biểu diễn loại hình âm nhạc như thế nữa. Nhưng Thầy nhìn tôi và nói: “Con có biết thầy đã trả lời thế nào không? Thầy nhìn những vị đó, mỉm cười và nói: Đó là đạo Bụt của thầy”. Đối với tôi, đây là một sự ghi nhận và chấp thuận lớn nhất mà một vị xuất sĩ trẻ có thể nhận được; Thầy đã tin tưởng chúng tôi. Thầy còn nói thêm: “Bây giờ là thời đại mới. Hãy để những người trẻ thể hiện bản thân bằng ngôn ngữ của chính họ, bằng trải nghiệm của chính họ về những gì có thể chạm tới trái tim họ”. Tôi nghĩ câu chuyện này thể hiện được sự sâu sắc, tình thương cũng như tầm nhìn của thầy chúng tôi.

Từ đó đến nay, chúng tôi đã biểu diễn với nhiều loại nhạc cụ khác nhau, và còn hát rap khi có sự hiện diện của Thầy trong nhiều dịp khác nữa, thậm chí với sự có mặt của chư Tôn đức đến từ Việt Nam. Đối với tôi, đây là một lời tuyên bố. Thầy muốn chỉ ra rằng đây là một hình thức của đời sống xuất sĩ Thầy muốn xây dựng và nuôi dưỡng giữa những người trẻ, những trái tim trẻ tràn đầy nhiệt huyết. Những người lớn tuổi hơn nên cho phép điều này được phát triển trong tăng thân theo tinh thần của sự thực tập, và cho phép những nhạc cụ trở thành một phần của đời sống xuất sĩ.

Tuệ giác của đạo Bụt đã được tiếp nối từ 2600 năm qua và tồn tại đến ngày nay nhờ sự thích nghi với văn hóa của từng thời đại. Trong lịch sử, chúng ta có thể thấy thơ văn, thư pháp, nghệ thuật làm vườn, võ thuật và âm nhạc đã được đưa vào trong rất nhiều truyền thống đạo Bụt. Ví dụ, ở Việt Nam, nhiều loại nhạc cụ đã được đưa vào trong khi tụng kinh. Ở Làng Mai, khi bắt đầu giới thiệu hình thức niệm danh hiệu Bồ tát Quan Thế Âm theo tiếng Phạn, chúng tôi chỉ sử dụng một cây đàn guitar và một chiếc trống. Sau đó, khi thầy Pháp Linh và sư cô Trai Nghiêm gia nhập tăng thân xuất sĩ, Thầy nói: “Đừng bỏ phí tài năng của con. Hãy sử dụng tài năng đó để truyền tải Phật pháp”. Kết quả là, những bài tụng kinh và bài hát của chúng tôi sau này có sử dụng cả cello, violin, piano, guitar, trống v.v.

Thầy từng nói rằng những việc chúng ta làm không phải là điều gì mới mẻ, thực ra điều này đã có trong truyền thống. Ví dụ, trống từng được sử dụng trong chiến trận để làm hiệu lệnh. Nhưng trống cũng được sử dụng làm trống Bát nhã trong những sự kiện quan trọng như lễ truyền giới. Chúng ta có thể sử dụng những chất liệu của truyền thống nhưng với một ý nghĩa mới, một mục đích mới mà nó vẫn có thể truyền tải sức mạnh của Phật pháp.

Hãy cười cùng tôi, hãy khóc cùng tôi

Chuyến lưu diễn cũng giúp tôi thực tập với nỗi buồn vì thiếu vắng hình bóng quen thuộc của Thầy. Một trong những bài hát tôi yêu thích là bài Unborn and Indestructible (Vô sinh và Bất diệt). Bài hát nói rằng không gì có thể mất đi. Ở Washington D.C., tôi đã khóc khi bài Unborn and Indestructible và bài Oneness (Nhất như) được cất lên. Khi nghe tới câu “hãy cười cùng tôi, hãy khóc cùng tôi” trong bài Oneness, trái tim tôi bỗng xúc động; tôi có thể lắng nghe và cảm nhận nỗi buồn của sự mất mát. Chánh niệm là khả năng nhận biết được điều gì đang hiện diện trong chúng ta, nhận diện nó và đủ can đảm ôm ấp nó. Chuyến lưu diễn giúp tôi nhận rõ tôi nhớ Thầy biết bao, tôi mong ước Thầy có thể hiện diện ở đó với chúng tôi. Tôi đã được trị liệu rất nhiều khi nhận ra rằng tôi không cần phải hoàn toàn chuyển hóa nỗi buồn mất Thầy, để có thể trở thành một vị giáo thọ thật sự vững chãi.

 

 

Đây là chuyến hoằng pháp lớn đầu tiên tại Mỹ sau khi Thầy viên tịch. Đây cũng là cơ hội cho chúng tôi – những vị giáo thọ trẻ trong đoàn – có những khoảnh khắc gắn bó thực sự. Chúng tôi hợp tác làm việc và phụng sự như một cơ thể. Không ai trong chúng tôi cố gắng để làm người lãnh đạo hoặc nổi bật hơn những người khác. Chúng tôi học cách làm việc hòa hợp với nhau như những ngón tay trên cùng một bàn tay. Thật mầu nhiệm! Nghệ sĩ đồng thời là ca sĩ nhạc rap Ofusu, tham gia cùng nhóm chúng tôi, đã nói: “Tôi chưa bao giờ tham dự một nhóm nào có sự đồng lòng và hòa điệu tuyệt vời như thế này”. Với tinh thần phụng sự, tình huynh đệ và sự hòa hợp, chuyến hoằng pháp này thể hiện được sự tiếp nối thực sự của Thầy.

Khi đến Boston, một trong những niềm vui lớn nhất của tôi là nhận được sự yểm trợ của sư cô Chân Không. Sau khi chúng tôi biểu diễn, tất cả khán giả đều đứng dậy, và sư cô Chân Không cũng đứng lên khỏi xe lăn để cùng tham gia tán thưởng. Thật là xúc động. Khi chúng tôi cúi chào khán giả, mọi người hô lên “Một bài nữa…một bài nữa…” và sư cô Chân Không cũng tán thành: “một bài nữa…một bài nữa…” Cả nhóm chúng tôi đi tới chỗ Sư cô và xá xuống đáp lễ. Chúng tôi giới thiệu với mọi người: “Hôm nay giữa chúng ta hiện diện một con người huyền thoại. Một trong những học trò đầu tiên của Thầy, một vị Bồ tát của thời đại chúng ta, và bây giờ Sư cô sẽ cúng dường đại chúng một món quà bất ngờ, bài hát The Smile (Nụ cười) – bài hát mà Sư cô luôn luôn hát trong những khóa tu của Thầy”. Khi Sư cô hát xong, đại chúng tán thưởng nhiệt liệt. Giây phút thật ấm lòng. Sư cô chia sẻ: “Sư cô rất vui vì vẫn còn sống để chứng kiến những khoảnh khắc này”. Tôi gần như muốn khóc khi nghe điều đó. Chúng tôi trình diễn buổi hòa nhạc cuối cùng tại trường Đại học Toronto, một phần tư khán giả là sinh viên, nhiều người trong số họ chưa bao giờ biết đến Làng Mai. Một bạn trẻ người Canada gốc Trung Hoa chia sẻ: “Đầu tiên, con muốn bày tỏ lòng biết ơn vì những điều quý thầy, quý sư cô hiến tặng. Con chưa bao giờ có những trải nghiệm như thế này. Xin quý thầy, quý sư cô giải thích cho con ý nghĩa của câu Namo’valo (Nam mô Bồ tát Quan Thế Âm), bởi vì khi nghe con đã khóc như một đứa trẻ. Con là một người trẻ 23 tuổi, cảm giác mờ mịt về tương lai phía trước, không có một đường hướng tâm linh, rồi bỗng nhiên con thấy mình đang khóc nức nở”. Tôi nói với người bạn trẻ: “Bạn đừng cố gắng để hiểu, mà hãy chỉ cảm nhận thôi. Bạn hãy tiếp xúc với những điều nằm sâu trong bạn, và nhiều khi ngôn từ không quan trọng và không cần thiết để giải thích những điều đó”.

Tìm album nhạc ở đâu?

Rất nhiều người hỏi chúng tôi: “Tôi có thể tìm album nhạc ở đâu? Tôi muốn nghe. Tôi muốn những bài hát này được đưa lên Spotify, hay trên Apple Music. Tôi muốn nghe những bài hát này khi lái xe đi làm, hoặc khi tôi có những cảm xúc mạnh. Tôi muốn sử dụng loại âm nhạc này để làm nơi nương tựa”. Thông thường, các ban nhạc cần có một album trước để mọi người biết đến họ, bởi vì khi mọi người thích âm nhạc của ban nhạc đó, họ sẽ muốn nghe những buổi trình diễn trực tiếp. Thành ra nhiều người không thể tin nổi chúng tôi không hề có album.

Một vài người rất yêu thích những bản nhạc mà chúng tôi trình bày và hỏi: “Có cách nào để những bài hát, những bản nhạc này có thể đến với nhiều người mà không chỉ giới hạn trong tăng thân Làng Mai? Cần có thêm điều kiện gì nữa để thực hiện được điều này?”. Sau một thời gian cùng quán chiếu với thầy Pháp Linh, chúng tôi nhận ra mình còn thiếu một nhà sản xuất âm nhạc. Chúng tôi có khả năng về âm nhạc, nhưng chúng tôi cần một ai đó giúp kết nối mọi thứ lại với nhau. Điều này dẫn đến một kết quả thật tuyệt vời sau chuyến lưu diễn: sự ra đời của một album nhạc mới tên là A cloud never dies (Đám mây không bao giờ chết), sẽ được phát hành vào mùa xuân 2024.

Nhà sản xuất album mới này là Jack Peñate, vốn là một nghệ sĩ đầy tài năng. Trong suốt thời gian ba tuần tiến hành ghi âm, chúng tôi thường xuyên ngồi lại với nhau, cùng thắp lên nén trầm, uống trà và chia sẻ những ước nguyện sâu kín nhất của mình. Ngồi trong thất Da Cóc và được ôm ấp bởi năng lượng tâm linh của Thầy, mọi thứ đều như được thấm nhuận chánh pháp Thầy truyền trao. Một khung cảnh thật huyền diệu. Chúng tôi mong muốn rằng âm nhạc có thể đưa mọi người vào một cuộc hành trình, một không gian để mọi người được cầu nguyện, được buồn đau, được cảm nhận bất cứ điều gì trong bản thân, và đồng thời nuôi hy vọng và cảm hứng để hành động. Đó là nguyện ước thâm sâu của chúng tôi.

Jack nhận ra chúng tôi có một chút vướng mắc vào những bản nhạc đã được trình bày trong chuyến lưu diễn. Anh khuyến khích chúng tôi nên buông bỏ những gì đã xảy ra, thưởng thức giây phút hiện tại bên nhau để tạo ra những cảm xúc tươi mới, để cho âm nhạc tuôn chảy thật tự nhiên.

Ban đầu, chúng tôi chuẩn bị tinh thần sẽ dành ra hẳn một năm để cho album được biểu hiện. Nhưng đến khoảng ngày thứ tám hay thứ mười, Jack và tôi nhìn nhau, tôi nói: “Tôi nghĩ chúng ta đã có một album, nó đang hình thành”. Jack nói: “Thầy Pháp Hữu, tôi không nói ra bởi vì tôi không muốn lạc quan quá sớm, nhưng tôi nghĩ thầy nói đúng. Nó đã hình thành. Thật tuyệt!”. Tôi chưa bao giờ gặp người nào tài năng và cũng rất khiêm cung như Jack. Anh còn trở lại Làng Mai vào dịp Ngày tiếp nối của Thầy và chơi đàn trong buổi hòa nhạc kết thúc khóa tu về biến đổi khí hậu. Khi chúng tôi mời anh tham dự, anh nói “đây quả là niềm vinh dự lớn nhất đối với tôi”, bởi vì anh nhận thấy đây chính là Tăng thân của anh, gia đình của anh, và anh muốn trở về nương tựa nơi vị thầy tâm linh vĩ đại ở đây.

Jack nói rằng điều anh học được từ âm nhạc và khoảng thời gian ở với chúng tôi là khả năng lãnh đạo với lòng từ bi. Anh nói: “Điều tôi học được là tình huynh đệ, sự đoàn kết, sự lãnh đạo với lòng từ bi, khả năng lắng nghe sâu, lời nói hòa ái, và sự tin tưởng, tiếp tục tin tưởng”. Đó cũng chính là những điều tôi học được từ lần làm việc chung này.

Có lần tôi chia sẻ với Jack về điều Thầy thường dạy chúng tôi: “Hãy để tổ tiên giúp chúng ta”. Tôi thật sự cảm nhận được rằng xuyên suốt chặng đường từ buổi hòa nhạc cho đến khi album biểu hiện, chúng tôi đã được yểm trợ rất nhiều từ tổ tiên, cả gia đình tâm linh và gia đình huyết thống. Con đường luôn luôn ở đó, nhưng đôi khi chúng ta cần phải quét dọn những cỏ cây lấp lối để con đường được hiển lộ thênh thang.

 

Về nâng sự sống trên tay

( Trích sách Về Việt Nam của thiền sư Thích Nhất Hạnh, NXB Lá Bối 1992)

Mỗi phút của cuộc đời ta là một viên ngọc. Mỗi giờ đồng hồ trong ngày là một viên bảo châu và nếu chúng ta sống có chánh niệm, sống tỉnh thức với nụ cười thì giây phút đó trở thành tuyệt vời và rất đáng sống. Ðó là ngọc, đó là châu báu.

Khi có chánh niệm và có nụ cười, thì giây phút mà chúng ta đang sống trở nên một phép lạ màu nhiệm. Chỉ nhờ một tiếng chuông chánh niệm thôi, tự nhiên chúng ta nghe được tiếng chim hót, tiếng thông reo và bao thứ tiếng vi diệu khác; chúng ta thấy được một đóa hoa đang nở, chúng ta thấy được trời xanh, mây trắng và mỗi phút của đời ta như vậy trở thành viên ngọc. Nếu chúng ta tiếp tục sống trong chánh niệm như vậy thì mỗi ngày chúng ta có từng rổ châu báu và chúng ta sẽ không phải than phiền như nhạc sĩ Phạm Duy là cả cuộc đời không còn cái gì nữa cả.

Châu báu của Bụt để lại cho chúng ta rất nhiều, đó là những giây phút tỉnh thức và nếu muốn, chúng ta có thể vốc từng vốc đầy tay những hạt kim cương. Châu báu thật ra đầy cả thế giới, nếu sống tỉnh thức quý vị sẽ có rất nhiều châu báu và quý vị có thể xúc một rổ đem tặng những người thương, làm cho họ sống ngày hôm nay của họ có chánh niệm có hạnh phúc có nụ cười, và nếu có căn cơ và hạt giống thì người đó sẽ tiếp nhận cái rổ kim cương của qúy vị và sẽ sống được mỗi giây phút trong đời của người đó với thật nhiều hạnh phúc. Mỗi giây là một viên ngọc, mỗi phút là một viên ngọc và mỗi giờ là một viên kim cương và mỗi ngày là một rổ châu báu.

 

 

Thành ra chúng ta, con trai cũng như con gái, nên biết rằng chúng ta là những người cùng tử nghèo đói đi lang thang từ bao nhiêu tháng năm và đây là lúc chúng ta phải chấm dứt cái kiếp nghèo hèn của kẻ cùng tử đi lang thang để trở về tiếp nhận cái gia tài của Bụt, những rổ kim cương lóng lánh sáng chói, để sống những giờ phút của chúng ta cho thật hạnh phúc, thật sâu sắc. Và khi mà chúng ta học được cách sống hạnh phúc như vậy thì cố nhiên chúng ta sẽ gieo rắc hạnh phúc xung quanh chúng ta. Chúng ta sẽ có rất nhiều châu báu và chúng ta sẽ đem một vốc châu báu tặng người phía trái rồi vốc một vốc khác tặng người bên tay mặt, và chúng ta trở thành những người con trai con gái mà Bụt nói trong Kinh Kim Cang. Châu báu của chúng ta chứa đựng đầy tam thiên đại thiên thế giới. Chúng ta rất giàu mà xưa nay vẫn nghĩ là mình nghèo:

Châu báu chất đầy thế giới
Tôi đem tặng bạn sáng nay
Một vốc kim cương sáng chói
Long lanh suốt cả đêm ngày.

Mỗi phút một viên ngọc quý
Tóm thâu đất nước trời mây
Chỉ cần một hơi thở nhẹ
Là bao phép lạ hiển bày.

Chim hót thông reo hoa nở
Trời xanh mây trắng là đây
Ánh mắt thương yêu sáng tỏ
Nụ cười ý thức đong đầy.

Này người giàu sang bậc nhất
Tha phương cầu thực xưa nay!
Hãy thôi làm thân cùng tử
Về đi, tiếp nhận gia tài!

Hãy dâng cho nhau hạnh phúc
Và an trú phút giây nầy
Hãy buông thả dòng sầu khổ
Về nâng sự sống trên tay.

Đi tìm ánh ban mai

(Sư cô Chân Trăng Tâm Thuận)

Góc yên, ngày 3 tháng 11 năm 2024.

Bạn hiền thương,

Sau những ngày nắng hiếm hoi của mùa đông, Huế trở lạnh và mưa rả rích cả ngày. Mình ngồi ở góc nhỏ, đốt nến, pha trà và muốn viết vài dòng thương gửi bạn.

Tuổi nắng tròn

Năm nay mình sẽ đón tuổi mới với những cơn mưa quen thuộc và vui là vẫn có bạn ở bên. Hai mươi tuổi năm thứ ba, mình nhớ về bài thơ Tuổi nắng tròn được tặng năm ấy:

“Em nhớ đừng gột rửa tháng năm
Và chút tình trong với sự sống ngoài kia thì nâng niu thêm một chút
Rộn rã với niềm vui
Và chỉ cần the thé với niềm đau.
Như vậy đó,
Sống đẹp giữa những gì khai hội
Và tìm nhau
Trong ngọn cỏ lời thơ.”

(Trích bài thơ Tuổi nắng tròn – tặng bé chị, bé em)

 

Tuổi hai mươi ấy, chúng mình bắt đầu đi tìm hạnh phúc. Không phải thứ hạnh phúc mà người ta tìm kiếm từ danh vọng, bằng cấp, hay từ những thước đo ước lệ của xã hội. Bạn bảo chúng mình băng cánh đồng mà đi vì không ai chịu đi theo con đường sẵn có. Bạn chọn học và làm những điều bạn muốn, mình thì đi tu. Song cũng là những khao khát muốn khám phá, muốn hiểu chính mình bằng những trải nghiệm có được. Những buổi tối chưa ngủ, vắt tay lên trán, mình suy nghĩ lý do vì sao mình có mặt, sứ mệnh của mình giữa cuộc đời là chi.

“Hai mươi hai lăm
Mùa cây thay lá
Xanh vàng rụng rời
Con quên tiếng gọi à ơi
Con đi đi tìm thực tại
Con đi tìm ánh ban mai
Con đi tìm mình là ai.”

(Trích bài hát À ơi tiếng hát con tặng mẹ cha – Bụng Mỡ)

Là lời hát chúng mình thường nghe, là không tìm thấy niềm vui từ việc học, là sự lạc lõng giữa đám bạn bè ở giảng đường, là những tháng ngày ngổn ngang của tuổi trẻ. May là mình có bạn, có người yên lặng lắng nghe. Mình có dòng Hương, có trăng Thiên Mụ, có Diệu Trạm,… là nơi trở về nhìn rõ hơn lòng mình. Những bước đầu vào đời, mình mang theo hạnh phúc êm ấm từ gia đình, từ mái chùa và cả những băn khoăn tuổi trẻ.

 

 

Chọn một con đường

Ngày mình đi tu, thật đột ngột. Bạn bảo, ở đó cũng là một trải nghiệm để lớn lên. Mình không rõ, phương trình của cuộc đời mình sẽ tiếp tục như thế nào nếu mình vẫn đi học và đi tìm bản thân từ thế giới rộng lớn đó, đáp án liệu có khó để tìm ra hay không? Nhưng khi đó mình đã chọn làm điều mình thích, chọn làm người tu. Bằng cách này hay cách khác, bạn biết, lời giải mà chúng mình đi tìm chính là hạnh phúc chân thật. 

Thầy viết trong Nói với tuổi hai mươi: “Chỉ cần mở mắt ra, chỉ cần nhận thức cho chính xác, chỉ cần có ý thức về những hạnh phúc mà chính ta đang có thì ta đã trông thấy được diện mục của hạnh phúc rồi […] Yếu tố lớn nhất để tạo nên hạnh phúc là ý thức về hạnh phúc. […] Yếu tố thứ nhì của hạnh phúc là biết rõ được con người của mình có những nhu yếu nào trong lĩnh vực khám phá, thương yêu và hướng về sự thực hiện những nhu yếu ấy, những nhu yếu đích thực là nhu yếu, nghĩa là những nhu yếu bảo vệ và bồi đắp sự sống, sự vươn lên của mình.[…] Nếu khám phá và hiểu biết là một nguồn hạnh phúc thì thương yêu cũng là một nguồn hạnh phúc – hạnh phúc trong ý nghĩa thỏa mãn được nhu yếu của mình.” 

Vậy thì hạnh phúc không phải là nơi cuối cùng của con đường, mà chính chúng mình phải nhận thấy được một số hạnh phúc có được ngay trong tầm tay, hiểu thấu được chính mình, thương được chính mình là một niềm hạnh phúc thật sự. Ở chùa cho mình cơ hội học cách tử tế về kết nối với chính mình.

Bé vẫn là bé, bé mới đẹp

Tuổi thơ nhận được nhiều tình thương từ gia đình, mình nghĩ đó là sự bù đắp cho những điều không may xảy đến với mình từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Lớn lên một chút mình bắt đầu nhận thấy sự khác biệt của mình với các anh chị em hay bạn bè. Ngoài việc không khỏe mạnh, mình còn có những mặc cảm với vẻ bề ngoài. Mình ít khi nhắc đến vết sẹo, không bao giờ nhìn trực tiếp vào mắt người đối diện. Tính cách mình rụt rè, nhiều ngần ngại, chắc một phần vì như vậy. 

Trong suốt các năm đi học, mình đã tìm thấy và thể hiện khả năng của mình trong việc học. Dù không ai đòi hỏi, mình vẫn thấy thua kém vì những so sánh trong tự thân: “Nếu không bị đau chắc mình sẽ khác”. “Bé vẫn là bé, bé mới đẹp” là bài học mà một đứa trẻ như mình đã may mắn nhận được từ một món quà – “ly trà Sư Ông”. Hẳn là khi đó, mình đã bắt đầu ý thức về việc chấp nhận chính mình. Không cần phải là một ai khác, mình vẫn là chính mình, với những gì rất thật: những buồn tủi, những hạnh phúc,… Khao khát thương yêu bản thân, mong muốn tìm một con đường của chính mình (có khi mình gọi đó là “cái tôi”) dần dần lớn mạnh lên, để mình trả lời được tất cả những thao thức trong lòng.

Bạn ơi, mình sẽ còn kể cho bạn nghe nhiều hơn về bài học thương yêu nữa. Nhưng câu thiền ngữ “Be beautiful be yourself” (Ta có là ta, ta mới đẹp) vẫn luôn là một khung trời tuổi thơ đầy kỷ niệm mình cất giữ trong lòng và luôn mang theo trong hành trình sắp tới.

Ta vẫn sống trong ta từ lâu rồi

Bạn hiền thương, tối nay đọc Lời quán nguyện Bồ tát Thường Bất Khinh, mình đã hiểu tại sao mình luôn cảm thấy được kết nối và nuôi dưỡng mỗi khi đọc tới lời quán nguyện cuối cùng này: Vì chính công trình chấp nhận, thương yêu bản thân để phá bỏ những mặc cảm tự ti trong mình đã được bắt đầu. Mình đã nhận ra “Bài học quan trọng nhất trong cuộc đời là bài học thương yêu”. Mình thương những mặc cảm của mình mà cũng thương những khó khăn, mặc cảm của người khác. Mình không thể nào có hạnh phúc nếu cứ ôm lấy những cảm giác đó hoài. Và mình biết, mình sợ trở thành một người như vậy. May mắn là mình sớm nhận ra và có cơ hội để thực tập với nó. Dám đối diện và gọi tên mà cũng can đảm đủ để chia sẻ với bạn, lần này và cả những lần trước nữa.

Có lần mình thật lòng nói với bạn những mặc cảm, tự ti về ngoại hình khiến mình mong cầu nhiều sự quan tâm, chú ý của người khác. Năng lượng đó là một phần của tuổi trẻ nhưng cũng xuất phát từ những vết thương thuở nhỏ. Và bạn bảo, mình đẹp hơn trong hình dáng của một sư cô. Đó có phải là nét đẹp của sự hiền lành, chân thật mà bất kỳ người tu nào cũng cần trui rèn không hì? Tự nhiên mình tin nhiều vào chánh niệm, vào vẻ đẹp của sự thực tập oai nghi.

“Hộ trì sáu căn mỗi phút mỗi giây đi đứng nằm ngồi tâm chánh niệm
Trau dồi ba học khi cười khi nói vào ra tiếp xúc tướng đoan nghiêm”
 

Câu đối này được treo bên trong thiền đường Trăng Rằm ở chùa Tổ, mình đọc chắc cũng nhiều lần rồi. Giờ mình đã rõ, có chánh niệm, mình được trở về làm hòa với chính bản thân.

Trong nhiều buổi thực tập thiền buông thư, mình có cơ hội được quay về để làm quen trở lại với người bạn cũ. Theo dõi hơi thở và biết mình đang có một thân thể khỏe mạnh. Mình gửi lòng biết ơn đến thân thể vẫn còn có đó, mặc cho những đòi hỏi, tủi hờn hiện hữu trong thân tâm mình.

“Thở vào, mình gửi sự chú tâm đến đôi mắt
Thở ra, mình biết ơn với sự có mặt của đôi mắt.”

 

Ánh sáng chánh niệm của mình luôn dừng lại lâu hơn ở đôi mắt, là biểu hiện rõ nhất của tất cả  những gì mà mình tự cho là “điểm yếu” của bản thân. Chừng nào thương được đôi mắt là mình thương được những mớ lộn xộn trong lòng: chán nản, nhu nhược, yếu đuối,… Không công nhận sự có mặt của đôi mắt cũng có nghĩa là mình không công nhận những gì thuộc về con người mình. Mình trở về để làm hòa với tất cả. 

Xin lỗi vì đã xua đẩy, ghét bỏ chính mình, mà không nhận ra sự có mặt của mình là tất cả những gì rất mầu nhiệm của sự sống. Không nhớ là mình đã rất mạnh mẽ trong những năm tháng đầu đời, là mình đã tiếp nhận tình thương, sự che chở từ ông bà, tổ tiên hay sao! Mình cúi đầu để ôm lấy tất cả, để thương được cả con người mình. Chỉ cần sống hạnh phúc thôi là đã trọn vẹn những điều mình cần phải làm. Còn thở, còn sống là đã hạnh phúc. Bạn thương, vậy mà mình cứ quên hoài, cứ đắm chìm trong những mông lung, những đòi hỏi mãi thôi. Sớm nay, mình lắng nghe tiếng gọi của đất trời, tiếng gọi của sự sống nhẹ nhàng trôi chảy, “Ta vẫn sống trong ta từ lâu rồi”. Bạn đang mỉm cười, hẳn chứ!

Đã trót thương

“Đã trót thương đàn kiến băng qua đường thành dòng trôi qua nắng sớm lung linh, đàn sẻ ríu rít sà xuống đồng ngô mới hái, hay thường râm ran vòm trưa sớm chiều, đàn ong cần cù xúm xít cất xây, dòng người bồng bềnh đi thiền trong sương sớm, giọt nước sau bao tháng năm tuổi trẻ kiếm tìm thấy những liên kết định mệnh của mình hòa dòng xuôi lối thênh thang hạnh phúc.”

(Trích Trót thương – Thầy Chân Trời Hải Thượng)

Mình vừa mượn chữ người đi hái thuốc để viết tiếp gửi bạn. Vì mình thương quá những niềm thương mênh mông của người tu trẻ đã chạm được lắng yên đó. Từ những lời trót thương mà mình tiếp xúc được với cái bình yên trên con đường “dừng lại” mỗi ngày rõ hơn. Đó là những buổi sớm nhẹ bước trên con đường đất đỏ, những bước chân bình an, những hơi thở tĩnh lặng nuôi dưỡng đời sống của nhau. Có Thầy, có bạn, mình hạnh phúc hoà vào dòng chảy tâm linh này.

 

 

Bạn hiền thương, có lẽ đây là lần đầu tiên mình viết cho bạn nhiều như vậy. Tuổi mới mình đã nhìn rõ hơn một chút về chặng đường hiểu thấu và yêu thương. Niềm vui dẫn mình đi tới. Mong là bạn cũng thấy vui trên cánh đồng của bạn. Và bạn ơi, chúng mình hãy cùng hát lên đi, bài ca của sự sống.

Thương gửi tới bạn – tất cả những người bạn mình được gặp gỡ và thương yêu trong đời. Mong sớm nhận được hồi âm.

Một ngày mưa đông,

từ người bạn bé nhỏ Trăng Tâm Thuận.



Khoá tu tiếng Pháp 2025

Khoá tu tiếng Pháp đã diễn ra từ ngày 19 đến ngày 26 tháng 04 năm 2025. Tuy thời tiết năm nay không được yểm trợ lắm vì mưa từ đầu đến cuối khoá tu nhưng không vì vậy mà thiếu đi sự ấm áp của bình an. Những hạt mưa tinh khôi trong lành như những giọt cam lồ của đức Bồ tát Quán Thế Âm đã tưới mát bao tâm hồn sáng tươi trở lại. Đại chúng đã cùng nhau tinh cần thực tập và chế tác được rất nhiều năng lượng của hạnh phúc cùng sự chuyển hoá.

Kính mời mọi người cùng thưởng thức vài hình ảnh của khoá tu trong mưa mùa Xuân trên đất lành!

 

Bàn tay mẹ trong bàn tay con

Đây là trích đoạn chia sẻ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong bài Pháp thoại nói chuyện với Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hà Nội ngày 18.01.2005 về chủ đề: Phật giáo Việt Nam ngày nay qua cái nhìn tương tức. Pháp thoại đã được phiên tả thành sách Cho Đất Nước Đi Lên.

                                       

 

Khi đi chùa, mình có thể cầu nguyện, lễ lạy, cúng dường, nghe Pháp, có thể bớt đi rất nhiều niềm đau, nỗi khổ. Nhưng báu vật quí giá nhất, châu báu bậc nhất mà mình tìm thấy trong đạo Phật là mình có thể tiếp nhận, hành trì để mình có thể tiếp xúc được với tự tánh không sinh, không diệt của chính bản thân mình. Cái đó gọi là Niết Bàn, tiếng Phạn là Nirvana, có nghĩa là sự vắng lặng, sự tắt ngấm. Vắng lặng ở đây có nghĩa là sự vắng lặng của những ý niệm, trước hết là ý niệm sinh và diệt. Bản chất của sự vật là không sinh và không diệt nhưng mình nghĩ rằng chúng có sinh và có diệt. Bản chất của sự vật là không tới cũng không đi nhưng mình nghĩ là có tới, có đi.

Tôi xin cống hiến quý vị một phép thực tập, chúng ta cùng làm cho vui. Ví dụ, bây giờ chúng ta nhìn vào hộp diêm này và nếu nhìn bằng con mắt thiền thì chúng ta thấy ngọn lửa (không đợi tôi quẹt que diêm lên mình mới thấy), ngọn lửa đã tiềm tàng trong những nguyên nhân của chúng nó. Đức Thế Tôn dạy rằng khi hội đủ những điều kiện thì cái đó phát hiện (phát hiện chứ không phải là sinh đâu nhé!). Nhìn kỹ cái hộp diêm này mình thấy rằng ngọn lửa trốn ở đâu đây, không phải chỉ ở trong hộp diêm mà nó ở ngoài hộp diêm nữa, ví dụ như là dưỡng khí ở ngoài. Nếu không có dưỡng khí thì đố mà ngọn lửa biểu hiện ra được. Tất cả những điều kiện để cho ngọn lửa phát hiện đầy đủ rồi, chỉ thiếu một điều kiện cuối là cử động của ngón tay thôi. Tôi nói: Này lửa ơi! Tôi biết em có đó, bây giờ em hãy biểu hiện đi. Ngọn lửa mới nói: Thầy giúp em một tay, Thầy quẹt một cái đi, em sẽ biểu hiện. Tôi mới quẹt và ngọn lửa bừng cháy. Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành đâu, ngọn lửa biểu hiện khi các điều kiện hội tụ, nhân duyên đầy đủ. Nhân và duyên đầy đủ thì nó biểu hiện, nhân duyên thiếu thì nó ẩn tàng. Bây giờ mình hỏi ngọn lửa: Ngọn lửa ơi, em từ đâu tới và em đã đi về đâu rồi? Nếu mình lắng nghe với con mắt thiền, mình sẽ nghe tiếng trả lời của ngọn lửa: Quý vị ơi, em đâu có từ đâu tới! Em không phải từ phương Nam, phương Bắc, cũng không phải từ phương Tây, phương Đông tới, hễ khi nào những điều kiện nó hội đủ thì em biểu hiện thôi! Đó là sự thật, một sự thật rất khoa học. Hồi nãy tôi mới thấy em đó, em đã đi đâu rồi ngọn lửa ơi? Ngọn lửa trả lời: Em đâu có đi đâu đâu. Em cũng không đi về miền Bắc, miền Nam, miền Tây, miền Đông. Khi nào điều kiện không hội đủ thì em không có biểu hiện nữa thôi, em không có đi đâu hết! Đó là sự thực không tới cũng không đi, vô khứ vô lai, bất sinh bất diệt. Đó là bốn ý niệm sinh diệt khứ lai. Bản chất của sự vật là vô khứ vô lai, mà mình cứ nói là có khứ có lai cho nên mình không tiếp xúc được với tự tánh Niết Bàn của nó.

Chúng ta nhìn vào cậu con trai bằng con mắt thiền thì chúng ta thấy người bố, người mẹ trong cậu con trai, thấy đứa con là sự tiếp nối của cha, của mẹ. Cũng như khi nhìn vào cây ngô, chúng ta biết rằng cây ngô là sự tiếp nối của hạt ngô mà chúng ta mới gieo cách đây mấy tháng. Chúng ta thử hỏi hạt ngô năm xưa và cây ngô mà chúng ta đang thấy là một hay là hai cái? Nói hai thì không đúng, vì nếu không có hạt ngô thì làm gì mà có cây ngô, cây ngô là sự tiếp nối của hạt ngô. Nói một thì cũng không đúng tại vì hạt ngô có khác và cây ngô có khác. Vậy cho nên quan niệm một và quan niệm khác cũng không phù hợp với thực tại. Danh từ chuyên môn gọi là Phi nhất phi dị. Chúng ta quen suy tư với những phạm trù sinh diệt, tới đi, một khác và nhất là có không. Khi những điều kiện hội đủ, cái đó biểu hiện, ta gọi là . Khi những điều kiện không đầy đủ cái đó không biểu hiện mà ta gọi là không thì điều đó không đúng. Ví dụ bây giờ trong phòng này, không có máy để tiếp nhận những luồng sóng điện từ đài phát thanh Hà Nội thì chúng ta không thể nói rằng những chương trình của đài phát thanh Hà Nội không có. Những âm ba của đài phát thanh đang có mặt đầy dẫy ở đây, chúng ta chỉ thiếu một điều kiện để có thể nhận thức được nó. Vậy khi nó chưa phát hiện mà nói là không thì không đúng và khi nó phát hiện rồi mà nói là , cũng không đúng, tại vì tức là sự trái chống lại của không. Cho nên sự thực vượt thoát cả hai ý niệm có và không.

 

 

Một thi sĩ Tây phương đã nói rằng: Có hay không đó là vấn đề (to be or not to be that is the question) 11*. Trong ánh sáng đạo Bụt thì: to be and not to be, being and non-being, hữu thể và vô thể đều là ý niệm. Niết Bàn là sự vắng mặt của tất cả các ý niệm. Niết Bàn là bản chất của thực tại, Niết Bàn không phải là một cõi mà sau khi chết mình đi vào, đó là một tư tưởng rất sai lầm. Nếu có cái nhìn sâu sắc của trí tuệ ta có thể tiếp xúc được Niết Bàn ngay trong giây phút hiện tại, đó là bản chất không sinh không diệt, không tới không đi, không một không khác, không có không không. Khi đạt tới cái đó là chúng ta thành công trong sự tu học, chúng ta vượt thoát tất cả những lo lắng, những sợ hãi và chúng ta có một trí tuệ lớn (gọi là đại trí). Tịnh Độ cũng vậy, Tịnh Độ có mặt bây giờ và ở đây. Đức A Di Đà nếu mình muốn ngài có mặt, mình có thể tiếp xúc được bây giờ và ở đây.

Tôi có một người bạn họa sĩ, ngày xưa đã rời Việt Nam bằng một con đường rất là cực nhọc, đi làm bồi trên một chiếc tàu thủy để được qua bên Hoa Kỳ vì nghĩ rằng bên đó có cơ hội tiến thân hơn. Trước khi rời Việt Nam thì bà mẹ của anh vốn là một người không biết chữ, không biết triết học là gì có dặn một câu: Con ơi, khi con sang bên nớ, con nhớ mẹ, con hãy đưa bàn tay của con ra con nhìn thì con sẽ đỡ nhớ. Bà ta nói như vậy, giống như một nhà triết học. Trong những năm tháng lây lất ở quê người, mỗi khi nhớ mẹ, anh chàng họa sĩ đó đã đưa tay lên để nhìn cho đỡ nhớ mẹ. Trong quá trình tu học của tôi, tôi thấy rất rõ đây là một tuệ giác rất là lớn của những bà mẹ Việt Nam. Bàn tay này, mình nói là bàn tay của mình, cái đó cũng đúng nhưng kỳ thực bàn tay này cũng là sự tiếp nối của bàn tay mẹ, bàn tay cha cũng như cây ngô là sự tiếp nối của hạt ngô và hạt ngô là sự tiếp nối của cây ngô trước. Nhìn vào bàn tay của mình thì mình thấy bàn tay của mẹ, bàn tay của cha và bàn tay của tổ tiên đang có mặt trong bàn tay mình mà nói đây chỉ là bàn tay của riêng mình là không đúng, đây cũng là bàn tay của cha, của mẹ.

Hồi nhỏ khi còn thơ ấu có những lúc bị sốt, khát nước, khô cổ, nóng bức và khi mẹ đi vào, rồi để bàn tay của bà lên trên trán mình thì mình thấy dễ chịu một cách lạ kỳ. Đến khi mình lớn lên, mình rong ruỗi, mẹ không còn đó nữa, mỗi khi sốt, mình ao ước có bàn tay đó đặt lên trên trán. Theo tôi, bàn tay của mẹ vẫn còn, nếu mình muốn bàn tay đó đặt lên trên trán mình thì vẫn còn có thể được, dầu quý vị đã bốn mươi tuổi hay sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn có bàn tay của mẹ. Quý vị chỉ cần đưa bàn tay lên và nhìn và thấy rằng: Mẹ ơi, con biết bàn tay tuy con nói là của con nhưng mà cũng là bàn tay của mẹ, nó là sự nối tiếp của bàn tay mẹ. Trong sự quán chiếu, trong sự thiền quán mình thấy rõ ràng bàn tay của mẹ đang còn có mặt cho mình. Trong tuệ giác đó, đưa tay lên mình thấy bàn tay của mẹ đang đặt trên trán mình một cách rất nhẹ nhàng và mình cảm thấy không khác gì bàn tay năm xưa.

Quý vị thử đi, quý vị sẽ thấy, tự tánh của mẹ mình là không sinh, không diệt. Mình đừng tưởng mẹ mình đã mất rồi, mẹ mình đang còn dưới những hình dạng mới và mình phải có tuệ giác mới có thể nhận diện ra được. Thiền tập có khả năng đưa tới trí tuệ để có thể vượt thoát những nỗi khổ, niềm đau trong đó có sự sợ hãi. Tuệ giác có thể giúp mình lấy đi hết tất cả những tri giác sai lầm của mình về mình và những tri giác sai lầm của mình về người khác, như vậy chúng ta tới gần nhau hơn và chúng ta không còn tiếp tục làm khổ nhau nữa. An lạc, hòa bình, hạnh phúc là chuyện có thể xảy ra một cách dễ dàng với trí tuệ đó.

Trong những năm tháng chúng tôi ở quê người chúng tôi đã từng tìm cách giảng dạy trao truyền kinh nghiệm, sự thực tập. Chúng tôi nghĩ rằng nếu người trẻ tuổi, những trí thức Tây phương có khả năng tiếp nhận và áp dụng trong đời sống hàng ngày của họ để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau thì người trẻ tuổi Việt Nam, người trí thức Việt Nam cũng có thể áp dụng được, thừa hưởng được giáo lý đó. Tôi thấy thế hệ trẻ của chúng ta không có được nền tảng tâm linh vững chắc như thế hệ trước.

Quý vị đi chùa, quý vị sẽ thấy các bậc lớn tuổi, họ có niềm tin nơi nền đạo đức cổ truyền rất là vững chãi. Chính niềm tin giữ cho mình không bị rơi vào hầm hố của sự tham nhũng, sự hư hỏng, sự trác táng. Nếu người trẻ không có được vững chãi đó, niềm tin đó thì họ có thể trở thành nạn nhân của sự hư hỏng, sự tham nhũng, sự trác táng. Nhưng làm sao để thế hệ những người lớn tuổi có thể trao truyền lại được cái vốn liếng, cái gia tài tâm linh đó cho người trẻ? Nếu chúng ta thất bại trong sự trao truyền niềm tin đó cho thế hệ trẻ thì chúng ta đã có tội với tổ tiên, với đất nước. Chúng ta đã không trao truyền được những gì quí giá nhất mà tổ tiên tâm linh, tổ tiên huyết thống đã trao truyền cho chúng ta.

Hố ngăn cách giữa hai thế hệ chúng ta phải lấp đi, sự liên hệ giữa cha con và mẹ con cần phải được thiết lập trở lại để thế hệ này có thể trao truyền những gì quí giá nhất mà chúng ta đã tiếp nhận được từ các thế hệ trước. Đó là niềm ưu tư của chúng ta. Chúng tôi mong rằng các vị trong giới học giả, khảo cứu, các vị văn nghệ sĩ đóng góp vào một tay để chúng ta có thể bảo tồn được gia tài tâm linh quí giá của chúng ta. Gia tài đã làm cho nước chúng ta giàu mạnh, đứng vững và có khả năng đánh bại tất cả những cuộc xâm lăng của phương Bắc như đời Lý, đời Trần.