Giảng Kinh Phước Đức (phần 3)

(Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng ngày 10.12.2009 tại chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới trong khóa An Cư Kiết Đông 2009 – 2010)

Sự thực tập tại Làng Mai là sự thực tập dừng lại. Dừng lại để có thể sống được những giây phút sâu sắc, tại vì trong chúng ta có một tập khí, nó xô đẩy chúng ta đi tới. Chúng ta giống như người đang đi tìm kiếm một cái gì, đang lo lắng về một chuyện gì đó, thành ra chúng ta không thật sự có mặt trong giây phút hiện tại. Sự tìm kiếm đó, sự lo lắng đó đã trở thành một thói quen và thói quen này không cho phép chúng ta có mặt thật sự để sống sâu sắc trong giây phút hiện tại. Chỉ cần nhìn một người đang ngồi, đang đi hay đang ăn cơm một hai giây là mình có thể biết được rằng người đó có mặt hay không có mặt trong giây phút hiện tại liền, rất là dễ. Người đó tuy thân hình đang có đó nhưng không thật sự có mặt, tại vì có một sức mạnh, có một tập khí, một năng lượng đang đẩy người đó đi, kéo người đó ra khỏi giây phút hiện tại. Nhưng với sự thực tập của mình, mình có thể giúp cho người đó dừng lại. Người đó đang theo đuổi một ý tưởng, đang bị vướng vào một sự lo lắng, bị kẹt trong quá khứ, trong tương lai, trong sự buồn khổ, lo lắng…, người đó không thật sự có mặt. Là một người tu, bằng cách đi, đứng, nằm, ngồi của mình, mình có thể giúp cho người đó dừng lại, tại vì sự thực tập trước hết là dừng lại. Dừng lại cái gì? Dừng lại sự quên lãng, dừng lại sự đánh mất tự thân. Những phép tu mà Làng Mai cống hiến có tác dụng giúp cho ta có thể dừng lại được, ví dụ như hơi thở và bước chân.

Mình đang thở vào và mình biết rằng đây là hơi thở vào
Mình đang thở ra và biết rằng đây là hơi thở ra

Nếu mình biết mình có hạnh phúc trong khi thở vào thì mình ở lại với hơi thở vào của mình, lúc đó là mình đang an trú trong hiện tại. Trong khi ngồi, trong khi đi hay trong khi làm việc mình đều có thể thở vào được cả. Nếu để tâm vào hơi thở vào mà thấy mầu nhiệm và thích thú trong hơi thở vào thì đó là mình dừng lại được rồi. Đang đi mà mình ý thức được bước chân, thấy rằng mình đang bước một bước và mình dẫm lên trên hành tinh mầu nhiệm gọi là trái đất này thì đó là phép lạ. Mình thấy mình đang còn sống và đang bước lên hành tinh này thì tự nhiên cái thấy đó giúp cho mình dừng lại. Khi nghe tiếng chuông mình cũng có cơ hội dừng lại sự suy nghĩ, sự lo lắng, dừng lại sự chạy trốn để tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm trong giây phút hiện tại.

Mình phải thiết kế, tổ chức và tu tập như thế nào để cho khung cảnh của Làng Mai có khả năng giúp được cho các bạn của mình mỗi khi tới Làng đó là có thể dừng lại được dễ dàng. Với cách mình đi, mình đứng, mình làm việc, mình nói cười có thể giúp cho người bạn của mình dừng lại được để người đó cũng có thể có mặt thật sự trong giây phút hiện tại. Các vị giáo thọ có thể giúp các bạn mới tới làm được như vậy. Mình tuy không phải giáo thọ, mình chỉ mới tu thôi nhưng khi thấy một người mới tới không biết hưởng sự tu tập thì rất là uổng. Mình có thể tới hỏi thăm: bạn đã được ai hướng dẫn về cách thở, cách đi, cách ngồi thiền chưa? Nếu người ấy chưa được hướng dẫn hoặc là hướng dẫn chưa đầy đủ thì mình có thể giúp đỡ nếu người ấy muốn. Mình không dẫm chân lên các vị giáo thọ nhưng tất cả những người đến với mình đều là huynh đệ của mình trong sự thực tập, đều là pháp huynh, pháp đệ, anh em trong đạo, cho nên mình có bổn phận phải giúp người đó. Khi thấy người ấy đi hấp tấp thì mình thấy uổng cho người đó, tại vì tới Làng Mai là mình có thể có hạnh phúc, có thể enjoy, thưởng thức từng bước chân của mình. Mỗi hơi thở là một cơ hội, mỗi bước chân là một cơ hội, mình phải nắm lấy cơ hội đó và giúp cho người kia đừng đánh mất cơ hội, đừng đánh mất sự sống.

Bài kệ 10
Trì trai tu phạm hạnh 持 齋 修 梵 行
Thường dục kiến hiền minh  常 欲 見 賢 明
Y phụ minh trí giả  依 附 明 智 者
Thị vi tối cát tường  是 為 最 吉 祥

Dịch nghĩa:
Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh
Có hạnh phúc khi gặp các hiền đức
Biết nương vào các bậc có trí sáng
Đó là điềm lành lớn nhất.

Trì trai tu phạm hạnh: Nguyên văn trong chữ Hán là trai. Trì trai tức là ăn chay chứ không ăn mặn. Nhưng chữ trai này có nghĩa khác hơn, sâu hơn nữa, khi tham cứu nguyên bản bằng tiếng Pali thì chữ trai này ngày xưa người ta sử dụng để dịch chữ thanh lọc (purification). Ngày xưa người ta dùng chữ trai chung với chữ giới, gọi là trai giới, nghĩa là ăn chay và giữ giới. Đây không phải là vấn đề riêng của người xuất gia mà đây cũng là sự thực tập của người tại gia, tức là phải khổ hạnh một chút xíu, phải tiết chế, không được hưởng thụ nhiều để có thể thanh lọc được thân và tâm. Trai giới để cho thân và tâm được nhẹ nhàng, thân tâm nhẹ nhàng thì hạnh phúc sẽ dễ dàng có được, còn thân hoặc tâm quá nặng thì hạnh phúc sẽ ít hơn. Vì vậy không những người xuất gia giữ trai giới mà người tại gia cũng nên giữ trai giới.

Ngày xưa những ông vua ở các nước Á Đông lâu lâu cũng thực tập trai giới. Trước khi đăng đàn làm lễ tế trời đất thì các ông vua phải trai giới ít nhất là ba ngày, vua cũng phải ăn chay, nằm đất để thanh lọc cơ thể, để khi làm lễ trời đất thì mới có hiệu quả. Văn hóa Đông phương bắt buộc như vậy, bên Trung Quốc hay Việt Nam thì cũng đều làm như thế, dù mình là người Phật tử hay không phải Phật tử. Ví dụ như trong nước bị mất mùa, bị hạn hán, hay thiên tai thì người ta tin rằng tại vì ông vua thiếu đức, thiếu tu. Vì vậy các quan nói rằng : tâu bệ hạ, bệ hạ nên trai giới một thời gian để cầu nguyện và ông vua cũng chấp nhận điều đó. Ông vua ăn chay và không nằm trên giường ngự nữa mà đi tìm chiếc chiếu, xuống nằm dưới đất và nhất là không ngủ với các cung phi mỹ nữ, xa lìa các cung phi mỹ nữ.

Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh
Có hạnh phúc khi gặp các hiền đức

Phạm hạnh (brahmacarya) có nghĩa là không có liên hệ tình dục. Người xuất sĩ thực tập phạm hạnh là điều đương nhiên rồi, nhưng người cư sĩ cũng phải nên thực tập phạm hạnh. Thỉnh thoảng các vị cư sĩ nên để ra một khoảng thời gian để trai giới, tránh có sự chung đụng. Có một thiền sinh Tây phương tới báo cáo với sư cô Chân Không là bà ta trai giới được một tháng rồi, trong một tháng đó bà không có liên hệ tới tình dục. Người xuất gia thì phải kiêng cữ suốt đời, còn người tại gia thì thỉnh thoảng cũng phải có những giai đoạn như vậy, mình phải trai, phải giới, phải tu phạm hạnh. Lâu lâu phải ăn chay, ăn đơn giản để thanh lọc thân tâm của mình.

Tại Làng Mai thỉnh thoảng có khóa tu sức khỏe, trong khóa tu mọi người ăn rất ít, không những ăn chay mà ăn rất là ít, uống nước rất nhiều, tập thể thao rất nhiều, súc ruột (nhịn ăn) để thanh lọc thân thể. Khi thân nhẹ nhàng thì tâm cũng nhẹ nhàng, mình cũng làm thế nào để cho những lo lắng, buồn phiền, tham đắm nhẹ bớt. Mình được tham dự một khóa tu, được nghe pháp thoại, được thực tập thiền tọa, thiền hành, và đi bộ một ngày mấy giờ đồng hồ, và cố nhiên là mình không có liên hệ tình dục thì thân tâm của mình được thanh lọc. Đây không phải chỉ là thực tập của những người xuất gia mà là cả của người tại gia. Nếu biết cách thực tập thì trong giai đoạn đó mình có hạnh phúc liền, còn bị bắt buộc phải làm thì mình không có hạnh phúc lắm.

Trong nguyên văn tiếng Phạn có chữ tapas có nghĩa là khổ hạnh, tiết chế, thanh lọc. Khổ hạnh (duskaracarya) tức là thực tập tiết chế. Trì trai và giữ giới, chữ trai dịch nguyên văn từ chữ tapas, tức là tiết chế khổ hạnh. Người cư sĩ cũng nên có những giai đoạn thực tập như vậy để thanh lọc thân và tâm của mình. Giữ giới là không gần gũi, chung chạ về vấn đề sắc dục. Cho nên phạm hạnh (brahmacarya) không phải chỉ cho người xuất gia mà người tu tại gia thỉnh thoảng cũng nên làm như vậy.

Bản dịch của kinh Phước Đức là biết tinh cần, tỉnh thức. Tinh cần ở đây tức là tinh cần thanh lọc. Thành ra mình phải sửa cho gần với nguyên văn hơn. Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh mình nên dịch là biết tinh cần thanh lọc thân tâm và tu theo phạm hạnh thì hay hơn dịch là ăn chay. Ăn chay ở đây có nghĩa là thanh lọc thân, thanh lọc tâm, khổ hạnh một chút xíu để cho nhẹ nhàng. Trong bản dịch từ tiếng Pali mình cũng phải sửa lại là sống tinh cần, tỉnh thức. Tinh cần ở đây là chuyên cần thanh lọc thân tâm cho thường, chứ đừng có lâu lâu mới làm một lần mà mỗi năm phải làm nhiều lần. Đi một khóa tu sức khỏe, một khóa tu bảy ngày hay hai mốt ngày để thanh lọc thân tâm và tu theo phạm hạnh

Trong truyền thống Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Trung quốc, mỗi gia đình Phật tử đều có ăn chay ít nhất là ngày rằm hay mồng một. Quý vị là Phật tử, quý vị phải chấp nhận Năm Giới và phải ăn chay ít nhất là ngày rằm và ngày mồng một hàng tháng. Tối thiểu là ngày rằm và ngày mồng một quý vị tắm gội sạch sẽ, đi chùa, tu phạm hạnh, ăn chay, không uống rượu, không ăn thịt cá, không có liên hệ tình dục. Ngày đó là ngày linh thiêng của Phật tử tại gia. Phần lớn các cư sĩ đều thực tập thập trai, tức là mỗi tháng ăn chay mười ngày. Ở Việt Nam, trên lịch người ta luôn luôn nhắc rằng ngày hôm nay là ngày trai thành ra mình đi chợ mình không mua cá, mua thịt. Cố nhiên có một số Phật tử ăn chay trường, tức là ăn chay luôn ba muơi ngày một tháng.

Theo sự gởi gắm của Ủy Ban Nghiên Cứu Liên Hiệp Quốc thì muốn cứu trái đất khỏi tình trạng ô nhiễm, khỏi bị hâm nóng thì ít nhất phải ăn chay mười lăm ngày một tháng, tức là công nghệ chăn nuôi phải giảm thiểu 50%, tại vì công nghệ chăn nuôi đã phá rừng, đốn cây để làm đồng cỏ cho bò ăn, gây ô nhiễm sinh môi rất nhiều. Cách đây ba năm tôi kêu gọi Phật tử cố gắng ăn chay ít nhất là mười lăm ngày trong tháng, tức là thập ngũ trai. Đối với Phật tử Việt Nam thì không khó bao nhiêu, tại vì chỉ từ mười ngày lên mười lăm ngày và nếu có thể được ăn chay được luôn ba mươi ngày thì càng tốt. Thập trai là danh từ rất thông dụng và bây giờ mình làm thập ngũ trai. Cái này là làm theo lời khuyên của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc: Vì thương trái đất mà ăn chay. Nếu biết cách nấu thì ăn chay cũng ngon lắm. Các thầy các sư cô nấu rất ngon. Chắc là mình phải mở một khóa tu để học nấu chay, cố nhiên là khóa tu đó mình sẽ nấu những món rất ngon và khóa tu đó chắc chắn là sẽ khác với khóa tu sức khỏe. Khóa tu sức khỏe thì không nên nấu ăn ngon, mùi thơm của thức ăn sẽ làm cho mình mất thanh tịnh, mất an lạc.

Ăn chay là phương tiện hữu hiệu nhất để cứu hộ cho trái đất. Các nhà khoa học đã nói rằng nếu mình mua một chiếc xe hơi chạy bằng điện hoặc bằng dầu để cho bớt ô nhiễm, như chiếc hybrid của hãng Honda, nó chế tác rất ít khí CO2. Nhưng không bằng ăn chay, ăn chay lời hơn, hữu hiệu hơn là mua một chiếc xe.

Tại Làng Mai chúng tôi thực tập mỗi tuần một ngày không sử dụng xe, tại Xóm Mới thì thực tập thêm mỗi tuần một ngày không sử dụng điện (trừ những ngày mùa đông) và ở đây ăn chay luôn 365 ngày trong một năm. Thực tập như vậy chúng tôi thấy trong lòng nhẹ nhàng. Tại vì làm được chuyện đó nên chúng tôi khuyên được các bạn của mình làm theo. Năm ngoái các thầy, các sư cô ở tu viện Lộc Uyển đã kêu gọi các bạn cư sĩ bên Hoa Kỳ thực tập ngày không xe (no car day). Các bạn thực tập được góp chung lại là 100.000 (một trăm ngàn) ngày không chạy xe. Rất là hay. Chúng ta có thể giúp cứu được hành tinh của chúng ta bằng cách thực tập câu này trong Kinh Cát Tường (Kinh Điềm Lành). Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh, mình có thể dịch:

Thường tinh cần, thanh lọc thân tâm, tu theo phạm hạnh
Có hạnh phúc khi gặp các hiền đức

Thường dục kiến hiền minh: Có nhu yếu muốn được gặp các bậc hiền minh. Những người hiền có nghĩa là những người bạn, những bậc thầy có tu, có học. Mỗi khi nghĩ tới họ thì mình có ước muốn được gặp họ, đó là điềm lành.

Biết nương vào các bậc có trí sáng tức là người có trí tuệ vì những người có trí tuệ có thể giúp mình thoát ra khỏi những tình huống khó khăn, khổ đau, những lo lắng ưu sầu. Những khó khăn của mình nhờ lưỡi gươm của trí tuệ mà được cắt đứt. Nếu trí tuệ của mình còn thiếu thì mình phải gần gũi với các bậc hiền đức, các bậc có trí tuệ để họ soi sáng cho mình. Đôi khi khó khăn của mình mình phải loay hoay từ tuần này sang tuần khác mà không vượt thoát được tình trạng đó, gặp bậc có trí tuệ họ soi sáng cho mình một cái là mình thoát ra khỏi liền lập tức. Người kia nói cho mình có mấy câu thôi mà mình ra được. Rất là hay.

Y phụ minh trí giả: Biết nương vào những bậc có trí tuệ sáng suốt. Minh trí là trí tuệ sáng suốt. Đó là dấu hiệu của sự may mắn. Nếu một người biết trì trai, biết tu phạm hạnh, nếu người đó có nhu yếu muốn đi gặp những bậc hiền, nếu người đó biết nương vào những người có trí tuệ thì đó là dấu hiệu tốt lành mà mình có thể nhận diện được.

 

Bài kệ 11
Dĩ tín hữu đạo đức  已 信 有 道 德
Chánh ý hướng vô nghi  正 意 向 無 疑
Dục thoát tam ác đạo  欲 脫 三 惡 道
Thị vi tối cát tường   是 為 最 吉 祥

Dịch nghĩa:
Có niềm tin, có một đời sống tâm linh
Tâm ý ngay thẳng, không bị hoài nghi che lấp
Có quyết tâm lánh xa ba nẻo về xấu ác
Đó là điềm lành lớn nhất

Dĩ tín hữu đạo đức: Tín tức là niềm tin và niềm tin này không phải là niềm tin nơi một đấng thần linh mà nơi một con đường. Tín là một năng lượng, khi mình có năng lượng của niềm tin thì mình có sức mạnh, và có hạnh phúc. Trong đạo Bụt có nói tới năm nguồn năng lượng gọi là ngũ lực (panca balani): tín, tấn, niệm, định, tuệ. Tín là năng lượng của niềm tin, chính nó tạo ra những năng lượng khác; tấn là sự chuyên cần, chuyên cần tu học, thực tập; niệm tức là năng lượng của sự có mặt đích thực; định là năng lượng của sự tập trung; những năng lượng này đưa tới trí tuệ, mà trí tuệ là lưỡi gươm có khả năng chặt đứt những sợi dây sầu khổ, lo lắng, tham đắm v.v… Năm nguồn năng lượng đó tạo ra bậc trí sáng, những bậc hiền nhân.

Dĩ tín hữu đạo đức: Hữu đạo đức là có một đời sống tâm linh. Không có một đời sống tâm linh thì mình không có năng lượng để đối diện, để tháo gỡ những khó khăn trong nội tâm của mình. Đời sống tâm linh được làm bằng năm nguồn năng lượng (tín, tấn, niệm, định, tuệ) và tu tập là để chế tác năm nguồn năng lượng này.

Chánh ý hướng vô nghi: Ở đây tôi dịch là tâm ý ngay thẳng, nhưng mình nên dịch lại là hướng về sự thực tập chánh kiến (right view). Chánh ý tức là chánh kiến mà chánh kiến là yếu tố đầu của Bát Chánh Đạo. Chánh kiến tức là tuệ. Khi có được chánh kiến rồi thì mình không nghi ngờ, không thắc mắc nữa, đó gọi là chánh ý hướng vô nghi. Hướng về phía thực hiện được chánh kiến để đi đến chỗ không ngờ vực, không thắc mắc nữa nghĩa là nó đi đôi với con đường tâm linh. Con đường tâm linh là con đường Bát Chánh Đạo, nó bắt đầu từ chánh kiến rồi tới chánh tư duy. Chánh ý cũng có nghĩa là chánh tư duy (right thinking). Chánh kiến và chánh tư duy đều được bao gồm trong danh từ chánh ý.

Dục thoát tam ác đạo: Có nhu yếu không muốn đi về ba nẻo tối tăm: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Theo cái thấy của đạo Bụt Đại thừa thì thế giới của địa ngục, thế giới của ma đói và thế giới của súc sanh không phải là ở một thế giới khác mà nó nằm ngay trong thế giới loài người. Trong con người có niết bàn, tịnh độ mà cũng có địa ngục. Mình đã sống như thế nào để niết bàn được biểu hiện? Hoặc mình đã sống như thế nào đó thì địa ngục có thể mở ra ngay trong lòng mình. Địa ngục hay niết bàn vốn nằm trong tâm của mình chứ không phải ở một cõi nào đó xa xôi. Có ba nẻo đường đen tối là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nhưng ba con đường ấy không phải là ở một cõi khác trong tương lai mà nó có thể có ngay trong hiện tại. Súc sanh tức là chỉ biết sống theo bản năng ham muốn mà không màng gì tới tình thương, hiểu biết và giải thoát. Đường về gọi là thú, đạo cũng là thú, tam thú, ác thú. Tam ác đạo là ba nẻo về xấu ác. Trong đời sống hàng ngày mình không muốn để cho ba con đường xấu ác đó biểu hiện, nếu có quyết tâm ấy thì đó là điềm lành. Mình là người thực tập, là một hành giả mình không muốn đi về ba nẻo đường đó, cho nên mình tới với nhau để nương vào nhau. Có nhiều người không biết nên nhiều khi họ dìu nhau đi về hướng địa ngục, về cõi ma đói, về cõi xúc sanh chỉ biết thỏa mãn những thú tánh mà thôi.

Bài kệ 12
Đẳng tâm hành bố thí   等 心 行 布 施
Phụng chư đắc đạo giả   奉 諸 得 道 者
Diệc kính chư thiên nhân   亦 敬 諸 天 人
Thị vi tối cát tường   是 為 最 吉 祥

Dịch nghĩa:
Biết bố thí với tâm niệm bình đẳng
Biết phụng sự những bậc đắc đạo
Biết tôn quý những kẻ đáng tôn quý trong hai giới nhân và thiên
Đó là điềm lành lớn nhất.

Đẳng tâm hành bố thí: Đẳng tâm là tâm niệm bình đẳng, biết phụng sự những bậc đắc đạo, biết tôn quý những bậc đáng quý trong hai giới trời và người, đó là điềm lành lớn nhất. Đẳng tâm là tâm niệm không kỳ thị, coi tất cả mọi loài đều bằng nhau. Khi cứu giúp người thì mình không kỳ thị, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo. Giúp là giúp thôi, tại người ta khổ nên mình giúp đó gọi là đẳng tâm hành bố thí.

Bố thí là một phép thực tập, nó đem lại cho mình hạnh phúc, nó là một trong sáu sự thực tập có thể đưa mình từ bến bờ khổ đau, hệ lụy đi sang bến bờ thảnh thơi, an lạc, gọi là Lục Ba La Mật (Six Paramitas). Lục Ba La Mật  là sáu phương pháp thực tập đưa mình từ bờ bên này sang bờ bên kia gồm: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định, nhẫn nhục và trí tuệ. Phép thứ sáu có liên hệ với nguồn năng lượng thứ năm, gọi là tuệ. Phép thứ năm, nó liên hệ tới nguồn năng lượng thứ tư là định. Trì giới cũng liên hệ ít nhiều tới niệm định tuệ và có khi là giới định tuệ. Niệm và giới liên hệ mật thiết đến nỗi không phân biệt được, đó là trái tim của sự thực tập đạo Bụt, gọi là niệm định tuệ hay là giới định tuệ nó còn được gọi là tam vô lậu học, tức là ba sự rèn luyện, ba sự thực tập, nó giúp cho mình không rơi rụng trong thế giới của hệ lụy, sầu khổ. Vô lậu tức là không có rạn nứt, không rơi rớt xuống. Bố thí là hiến tặng, là phân phát, là chia sẻ. Sự thực tập đó có thể đưa từ thế giới của hận thù, của khổ đau, của hệ lụy đi sang thế giới của giải thoát, của an lạc, của tình thương. Khi giận ai thì mình không muốn cho người đó cái gì hết, để dành cho người khác, nhưng nếu mình nói, thôi cho người đó đi thì tự nhiên mình hết giận liền. Đó là một đề nghị của đức Thế Tôn.

Người mình thương, lâu lâu mình giận người đó, biết trước như vậy thì bây giờ khi chưa giận mình lo mua quà trước cất trong tủ, giữ cho kỹ, để khi nào mình giận mà tháo gỡ không được thì mình nhớ lời Bụt dạy, đi kiếm món quà tặng cho người đó : anh có món quà cho em, chỉ cần nghĩ tới vậy là mình hết giận liền, rất là hay. Bố thí không phải chỉ đối trị với sự ích kỷ, tham lam mà còn đối trị luôn với sân và si, nó đối trị cả tam độc. Khi mình biết rằng khổ đau của người đó tức là khổ đau của mình, làm cho  người đó hạnh phúc thì mình được hạnh phúc hơn, đó là vô si, là trí tuệ, mà có trí tuệ thì hết khổ. Vì vậy bố thí không phải chỉ là đối trị với sự bỏn sẻn, tham lam, ích kỷ mà nó còn chuyển hóa luôn cả cái sân hận và cái si mê, cho nên gọi là Bố Thí Ba La Mật (Dana Pamarita). Vị Bồ Tát mà thực tập bố thí thì phải bố thí một cách bình đẳng, nghĩa là không phân biệt, không kỳ thị. Bố thí có nhiều loại, ở đây chúng ta chỉ nói tới ba loại là : tài thí, pháp thí và vô úy thí.
– Tài thí tức là bố thí tài vật như : tiền bạc, nhà ở, cơm áo, thuốc men…,
– Pháp thí là chỉ cho người kia phương pháp để người ấy thoát khổ. Mình biết con đường Bát Chánh Đạo nên biết cách tháo gỡ, hòa giải được cho họ, giúp họ vượt thoát buồn lo, sợ hãi. Thành ra không cần giàu có mới bố thí được, mình có trí tuệ  là có thể bố thí được rất nhiều, mình có giáo pháp, mở khóa tu là pháp thí
– Thứ ba là vô úy thí tức là hiến tặng sự không sợ hãi, người kia sợ chết, người kia sợ đói, người kia sợ cô đơn. Cái sợ của người kia làm cho họ co rúm lại, khiến họ không thể có được hạnh phúc trong đời sống  hàng ngày

Trên thế giới bây giờ cái sợ rất lớn, các nước đều sợ mà sợ những cái rất hão huyền, vì sợ cho nên phải mua súng, mua bom, vì sợ cho nên phải bỏ hết tiền ra để mà trang bị quân đội, không có tiền đủ để cung cấp lương thực cho dân. Thế giới bây giờ được vận hành trên cái sợ, vì sợ cho nên có nhu yếu muốn mua vũ khí mà nhiều người vì tham cho nên đã chơi trên cái sợ của người khác. Họ chế tạo vũ khí, họ nói nếu anh không mua cái này, mai mốt nó đánh anh, anh ráng chịu. Vì vậy mình biết rõ ràng rằng cái tham và cái sợ đi đôi với nhau. Vô úy thí là trao tặng sự không sợ hãi, mà muốn trao tặng sự vô úy thì chính mình phải có sự vô úy. Mình có trí tuệ, mình không sợ chết, không sợ đói, không sợ nghèo và khi mình có cái vô úy đó rồi thì mình mới có thể hiến tặng cho người khác được. Nhờ có trí tuệ mà mình không sợ hãi, còn nếu không có trí tuệ thì sợ hãi rất nhiều. Cái sợ đó đưa tới sự chia rẽ, bạo động, đưa tới nghi ngờ, đưa tới khủng bố và chống khủng bố. Vì vậy bố thí là một trong sáu phương pháp thực tập để đưa mình từ bờ của khổ đau, của hệ lụy đi sang bờ của giải thoát, của an lạc, của tình thương, của hạnh phúc. Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị bồ tát chuyên môn ban tặng sự không sợ hãi.

Biết phụng sự những bậc đắc đạo: Đây là vấn đề đầu tư. Mình biết bố thí một cách bình đẳng không kỳ thị rồi nhưng mình cũng biết đầu tư nữa. Những bậc đắc đạo, những người có trí sáng thì sự có mặt của những vị đó rất có lợi cho quần chúng, cho nhân gian, tại vì có mặt của những người đó là có nhiều ánh sáng, có nhiều trí tuệ vì vậy giúp người ta sẽ không đi lầm đường, lạc lối, xuôi về ba nẻo xấu ác. Do đó mình phải đặc biệt yểm trợ những bậc đắc đạo, mình không kỳ thị, nhưng mình đặc biệt chú trọng tới các vị ấy, đó là vấn đề đầu tư. Đây là giá trị đạo đức, giá trị trí tuệ. Ở trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có một đoạn khi mình mới nghe thì giống như là bố thí không có bình đẳng, đoạn đó nói rằng cho một người ác ăn cơm, không có công đức bằng cho một người hiền ăn cơm. Tại vì cho người hiền ăn cơm tức là đầu tư vào người hiền, người hiền đó có thể giúp được rất nhiều người. Cố nhiên là người ác khi đói cũng khổ, cho nên cũng cho họ ăn cơm, nhưng nếu mình có cơ hội cho người hiền ăn cơm thì công đức còn nhiều hơn nữa. Nó có nghĩa không phải là mình không cho người ác ăn cơm, nhưng trong khi bố thí thì có sự đầu tư vào trong đó. Thành ra hai cái không chống đối với nhau, nó có thể đi đôi với nhau, một bên là tâm không kỳ thị, một bên là ý hướng muốn đầu tư, nó tế nhị lắm.

Biết tôn qúy những kẻ đáng tôn qúy trong hai giới nhân và thiên: Nó cũng nằm trong tinh thần đó, nghĩa là mình phải có sự đối xử đặc biệt, tôn kính đối với người đáng tôn kính, tại vì những người đó có đạo hạnh, họ có trí tuệ. Mình yểm trợ cho những người đó thì nó có lợi lạc nhiều cho thế giới của mình. Tôn kính bậc đáng kính, cái này cũng có trong bản chữ Pali.