Hồng

Ở  biển Nam Hải có một con cá màu hồng rất tinh khôn và nhanh nhẹn. Cá dài chừng chín tấc, vảy màu ửng đỏ sáng đẹp. Mỗi khi cá ngoi lên gần mặt nước, màu hồng của vi vảy làm ngời sáng cả những gợn sóng lấp lánh ánh mặt trời. Ngư thuyền trong vùng ít khi gặp được cá. Hành tung của cá thật là bí mật. Chỉ có một người biết rõ được nguồn gốc của cá. Đó là một cô gái người Việt tên Đào.
Đào mười chín tuổi. Cô với người yêu cùng vượt biển với bốn mươi hai người khác trên một chiếc thuyền bề rộng hai thước rưỡi và bề dài mười một thước. Thuyền của cô bị hải tặc chặn cướp trên con đường từ cù lao Quái đến cù lao Chàng. Bọn hải tặc vơ vét tất cả những gì chúng có thể vơ vét được và còn hiếp dâm tất cả phụ nữ trên thuyền. Đào cũng chịu chung số phận với những người khác. Cô bị ba tên hải tặc thay nhau hãm hiếp. Những người con trai nào trên thuyền chống lại hải tặc đều bị chúng trói lại và đánh đập. Chồng chưa cưới của Đào cũng chịu chung số phận này. Trong cơn kinh hoàng, cô chỉ biết vùng vẫy la hét. Vì cô la hét và cào cấu quá cho nên tên hải tặc thứ ba, sau khi thỏa mãn thú tính đã lấy chân hất cô xuống biển. Cô đã được con cá Hồng cứu thoát và đưa vào bờ cát của một hòn đảo nhỏ không tên, cách cù lao Chàng chừng mười tám cây số về phía Tây Nam.
Khi Đào bị hất xuống biển, cô la lên một tiếng thất thanh. Nhưng tiếng kêu của cô cũng như thân thể của cô trong khoảnh khắc đã bị chìm nghỉm. Biển cả đã nuốt cô. Đào ngất đi. Khi tỉnh dậy, sáng hôm sau, Đào thấy mình nằm trên một bãi cát vắng. Thân thể cô rã rời đau nhức. Cố gắng mãi cô mới chống tay ngồi dậy được. Nước biển còn liếm tới bãi cát cách chân cô chừng vài thước. Cô gắng gượng đứng lên, và lảo đảo đi về phía có mấy tảng đá có bóng cây rợp mát. Tới nơi, cô ngồi bệt xuống đất, dựa vào một tảng đá, và thở.
Đào biết mình còn sống. Cô bắt đầu nhớ lại những gì đã xảy ra ngày hôm qua trên thuyền. Cô đưa hai tay bưng đầu không dám nhìn ra biển cả, tưởng rằng bọn hải tặc vẫn còn đó. Nhưng không, cảnh tượng hãi hùng hôm qua đã không còn nữa. Nhìn lại, cô chỉ thấy mặt biển mênh mông và sóng trên biển nối tiếp nhau dạt vào bờ cát. Cô nhớ đến những tấm thân thô bạo trên thân hình cô. Cô rùng mình nghiến răng, nước mắt ràn rụa đầy hai má. Cô nhìn xuống thân thể cô. Trên thân hình đau nhức ấy không còn lấy một mảnh vải. Cô hổ thẹn vội đưa hai tay che lấy ngực và nhìn ra. Không, vẫn không có ai. Mặt biển phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời. Không có một đám mây nhỏ. Trời xanh ngắt. Không có một dấu hiệu nào, một chấm đen nào ở ba phía chân trời.
Cô nhớ tới Đạt, người yêu của cô. Chắc là giờ đây Đạt đã chết rồi. Hôm qua chàng đã bị bọn hải tặc trói lại và đánh đập tàn nhẫn. Cô chỉ cào cấu bọn chúng mà thôi, vậy mà chúng đã hất cô xuống biển, huống gì Đạt: chàng đã xông vào liều thân với bọn cướp biển. Chúng đã đánh ngã Đạt, trói chàng lại. Thế nào chúng cũng đã hất chàng xuống biển. Đào nghẹo ngào. Cô đưa tay ôm ngực, hổn hển, làm như khí trời không đủ cho cô thở. Cô buông hai tay, nằm ngửa trên mặt đất, như một người đã tắt thở.
Cảm thấy mệt mỏi và cùng cực, Đào nhắm mắt lại, nghĩ rằng mình sẽ tắt thở và chết trên hòn đảo hoang này. Nhưng cô không tắt thở. Hơi thở của cô đều đặn lại, và cô thiếp đi trong mệt mỏi. Cô thiếp đi như thế cho đến khi mặt trời lặn xuống và mặt trăng lồng lộng hiện rõ trên bầu trời bao la thì cô tỉnh dậy. Có một bàn tay nhỏ đặt trên trán cô. Đào giật mình ngồi nhỏm dậy, đưa hai tay lên che ngực. Trước mặt cô là một em bé gái chừng mười tuổi, tóc chấm ngang vai, hai mắt đen nháy. Em bé mặc một chiếc áo màu hồng.
– Em là ai? Tại sao lại ở đây? – Đào vội vàng hỏi. Em bé đáp:
– Em tên là Hồng. Em tới đây từ lúc mặt trời chưa lặn. Nói tới đó, Hồng đứng dậy rút từ cành cây trên đầu hai người một bộ xiêm y rồi đưa cho Đào. Em nói tiếp:
– Chị mặc mấy thứ này vào cho đỡ lạnh, rồi chúng ta hãy nói chuyện. Sương bắt đầu xuống rồi, và chị đang run đó, chị có thấy không?
Đào tiếp lấy bộ xiêm y trên tay em bé, run rẩy mặc vào người. Đây là một bộ xiêm y của phụ nữ Việt còn thơm mùi long não. “Em bé này là ai mà một mình lạc vào đảo?”. Đào vừa cài khuy vừa suy nghĩ. Hay đây là một bóng ma hiện hình khủng bố cô?
Vừa lúc đó thì em bé lên tiếng:
– Em là người, không phải là ma đâu chị. Em sinh ở Vĩnh Long, và cha mẹ em từ bảy năm nay buôn bán ở thị xã Vĩnh Long. Chị ngồi xuống đây, ăn mấy cái bánh này rồi chị em mình nói chuyện.
Đào ngồi xuống bên cô bé. Hồng mở một cái hộp thiếc lớn, lôi ra một chiếc bao ny lông đầy bánh. Em lấy răng cắn thủng một góc bao, dùng ngón tay mở rộng chỗ thủng và lấy hai cái bánh vuông, đưa cho Đào. Ruột gan Đào cồn cào khi trông thấy bánh. Cô đưa tay nhận bánh và bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến. Từ trưa hôm qua đến giờ, cô chưa có một hạt cơm bỏ bụng.
Bánh Đào đang ăn thuộc về loại bánh lạt, một loại crackers để dùng ăn với sữa. Mỗi chiếc bánh lớn bằng bốn ngón tay Đào. Ăn hết chiếc bánh đầu tiên, Đào hỏi:
– Bánh ở đâu mà em có vậy?
Hồng cười:
– Đây là một trong những thùng bánh mà một chiếc tàu Đan Mạch liệng xuống biển. Chị ăn bánh đi, rồi từ từ em giải thích cho, đừng có mở mắt to nhìn em như vậy. Số là hôm nay có một chiếc ghe tị nạn hết nước uống và lương thực. Trên ghe có tám mươi bốn người, mà hai phần ba là trẻ em như em. Máy ghe bị hỏng. Có một chiếc tàu treo cờ Pháp đi qua. Nhiều người trên ghe cởi áo phất qua phất lại cầu cứu. Chiếc tàu treo cờ Pháp làm ngơ đi thẳng. Mấy giờ đồng hồ sau lại có chiếc tàu treo cờ Anh đi qua. Chiếc tàu treo cờ Anh cũng làm ngơ như không trông thấy. Lúc mặt trời sắp lặn thì có một chiếc tàu treo cờ Đan Mạch đi ngang. Thấy kêu cứu, chiếc tàu này dừng lại và đi vòng quanh chiếc ghe ba lần. Họ không chịu cứu tám mươi bốn người lên tàu họ mà chỉ thả xuống cho hai thùng nước và mười thùng bánh. Bảy thùng bánh rơi trúng ghe, còn ba thùng rơi tõm xuống biển. Thùng bánh mà chị đang ăn là một trong ba thùng rơi xuống biển.
– Sau đó chiếc ghe có gặp tàu khác không? Chiếc ghe có tới được bờ bên kia không? Mà tại làm sao em biết? Em đi trên chiếc ghe đó hả? Còn những người khác bây giờ ở đâu? Ghe chìm chết hết rồi phải không?
– Chị hỏi nhiều quá khiến em chóng mặt. Dạ không, em không phải là người trên ghe ấy. Ghe chưa chìm. Hiện giờ gió Đông Bắc đang đưa ghe tấp từ từ vào bờ biển Thái Lan. Em hy vọng ghe đó được vào bờ vô sự.
Nói xong Hồng lộ vẻ trầm ngâm. Đào muốn hỏi nữa nhưng ngài ngại. Đây đúng là một em bé, nhưng phong thái và cách ăn nói của em thật là khác thường. Một đứa bé mười tuổi trôi dạt vào một hải đảo, xa cha mẹ và các anh chị, thì không thể nào ăn nói bình tĩnh chững chạc như vậy được. Đáng lý nó phải khóc la, phải kêu mẹ, phải ôm lấy Đào mà kể lể thì mới đúng. Đằng này, nó ngồi trước mặt Đào, lấy áo cho cô mặc, lấy bánh cho cô ăn và săn sóc Đào như một người chị săn sóc cho một đứa em. Cảnh hoang đảo dưới trăng này hoặc giả chỉ là một giấc mơ, Đào nghĩ. Cô cắn vào môi đau gần rướm máu, và biết đây không phải là một giấc mơ. Vừa lúc ấy Hồng đưa một ngón tay lên làm hiệu cho Đào yên lặng. Một thoáng sau Hồng nói:
– Em nghe như có tiếng nước chảy róc rách. Có thể là chúng ta sẽ tìm ra nước uống. Chị ngồi yên đây, để em xem.
Hồng đứng dậy, thoăn thoắt nhảy trên những tảng đá và phút chốc biến mất sau lùm cây. Trong lúc chờ đợi, Đào với tay lấy túi bánh và móc ra thêm hai cái bánh. Cô ăn thong thả, mặt hướng về lùm cây. Một lát sau, cô thấy bóng Hồng xuất hiện trên một tảng đá, hai tay đang nâng một vật gì không rõ. Khi Hồng đến gần, Đào thấy đó là một chiếc lá cuốn lại hình một quặn, bên trong đầy nước.
– Đây là nước ngọt, chị uống đi.
Hồng đưa nước vào tận môi Đào. Nước ngọt quá, ngon quá, làm cho ruột gan Đào mát rượi.
– Chị uống hết đi, em đã uống rồi.
Đào uống hết nước. Cô cám ơn Hồng. Hồng bảo:
– Ở gần suối nước có một khoảng đất sạch và kín gió. Chị em mình có thể nghỉ đêm ở đấy được. Ngồi đây lạnh quá. Vả lại giữa khuya nước có thể lên cuốn chị em mình xuống biển lắm.
Hồng bỏ túi bánh vào thùng, trao cho Đào cầm và cúi xuống xách cái bọc quần áo lên. Hai chị em men theo con đường cũ trở lên suối. Trăng hải đảo sáng vằng vặc. Trời vẫn trong, không một gợn mây. Hồng đợi Đào ngồi xuống rồi mới nói:
– May mắn chúng ta đã tìm ra được con suối nước ngọt này. Có thùng bánh lạt Đan Mạch, ít ra chúng ta cũng có đủ thức ăn cầm hơi trong chừng mười bữa hay nửa tháng. Chúng ta ăn bánh, uống nước suối và sẽ đi tìm trong đảo xem có thứ rau, thứ trái gì để ăn cho bớt xót ruột. Trong thời gian đó, chúng ta để ý xem có chiếc ghe tị nạn nào đi ngang gần đây không. Ta sẽ cầu cứu và khi họ ghé vào, ta sẽ cùng xin đi với họ. Cái bọc áo quần và thùng bánh này em nhặt được ngoài bãi cát hồi chiều qua. Lúc em lên đảo thì chị đang ngủ. Thấy chị không có quần áo, em mới mỏ bọc tìm một bộ đồ, vắt cho ráo rồi treo lên cành cây cho khô để chị mặc. Những bộ quần áo còn trong bọc này, ngày mai ta sẽ vắt phơi để đắp ngủ thay mền cho ấm. Nếu chị chưa mệt thì chị kể cho em nghe chuyện của chị đi, chị.
Đào bắt đầu kể chuyện vượt biển của mình cho Hồng nghe. Cha cô là một nhà văn bị đi học tập ở miền thượng du Bắc Bộ từ năm 1976. Mẹ cô dành dụm trong hai năm mới đủ tiền đi thăm nuôi chồng một lần. Từ đó về sau, mẹ cô và cô chỉ có đủ tiền để viết thư, gửi cho cha cô một hũ đường và một chai muối sả mỗi ba tháng. Có lần trong sáu bảy tháng liên tiếp gia đình không nhận được thư từ gì của cha cô cả. Lần đầu gặp được cha cô tại trại học tập, mẹ cô thấy ông gầy ốm và tiều tụy đến thảm thương. Ông đã xúi mẹ con cô trốn qua nước khác mà sinh sống, nhưng mẹ cô nói còn nước thì còn tát, rằng chồng bà còn sống thì bà còn chờ đợi. Trong khi đó thì sự sống mỗi ngày một trở nên khó khăn. Cô và thằng em trai lớn của cô – thằng Văn, năm nay mười sáu tuổi – hết sức giúp mẹ trong việc buôn bán, nhưng không đủ ăn. Cô có một người bạn tên Nguyên. Gia đình của Nguyên cũng lâm vào cảnh túng thiếu như cô, nhưng nhờ có thân nhân sống ở ngoại quốc, nên đời sống của họ đỡ khổ hơn nhiều. Cứ mỗi hai tháng họ nhận được một gói quà từ ngoại quốc trong đó có bột ngọt, thuốc lá ba số 5, bơ, phô mai, thuốc trụ sinh và những loại xa xỉ phẩm khác. Các thứ này họ đem bán lấy tiền mua gạo và những thứ cần thiết khác. Khi chồng chưa cưới của Đào ngỏ ý vượt biên, cô băn khoăn lo sợ. Cô không lo sợ cho cô mà cô sợ bỏ mẹ, bỏ em ở nhà. Mẹ của cô ôm cô khóc một đêm, nhưng cũng đồng ý để cô đi. Cô để lại tất cả tư trang và áo quần cho mẹ, chỉ đem theo cái bằng tú tài và một bộ đồ mặc trên mình. Cô thức một đêm với Văn, ký thác gia đình cho em. “Hễ qua được Mã lai, chị sẽ đánh điện cho em liền”. Ghe của cô hư máy lênh đênh trên biển đã mười sáu đêm ngày và rốt cuộc bị bọn cướp biển tấn công. Cô bị ba tên cướp biển làm nhục, và tên thứ ba đã hất cô xuống biển. Đạt bị trói và đánh đập dã man. Có lẽ chàng đã chết rồi, và mọi người trên ghe có thể cũng đã chết rồi. Cô bưng mặt, nước mắt cô lại tuôn ra như suối. Cô gọi mẹ, gọi em, gọi tên người yêu. Cô nói cô muốn đập đầu vào đá để chết.
Hồng im lặng nghe, thỉnh thoảng cầm lấy tay Đào trong hai tay mình và bóp thật chặt. Em không hề ngắt lời của cô. Đến khi Đào đứng dậy định đập đầu vào đá thì em ôm cô ghì chặt lại. Hồng có một sức mạnh kỳ lạ khiến Đào không nhích thêm được một bước. Một lát sau, hết sức. Đào ngã quỵ xuống thở hổn hển. Trời về đêm lạnh mà mồ hôi Đào lấm tấm.
Hồng đỡ Đào ngồi xuống cỏ. Em lấy vạt áo hồng của mình lau mồ hôi trán cho Đào. Đợi cơn đau của Đào dịu xuống, em mới nhỏ nhẹ nói:
– Chị làm như vậy là chị không nghĩ tới hai bác và các em của chị. Hai bác và các anh chị sẽ khổ đau suốt đời mỗi khi nghĩ đến chị, cho rằng chị đã chết chìm dưới biển. Trong khi đó thì chị đang ở trên đất liền, có cơ hội đón ghe khác để tiếp tục cuộc hành trình. Nếu mà đến nơi đến chốn được thì chị sẽ làm việc để nâng đỡ cho gia đình. Nội cái tin chị được tới bờ bên kia cũng đủ cho bác vui rồi. Huống nữa chị vẫn còn nhiều hy vọng. Chiếc ghe của chị và bốn mươi hai người trên đó rất có hy vọng đến bến bờ bên kia. Bọn cướp sau khi hất chị xuống biển chắc đã tháo lui. Bởi vì chính mắt em trông thấy chiếc ghe đang bập bềnh trôi dạt về hướng Tây Nam. Trong vài ngày nữa có thể thuyền sẽ cặp vào một bờ bến Mã Lai. Anh Đạt rất có thể còn sống và chị còn rất nhiều hy vọng gặp lại anh ấy…
Đào nắm lấy cánh tay trái của em bé trong hai bàn tay mình:
– Chắc không em? Có chắc là anh Đạt còn sống không em? Mà tại sao em thấy được chiếc ghe chở anh ấy đi dạt về phía Tây Nam? Em đứng ở đâu và thuyền em bây giờ đi về hướng nào? Ba má cùng các anh chị của em hiện giờ ở đâu?
– Em hứa với chị là mai mốt em sẽ kể chị nghe. Chuyện của em gần như chuyện của chị. Bây giờ đã khuya rồi, chị em mình cần ngủ để sáng mai còn dậy canh chừng ba mặt biển. Chị nằm xuống đây và gối đầu lên cái rễ cây này mà ngủ.
– Chị cầu Trời khẩn Phật cho anh Đạt của chị còn sống. Em ơi, thân chị bây giờ ô uế rồi, chị không còn xứng đáng với anh Đạt nữa. Chị khổ lắm. Đời con gái giữ gìn từng ly từng tí, vậy mà trong phút chốc bị sa vào tay một bọn cướp biển dã man. Chị không còn hứng thú gì mà sống trên đời này nữa.
Đào khóc rưng rức. Hồng chậm rãi:
– Có nhiều người trên đời sống không vì hứng thú mà vì bổn phận và vì thương yêu. Mà nói cho tới cùng, sống vì bổn phận và vì thương yêu cũng có thể là một nguồn vui lớn, chị ạ.
Trong cơn đau khổ cùng cực, Đào không nhận thấy ý nghĩa sâu xa của lời Hồng nói, một lời nói thật ra không thể phát ra từ cái miệng xinh xắn của một cô bé mười tuổi như Hồng. Cho nên Đào lặng thinh. Hồng nói tiếp:
– Có biết bao người chìm ghe chết và bị lũ cá mập rỉa thịt, rỉa xương. Nhưng không phải chỉ ở dưới biển sâu mới có cá mập, thưa chị. Trên đất liền cũng có cá mập. Chúng rỉa thịt, rỉa xương tủy của chúng ta mà sống. Bọn cướp biển kia cũng là một loại cá mập có phải không chị? Có thể là vì bị những con cá mập khác trên lục địa chèn ép cho nên chúng mới ra biển để làm cá mập trên thuyền. Cá mập dưới biển rỉa hàng chục, hàng ngàn đồng bào của chị. Cá mập trên thuyền lại rỉa hàng chục ngàn đồng bào khác. Chị bị ba con cá mập rỉa đói. Chị đã gánh chịu một phần cái khổ đau cùng cực của đồng bào chị. Trong chúng ta, có ai mà không bị thương tích? Có ai mà bảo tồn toàn vẹn được thân thể và tâm hồn? Với con mắt em, em vẫn thấy chị trong trắng và trinh bạch một cách hoàn toàn. Bọn cướp biển bức bách chị, cưỡng đoạt chị, nhưng không lấy được gì của chị hết. Chị chưa bao giờ muốn đem thân thể của chị để đưa cho chúng nó. Chị không có lỗi lầm gì hết. Vết thương của chị, cũng như vết thương do một con cá mập gây ra, một ngày kia sẽ lành. Miễn là chị phải chạy chữa đừng để nó làm độc. Vết thương làm độc thì chị chết. Vết thương có thể làm độc tinh thần chị cũng như làm độc thể xác chị. Chừng mười ngày nửa tháng nữa thì chị em mình có thể qua được bờ bên kia. Chúng ta sẽ cố gắng xin với một bác sĩ chữa trị và chặn đứng chất độc của vết thương trong thân thể chị. Còn vết thương tinh thần thì không có bác sĩ nào chữa trị được cho chị hết. Chị phải chữa trị lấy.
Những lời nói của Hồng thấm dần, thấm dần vào toàn thân Đào. Cô nằm im lặng. Nước mắt cô tuôn trào nhưng cô đã cảm thấy dễ chịu hơn. Một lúc lâu sau đó Hồng nói:
– Hồi ở nhà em được nghe bà ngoại em tụng Tâm Kinh Bát Nhã mỗi buổi tối. Em không hiểu lời kinh, nhưng mỗi lần nghe kinh là em thấy khỏe khoắn trong người. Chị mệt lắm, buồn lắm phải không? Chị im lặng để em đọc Tâm Kinh cho chị nghe nhé?
Rồi không đợi Đào trả lời, Hồng bắt đầu đọc Tâm Kinh Bát Nhã theo giọng của bà ngoại Hồng. Em đọc Tâm Kinh này luôn nhiều lần. Càng nghe Đào càng thấy nỗi đau của mình lắng xuống, êm dịu lại. Nước mắt vẫn chảy trên má cô, nhưng nước mắt bây giờ ngọt như nước cam lộ. Hồng chưa đọc xong hết “biến” thứ tư thì Đào đã thiếp đi. Cô ngủ cho đến sáng hôm sau khi nắng lên thì cô mới thức dậy.

*     *     *

Khi Đào thức dậy thì không thấy Hồng đâu cả. Nghĩ rằng Hồng thức dậy trước mình và đi chơi đâu đó lang thang trên đảo, Đào tới gần suối vốc nước rửa mặt. Cô lấy nước suối vã lên đầu tóc để rửa bớt chất mặn của nước biển. Rồi cô leo lên một tảng đá, nhìn quanh bốn phía. Nắng đã chiếu tràn lan trên mặt biển và hải đảo. Trời vẫn trong không một gợn mây. Chợt cô thấy xót xa trong ruột. Cô chạy về lấy một tấm bánh, cắn từng miếng nhỏ, nhai thật kỹ trước khi nuốt. Bánh thơm và có nhiều chất béo, rất là ngon miệng. Cô không dám ăn thêm, sợ thùng bánh mau hết. Cô vốc nước ngọt uống đầy bụng. Rồi cô mở bọc áo quần ướt ra quan sát. Trong bọc còn có một bộ bà ba màu tím, một cái áo montagut màu sữa đã cũ, một cái khăn tắm màu vàng khá lớn và một bộ đồ bà ba của trẻ em màu khói hương. “Bộ đồ này chắc Hồng mặc vừa”, cô nghĩ như vậy và đem các thứ nói trên tới bờ suối để giặt. Áo quần còn sạch, cô chỉ cần xả đi cho hết mùi nước biển mà thôi. Cô vắt tất cả cho ráo nước và đem phơi trên những tảng đá có nắng chiếu vào. Cô làm xong vc mà Hồng vẫn chưa về. Cô đưa hai tay chụm lên miệng và gọi lớn tên Hồng nhưng không nghe tiếng Hồng đáp lại. Tiếng của chính cô dội lại làm cô hơi lo sợ. Cô bèn yên lặng. Men theo bờ suối cô đi lên đảo, với hai bàn chân không. Cô chọn những chỗ có cỏ hoặc có tảng đá để bước cho đỡ đau chân.
Cây cối trên đảo toàn là cây dại. Để ý, cô trông thấy một cây ổi. Cô hái một lá, vò nát, để lên mũi ngửi. Đúng là mùi thơm của lá ổi. Cô mừng như gặp một người thân. Nhà ngoại cô ở Cần Thơ có một cây ổi. Hồi còn bé cô cứ hay trèo lên cây ổi đó để chơi và để hái ổi ăn. Ngoại cô cứ rầy tại sao con gái mà lại leo cây, cô không hiểu. Nhưng cô không nghe lời ngoại, cứ leo lên cây ổi đó hoài. Đứng trên một cành ổi mà nhún thì vui lắm. Nhành ổi rất dẻo, ít khi nào bị gãy. Thằng Văn, em cô có lần trèo lên cây bông sứ trước nhà bị té, bởi vì lần ấy cái cành sứ trên đó nó đứng nhún bị gãy. Cô biết cành sứ dễ gãy cho nên không trèo lên cây sứ. Vả lại cây sứ mọc ở sân trước, cô không muốn cho những người qua lại thấy cô trèo cây.
Trong thế giới lạ lùng này, cây ổi là một người quen. Cô lưu luyến đứng dưới gốc nó. Nhìn lên, cô chỉ thấy mấy trái ổi non. Nhưng cô rất muốn nếm, cô rất thèm hương vị của ổi. Cô nhìn quanh xem có ai không (lạ chưa, trên hoang đảo này có thể có ai mà phải nhìn) rồi nắm một cành ổi, nhún chân nhảy lên thân ổi. Cô không nhảy lên được, bởi vì sức cô đã quá yếu. Cô bèn bẻ một cành cây khô, khoèo nhánh ổi xuống. Một lúc sau, cô vít được cành ổi, kéo nó xuống thấp, và hái được trái ổi non. Cô lấy tay chùi vỏ ổi và đưa lên miệng cắn. Trái ổi non chát lắm, nhưng hương vị quen thuộc của nó làm cho cô sung sướng vô cùng. Mới xa cách quê hương có hai tuần lễ, mới xa cách loài người chưa được trọn một ngày tròn mà cô có cảm tưởng đã xa cuộc sống quen thuộc cũ có hàng trăm năm và cách biệt với loài người cách hàng ngàn thế giới.
Nhờ có cây ổi, Đào nhận thức được rằng mình đang đứng trên trái đất, giữa một hoang đảo trong vịnh Thái Lan. Cô nhìn ra trước mặt. Mặt trời ở phía trái của cô, đó là phương Đông, nơi cô đã ra đi. Bên phải cô là bến bờ Thái Lan và xa xa, về phía Tây Nam, là bờ biển Mã Lai, nơi chiếc ghe của Đạt đang trôi dạt tới. Cô tin lời bé Hồng như tin lời một người lớn. Cô bé thật là lạ. Mới từng đó tuổi mà phong độ giống hệt người lớn, nói năng như một người lớn. Càng nghĩ cô càng lấy làm lạ. Từ chiều hôm qua cho đến bây giờ nhiều thay đổi đã xảy tới trong tâm hồn cô và tất cả đều do con bé gây ra. Nếu không có nó chắc cô đã gieo mình xuống biển chiều hôm qua để chấm dứt cuộc đời mình. Một con bé mười tuổi, nhiều lắm là mười một, không thể nói lên những lời từng trải và thấm thía như Hồng đã nói hồi hôm với cô. “Chị đã gánh chịu một phần cái khổ đau cùng cực của đồng bào chị. Trong chúng ta, có ai mà không bị thương tích? Có ai mà bảo tồn toàn vẹn được thân thể và tâm hồn? Em thấy chị còn trong trắng và trinh bạch hoàn toàn. Bọn cướp biển bức bách chị, nhưng chúng không lấy được gì của chị hết… Vết thương của chị cũng như vết thương do một con cá mập gây ra…”.
Chính những lời nói đó đã khởi sự làm dịu bớt nỗi đau trong tâm hồn Đào. Biết bao nhiêu là sự khôn ngoan được chất chứa trong từng ấy câu nói. Ngồi trên ghế học đường bao nhiêu năm Đào đã học được gì để chuẩn bị đi vào đời? Một cô bé mười tuổi đã dạy cho Đào nhiều hơn mười năm đèn sách. Nhưng Hồng là ai? Tại sao Hồng không chịu trả lời những câu hỏi của Đào? Tại sao em lên được hoang đảo này với một thùng bánh và một bao quần áo? Tại sao em biết được ghe của Đào hiện đang theo gió tấp về phía Tây Nam? Tại sao một em bé gái mười tuổi mà lại bình thản và khôn khoan gấp mấy lần một thiếu nữ mười chín như Đào? Hay Hồng chỉ là một con ma? Nghĩ đến đó Đào thấy lạnh run, dù trời đã bắt đầu nắng gắt. Cô men theo lối cũ tìm về chỗ phơi áo để xem lại áo quần cô giặt sáng nay còn không, và thùng bánh cô ăn hôm qua và sáng nay có phải là bánh thật hay không, hoặc tất cả chỉ là giẻ rách và đất sét do ma biến hiện. Nhưng không, Hồng không thể là ma được. Bộ quần áo Đào đang mặc đây đúng là bộ áo quần của Hồng đưa từ tối hôm qua. Cô còn nhớ rất rõ là hôm qua khi tỉnh dậy trên bãi cát, cô không có một mảnh vải che thân. Mà kia rồi, những bộ áo quần cô giặt còn kia, đang được phơi trên các gộp đá. Mà thùng bánh cũng còn kia. Áo quần đã khô, cô đi thu góp và xếp lại thành một chồng. Hồng không thể là một bóng ma được. Nhưng Hồng đi đâu mà bây giờ chưa về? Cô lo ngại. Cô định trèo lên mỏm đá cao gần đấy để nhìn quanh thì bỗng nghe tiếng cười trong trẻo của Hồng từ phía bờ cát. Ngoảnh lại, cô thấy Hồng từ bờ cát đi lên, áo quần cô bé vẫn khô ráo không dính một giọt nước.
Tiếng cười trong trẻo của Hồng làm cho những sợ hãi của Đào tan biến trong chốc lát. Quả thật, đó là tiếng cười của trẻ con, sáng và dòn như thủy tinh. Vậy mà hồi nãy Đào đã nghĩ rằng Hồng là ma. Đào nói lớn, giọng hơi trách móc:
– Em đi đâu mà quá trưa mới chịu về như thế? Chị đi tìm em mãi mà không gặp.
Hồng đã tới bên Đào và chỉ cho Đào thấy những đám mây đen đang tụ họp phía chân trời Đông Nam:
– Sắp có cơn mưa giông rồi đó chị, ta đi kiếm chỗ trú ẩn đi thôi.
Hồng kéo Đào đi về phía những tảng đá lớn. Một lát sau, hai người tìm ra được một hốc đá khá rộng và khá kín đáo:
– Chị ngồi đây, để em trở lại mang thùng bánh và bọc quần áo, Hồng nói với Đào.
Đào nhặt những viên sỏi dưới đất và ngồi xuống, lưng cô dựa vào vách đá. Trời bỗng nhiên tối sầm lại. Gió thổi ào ào làm ngả nghiêng các thân cây phía trước. Những giọt mưa nặng bắt đầu rơi lộp bộp như có người ném đá. Một tia chớp sáng lòe xẹt ngang, tiếp theo là một tiếng sấm nổ lớn gần như ở phía trên đầu của Đào. Cô đang run rẩy thì Hồng vừa chạy tới, một tay ôm thùng bánh, một tay xách bọc áo quần. Cô đỡ những thứ đó trên tay Hồng, đặt xuống đất, ôm Hồng vào lòng và lấy tay vuốt phủi những giọt mưa trên tóc và trên áo Hồng. Cô bé để yên cho Đào săn sóc và âu yếm. Mưa trút ào ào nghe như tiếng thác đổ, nhưng chỗ hai người ngồi không hề bị ướt. Mặt biển lúc này chắc là đầy sóng gió. Hồng từ từ mở mắt và nói với Đào:
– Biển động như thế này thì có nhiều ghe tị nạn chìm lắm chị ạ.
Đào trầm ngâm. Trong trí tưởng tượng của cô, cô thấy hình ảnh những chiếc ghe trẻ em và phụ nữ đang bị sóng nhồi ngang ngửa trên mặt biển. Những cánh tay đưa chới với. Những tiếng kêu la kinh hoàng lạc trong mưa gió. Những thân hình chìm nghỉm dưới biển sâu. Và những đàn cá mập quanh quẩn chờ đợi, sẵn sàng lao tới. Trái tim cô như bị một bàn tay ác nghiệt nào bóp chặt. Lòng cô xao xuyến, cô tự hỏi không biết tại vì sao từ hơn nửa thế kỷ nay đồng bào của cô không ngày nào mà không chịu cảnh tai ương chết chóc. Cô nhìn Hồng thì thấy hai má em bé ướt đẫm nước mắt. Thì ra Hồng cũng đang lặng lẽ khóc. Nhìn Hồng khóc, cô bỗng thấy niềm đau của cô dịu đi, trái tim cô như được bàn tay ác nghiệt kia buông thả. Cô lấy vạt áo lau nước mắt cho Hồng. Hai người lặng yên không nói gì. Đào thầm ước cho mưa chóng tạnh, gió chóng yên. Nhưng mưa vẫn giăng mịt mùng đầy trời và gió vẫn ào ào bốn phía. Nằm trong tay cô, Hồng nhắm lại như ngủ. Hơi thở của em nhè nhẹ. Cô có cảm tưởng đang ôm tất cả những gì cô thương yêu trong lòng. Sự có mặt của Hồng trên đảo này thật là một điều nhiệm mầu, lạ lùng khôn tả.
Mưa cho tới gần bốn giờ chiều mới dứt. Mây quang, trời tạnh và mặt trời lại ló dạng. Hoang đảo có vẻ dịu mát. Đào và Hồng rủ nhau lên đứng trên một tảng đá lớn. Hai người phóng mắt về phía chân trời. Vẫn không thấy có bóng một ghe thuyền nào. Có lẽ nhiều chiếc đã chìm trong thời gian sóng gió.
Đào kéo Hồng ngồi xuống tảng đá và bảo Hồng kể chuyện Hồng cho Đào nghe. Hồng ngần ngại. Nhưng bỗng em cười rất tươi, và giao hẹn với Đào:
– Em sẽ kể chuyện cho chị nghe, nhưng hôm nay em chỉ kể một nửa thôi nhé. Còn một nửa chị phải đợi tới ngày mai. Chị có bằng lòng thì em mới kể.
Đào bằng lòng. Hồng ậm ừ một lát rồi mới bắt đầu nói.

*     *     *

Hồi đó Hồng còn bé lắm. Thế giới của Hồng chỉ rộng bằng đôi cánh tay của má Hồng. Nằm trong thế giới đó, em thấy ấm áp và yên lành. Hồng có biết đâu rằng hai cánh tay đó của bà đã chống đỡ cả một vũ trụ giông bão bên ngoài để bảo tồn được cái không khí an lành vô tư mà trong đó em được ấp ủ. Mãi tới gần đây, em mới thấy được một đôi chút cái thế giới của người. Ngày xưa tại Vĩnh Long, ba má Hồng có một nhà máy nước đá và một tiệm tạp hóa. Ông bà trông nom hai cơ sở đó và được người ăn người làm thương mến. Tại miền quê, gần sát nhà của bà ngoại Hồng, ba má Hồng còn gầy dựng được một vườn cây ăn trái, có hơn ba trăm gốc xoài, một trăm gốc nhãn và gần sáu chục gốc sầu riêng. Chiến tranh đã cướp mất ba Hồng và làm tan nát cửa hàng tạp hóa. Khi chính phủ lâm thời của Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam lên nắm chính quyền, má Hồng quyết định về quê. Bà đem nhà máy nước đá và tất cả vốn liếng tài sản làm ăn ở thị xã cống hiến cho nhà nước. Bà chỉ muốn giữ lại có vườn cây ăn trái ở quê ngoại Hồng. Về quê được một tháng thì má Hồng sinh cho Hồng một đứa em trai kháu khỉnh. Hồi ba Hồng bị lạc đạn chết ở thị xã Vĩnh Long thì bà mới có thai thằng nhỏ được hai tháng. Em của Hồng tên là Bích. Nó giống ba Hồng như tạc. Má Hồng và Hồng rất thương yêu Bích. Hồng đi học trường làng. Mỗi chiều, má Hồng ẵm Bích và dắt Hồng đi chơi giữa những cây xoài, cây nhãn. Kể ra vườn cây ăn trái của nhà Hồng rất đáng giá, ba mẹ con có thể sống sung túc nhờ tiền bán trái cây. Ba Hồng trước kia đều có ủng hộ tài chính cho Cách Mạng, trích trong tiền huê lợi thâu được của nhà máy nước đá và tiệm tạp hóa. Sau khi dâng hiến cho nhà nước các cơ sở này, má Hồng nghĩ rằng bà vẫn có thể tiếp tục ủng hộ cho nhà nước cách mạng mỗi năm bằng cách lấy bớt hai mươi phần trăm tiền bán trái cây trong vườn để hiến cho cách mạng. Trong một bữa cơm thịnh soạn mà bà bỏ công nấu để đãi người cán bộ xã quen thuộc, bà đã tỏ lộ thiện ý ấy. Người cán bộ công nhận thiện ý của bà, nhưng khuyên bà nên biến mấy mẫu đất trồng cây ăn trái thành ruộng lúa. Bà rất ngạc nhiên. Mười mấy năm trời với bao nhiêu công khó nhọc mới gầy dựng được sở vườn. Bây giờ đốn ngã hết bao nhiêu cây quý để mà làm ruộng, điều đó bà không thể tưởng tượng ra được. Nhưng người cán bộ nói rất chân thành. Anh bảo hiện giờ đất nước cần lúa gạo hơn là những thứ trái cây xa xỉ. Nếu bà không nghe lời thì tiền bán trái cây thu được mỗi năm sẽ không đủ để trả tiền thuế, lấy đâu ra mà mua gạo cho con ăn, đừng nói hiến hai mươi phần trăm cho nhà nước. Nếu bà trồng lúa thì thuế sẽ ít hơn nhiều. Đã quen với việc làm ăn, má Hồng cho việc đốn cây ăn trái để trồng lúa là việc điên rồ nên bà không chịu nghe theo. Nhưng người cán bộ đã nói đúng và nói thành thực. Sau khi nhà nước đến kiểm kê và nói cho bà biết tiền thuế của mỗi gốc xoài, gốc nhãn, gốc sầu riêng, bà mới ngã ngửa. Nhưng sức phản kháng lớn quá khiến bà không chịu đốn xoài, nhãn và sầu riêng để trồng lúa. Bà làm giấy hiến dâng sở vườn cho chính phủ rồi ôm thằng Bích và dắt con Hồng lên thị xã sống nhờ một người quen. Đây là một người bạn học cũ rất thân của má Hồng. Chồng bà đã đi học tập, bà ở nhà buôn bán qua ngày để nuôi ba đứa con. Bà đề nghị má Hồng nấu cháo vịt để bán, và chia một căn phòng trong nhà cho ba mẹ con Hồng. Được hai năm thì tiền vốn của má Hồng cạn. Bà cũng lâm vào cùng một tình trạng. Hai gia đình không có đàn ông ở chung một nhà. Hai bà mẹ tìm trăm phương ngàn kế mà không có cách nào nuôi nổi năm đứa trẻ. Họ bán dần tư trang, áo quần và tất cả những gì bán được. Có những đêm đói quá, ba mẹ con Hồng nằm ôm nhau trên bộ ván mục, cố sức ngủ để quên đói mà không thể nào ngủ được. Ngoại Hồng mất đã lâu rồi nên má Hồng cũng không còn rút lui được về miền quê.
Một hôm bác Bảy Nhiêu tới rủ ba mẹ con Hồng vượt biển. Vượt biển? Có ai quen bên phía trời kia mà vượt biển? Bác Bảy Nhiêu là người cùng làng, ngày xưa đã từng chịu ơn ba má Hồng. Hai người con trai của bác sắp bị đi lính sang Cam-pu-chia cho nên bác muốn chúng nó đi trốn. Bác nghe nhiều người vượt biển hiện giờ sống bình an và còn gửi tiền về giúp cho gia đình. Trong cơn túng quẫn bác muốn đem hai người con bác bỏ nước trốn đi. Bác có một chiếc ghe. Bác đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Bác cho hai gia đình khác cùng đi, mỗi gia đình phải góp tiền để đủ mua dầu, nhớt và thực phẩm cho mười ngày đi biển. Tất cả đều được chuẩn bị đầy đủ; còn ba chỗ ngồi trên ghe, bác muốn dành cho ba mẹ con Hồng. Má Hồng không nghĩ là mình đi tị nạn chính trị. Bà chỉ nghĩ rằng ở đất này mình sống không được thì mình đi đất khác. Nghe nói ra biển gặp tàu ngoại quốc thì mình được họ vớt lên và mang về xứ họ liền. Mẹ con bà đói quá, vậy bà phải đi. Cũng như hai cậu trai kia không muốn đi lính qua Cam-pu-chia thì cũng phải đi. Sau mấy ngày suy nghĩ, má Hồng quyết định đi theo bác Bảy. Ba mẹ con sắp đặt về quê theo bác. Hồng không có gì đem theo cả. Cái áo Hồng mặc trên người là cái áo đẹp nhất của em. Chiếc quần xa lanh trắng của em cũng đã mòn gấu. Và một đôi giầy cao su trên hai bàn chân nhỏ. Đoàn người chia làm hai nhóm đi suốt đêm trong rừng rậm. Trẻ con được cho uống thuốc ngủ để khỏi khóc. Quanh quẩn trốn tránh gần tới hai ngày hai đêm họ mới tới được chỗ giấu ghe. Ghe vừa mới đi ra đã thấy bóng dáng của bốn chiếc thuyền đánh cá quốc doanh, nên lại phải quay trở lại trốn tránh. Đêm sau ghe ra bình yên. Đến sáng thì tới hải phận quốc tế. Tưởng rằng tới đây là thoát, ai ngờ ra tới đây mới là bắt đầu đi vào cuộc mạo hiểm. Ghe chạy được một ngày thì hỏng máy. Bác Bảy loay hoay mãi mà không chữa được. Ghe bắt đầu dềnh dàng trôi nổi trên biển cả, không có cách gì điều khiển được. Ai nấy đều cầu nguyên cho một chiếc tàu ngoại quốc đi qua để mọi người được vớt lên. Nhưng suốt bốn năm ngày trôi dạt, ghe không gặp một chiếc tàu hay một chiếc ghe nào khác. Không ai biết được hiện giờ ghe đang trôi nổi ở vị trí nào trong vịnh Xiêm La.
Kể tới đây, Hồng nhìn Đào và hỏi:
– Ghe của chị có gặp tàu ngoại quốc nào không hả chị?
Đào gật đầu:
– Có, ghe của chị có gặp một tàu Nga, hai tàu Panama, một tàu Úc, một tàu Singapore và một tàu Hoa Kỳ. Thấy ghe chị, chiếc nào cũng làm lơ, đi thẳng. Chị không biết tại sao họ tàn nhẫn như thế. Má chị thường nói cứu một mạng người thì có phước nhiều lắm. Phước nhiều hay không thì chưa biết, nhưng chị chắc chắn là niềm vui khi cứu được một người lâm nạn phải là một niềm vui lớn. Những chiếc tàu kia coi mạng sống của đồng loại không bằng mạng sống của một con kiến. Thật là nhục nhã. Vậy mà chị cứ tưởng loài người là văn minh…
– Trước đây cũng có nhiều chiếc từng vớt người chị ạ. Nhưng một khi cứu người lên rồi thì không có bến nào chịu đón nhận người tị nạn, dù là tạm thời. Không có nước nào muốn chấp nhận người tị nạn. Các trại tị nạn ở Mã Lai, Nam Dương và Thái Lan mà có được là do sự can thiệp của Phủ Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc. Bất đắc dĩ các nước đó mới phải chấp nhận cho người tị nạn lên bờ. Họ âm thầm ra lệnh cho cảnh sát mỗi khi có ghe tị nạn tới thì đẩy lui ra hải phận quốc tế. Vì vậy có rất nhiều ghe tị nạn đi vòng lang thang ngoài biển và cuối cùng bị sóng gió nhận chìm.
Đào mở to hai mắt:
– Sao mà em biết được những chuyện đó, hả Hồng? Em đọc những điều đó ở sách báo nào thế?
Hai mắt cô bé đượm buồn:
– Em biết vì em biết, thế thôi chị ạ. Em không có đọc sách báo nào cả. Tân Gia Ba là một trong những xứ tàn nhẫn nhất. Có những ghe lén vào được bờ và người trên ghe nhận chìm thuyền để khỏi bị đuổi ra biển trở lại. Họ liền bị bắt nhốt và không ai biết họ bị giam ở nơi nào. Nếu nhà báo biết được, hoặc một tòa đại sứ nào hay được, hoặc có vị đại diện Liên Hiệp Quốc nghe tin, thì đó là một diễm phúc cho người bị bắt. Chính quyền Tân Gia Ba sẽ không thủ tiêu họ. Và dần dà họ cũng được một tòa đại sứ Tây Phương bảo lãnh để đem sang nước họ. Còn những người không ai biết đến thì có thể nằm mãi trong lao cho đến chết. Nhiều thuyền tị nạn ghé Mã Lai bị cảnh sát Mã bắn dọa để đuổi và có khi bắn thật vào thuyền làm thiệt mạng hoặc bị thương nhiều người. Số thuyền bị đuổi ra và chìm ngoài hải phận quốc tế không thể nào đếm được thưa chị. Có một lần em trông thấy hai chiếc ghe tị nạn ghé vào bờ Mã Lai, khoảng mười lăm cây số về phía Nam thành phố Mersing. Một chiếc chở sáu mươi hai người và một chiếc năm mươi bốn. Cả thảy là một trăm mười sáu người, trong số đó có hai phần ba là trẻ em. Tất cả đứng trên bãi cát, run rẩy xin vào tị nạn. Nhưng cảnh sát Mã Lai không có quyền cho phép. Họ buộc dân tị nạn leo lên thuyền để họ đuổi ra hải phận quốc tế. Mọi người than khóc, cầu khẩn nhưng vô hiệu. Có người nói rằng hai chiếc ghe đã bị hư hỏng, không thể nào ra biển lại được. Sau khi xem xét ghe, cảnh sát đi tìm thợ mộc trong một làng gần đấy để trám lại thuyền. Bốn giờ đồng hồ sau, mọi người bị đuổi lên ghe, trở ra hải phận quốc tế. Liền khi ghe mới ra khỏi vùng nước Mã Lai, sóng biển nhận chìm chiếc ghe chở sáu mươi hai người. Mọi người trên chiếc ghe thứ hai đều chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó. Thật chưa có cảnh thất vọng nào lớn lao hơn nữa. Người chỉ huy ghe thứ hai nhất định cho ghe cập bến trở lại dù bị tù hay bị bắn. Khi tới bến họ phá hủy chiếc ghe và ngồi lì trên bãi. Cảnh sát không biết phải làm gì hơn, mới đem họ vào tạm trú trong một cái nhà kho mục nát gần đó. Dân làng tự động đem tới cho họ cơm và thức ăn. Trẻ con và phụ nữ than khóc như ri. Đàn ông thì im lặng; người nào người nấy chỉ nhìn vào khoảng không, chẳng nói năng mà cũng không ăn uống. Trong số sáu mươi hai người của chiếc ghe bị chìm chỉ có hai người đàn ông sống sót. Họ đã bơi lội mấy tiếng đồng hồ và đã được một ghe đánh cá Mã Lai vớt. Nhưng khi lên bờ họ bị đem đi đâu biệt tích. Cảnh sát dọa năm mươi bốn người kia không được kể chuyện chiếc ghe chìm cho bất cứ ai, nếu không thì họ sẽ bị bỏ lên một chiếc ghe cũ và đuổi ra hải phận quốc tế trở lại. Số phận của hai người kia về sau không rõ. Có thể họ đã bị thủ tiêu để cho câu chuyện kia được giữ kín đối với báo chí quốc tế. Những cảnh thương tâm như vậy xảy ra luôn luôn chị ạ, không tuần lễ nào là không có.
Hồng nói tự nhiên như Hồng kể lại chính những chuyện mắt thấy tai nghe của mình, chứ không phải là lặp lại những điều đã nghe người khác nói. Nét mặt Hồng vừa trang nghiêm, vừa đượm buồn. Không biết tại vì đâu mà Đào lại tin chắc rằng những điều Hồng nói là có thực, dù cô rất ngạc nhiên không hiểu sao cô bé ngồi trước mặt lại có thể biết, có thể thấy và nghe được nhiều điều như thế. Nhưng cái ngạc nhiên của cô không lớn bằng nỗi khổ đau đang dâng lên trong tâm hồn cô. Cô đã tưởng rằng những khổ nhục mà cô chịu đựng vì máy hư, vì đói khát và vì bọn cướp biển là những khổ nhục cùng cực rồi. Bây giờ cô mới thấy thảm trạng của những đồng bào cô. Bao nhiêu người đã chết dưới biển sâu? Cô không dám nghĩ tới. Cô chỉ biết là nhiều lắm, nhiều lắm. Đất nước mình mà mình không được ở, đem thân tới nước người cho họ bắn giết xua đuổi, hãm hiếp, cướp bóc và cuối cùng cũng chết dưới biển sâu. Hai hàng nước mắt lại tuôn ra, cô gục đầu khóc trên vai Hồng. Nắng đã tắt, gió chiều đã chuyển lạnh. Hồng đứng dậy. Em đi lấy bánh và nước suối cho Đào.
Đêm đã khuya mà Đào còn trăn trở mãi. Cô nghĩ tới chiếc ghe của Đạt, không biết giờ này trôi dạt phương nào. Trên ghe không còn thực phẩm, không còn nước uống và mọi người đều đã kiệt lực. Dù ghé được tới bến Mã Lai đi nữa thì liệu những người trên ghe có được đưa vào một trại tị nạn hay không? Hay là cảnh sát lại kéo ghe ra để cho ghe chết chìm như những ghe khác? Đạt mà chết thì cô không còn thiết sống nữa. Hồng đã nói rằng mình không được ích kỷ nghĩ đến cái chết của mình. Mình phải sống cho mẹ và cho các em. Đào nói thầm: “Thưa mẹ, con sẽ sống, con sẽ sống vì mẹ và vì các em con.” Đào nằm khóc như mưa.
Nhưng Hồng đã tỉnh giấc trẻ thơ. Em nghe tiếng Đào khóc và nhỏm dậy, vỗ về Đào. Như đọc được niềm đau khổ của Đào, em nói:
– Đã có những ghe ghé vào đúng bờ của trại tị nạn và được chấp nhận. Chị đừng lo buồn quá. Anh Đạt và những người đồng hành tuy hết lương thực nhưng còn cầm cự được ít ra cũng là vài hôm nữa. Nếu gặp được một ghe đánh cá nhân từ thì thế nào ghe của anh cũng được đưa vào bến bờ an ổn.
– Nhưng ít khi mình được gặp may như thế lắm, em Hồng. Chị chỉ sợ…
– Chị đừng sợ; chị đã bị một tên hải tặc hất xuống biển rồi mà có sao đâu. Có nhiều chuyện kỳ lạ đã xảy ra. Mấy tháng trước đây có bảy người thanh niên, bốn trai ba gái, đi trên cùng một chiếc ghe nhỏ không có máy đẩy. Họ chỉ dùng chèo bơi tay mà cũng tới bến Thái Lan và được chấp nhận vào trại Songkhla. Có một gia đình hai con, một đứa bốn tuổi, một đứa hai tuổi, trốn đi trên một chiếc ghe nhỏ, chiều dài bảy thước, chiều ngang một thước sáu. Khi chưa ra khỏi vùng biển Rạch Giá thì ghe bị bắn theo và người chồng trúng đạn giữa ngực. Ghe của họ lấy hết tốc lực chạy ra khỏi tầm súng, nhưng người cha chết trên ghe hai ngày sau đó. Bà mẹ, với hai đứa con thơ, đã cầm cự một mình với biển cả suốt cả bảy ngày bảy đêm, và cuối cùng cũng tấp vào được bờ biển Thái Lan. Có nhiều chiếc ghe đang chìm thì có tàu hoặc ghe đánh cá đi ngang cứu kịp. Vũ trụ có đầy chuyện lạ lùng mà ta chưa từng thấy từng nghe, thưa chị. Thế giới của chúng mình quanh quẩn chỉ có gia đình, trường học, chợ búa, hàng quà, rạp xi nê và xã hội mua bán. Chúng ta tưởng rằng giác quan của chúng ta là những cửa sổ mở ra ngoài vũ trụ, và những điều chúng ta nghe thấy và sờ mó được chính là hình ảnh trung thực và toàn vẹn của vũ trụ bên ngoài. Khoa học đã hé cho ta thấy một ít sự thật về cái vũ trụ thực ngoài ta. Ánh sáng, âm thanh, và nhiệt độ mà tiếp nhận không phải đích thực là ánh sáng, âm thanh và nhiệt độ trong vũ trụ. Mắt ta chẳng hạn, chỉ tiếp nhận được những tia sáng mà ba trường chỉ là từ bốn trăm đến tăm trăm phần triệu của một ly. Nhưng trong vũ trụ còn có rất nhiều quang ba mà ba trường dài hơn hoặc ngắn hơn, vì vậy giác quan ta không tiếp nhận được. Nếu ba trường chỉ dài khoảng bốn trăm phần triệu của ly thì ta thấy màu tím. Nếu ba trường dài tới tám trăm phần triệu của ly thì ta lại thấy màu đỏ. Như vậy, màu đỏ và màu tím cũng như các màu khác, chỉ là chiều dài của những ba trường, và màu sắc tự chúng không có bản thể. Một bông hoa màu đỏ không phải là vì bông hoa ấy có màu đỏ mà vì khi tiếp nhận ánh sáng tự nhiên, bông hoa ấy thu hút tất cả những quang ba có ba trường ngắn và chỉ phản chiếu lại trong mắt ta những quang ba có ba trường dài. Chị học vật lý chắc chị biết những điều đó rồi. Em nhắc chị là để chị nhớ rằng những chuyện kỳ bí, lạ lùng trong vũ trụ không phải đi tìm đâu xa; nó ở ngay trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều khi mình phải nghi ngờ cái thấy và cái nghe của mình, bởi vì cái thấy và cái nghe của mình có thể sai lạc chị ạ. Chị có nhớ hồi chiều khi chị em mình nhìn cái mặt trời đỏ chói đang từ từ lặn xuống biển hay không? Lúc đó ta tưởng như là ta đang trông thấy mặt trời của hiện tại. Kỳ thực mặt trời mà ta trông thấy đó chỉ là một mặt trời của quá khứ, trong khi mặt trời hiện tại đã lặn xuống biển trước đó tám phút rồi. Ta có thể nói là ta chẳng bao giờ thấy được mặt trời của hiện tại, và ánh sáng sưởi ấm cho chúng ta hàng ngày là ánh sáng của một mặt trời quá khứ. Chị thấy không? Vì vậy cho nên ta phải tỉnh táo, đừng để cho những điều ta thấy, nghe và nghĩ che lấp cái vũ trụ mầu nhiệm bên ngoài. Ở Sài Gòn, có khi nào chị nghĩ tới rằng một ngày kia chị sẽ nằm ngủ gối đầu trên một cái rễ cây nơi chốn hoang đảo cách biệt này không? Có bao giờ chị nghĩ đến những cảnh tượng hãi hùng trên biển không? Vậy mà những điều đó đã xảy tới cho chị. Cũng may mà ngoài những cảnh tượng đau nát lòng kia vũ trụ còn dành cho ta những hiện tượng mầu nhiệm khác. Chị đừng lo lắng và sầu khổ quá mà mất đi phần sáng suốt của tâm não. Hãy giữ tâm hồn chị bình thản mà tiếp nhận những điều mầu nhiệm ấy. Thôi, đêm đã khuya, chị cần phải ngủ. Ngày mai em sẽ kể tiếp cho chị nghe chuyện của em như em đã hứa. Bây giờ để em đọc Tâm Kinh Bát Nhã cho chị nghe và em chúc chị yên giấc.
Hồng lại lấy giọng của bà ngoại mà đọc Tâm Kinh Bát Nhã: “Bồ Tát Quán Tự Tại đi sâu vào phép quán Bát Nhã, thấy được năm uẩn là không, vượt được tất cả mọi khổ đau ách nạn. Này người con của Xá Lợi, sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy…”. Lời kinh êm dịu như mưa rơi nhẹ trên cỏ cây hoa lá. Đào nằm yên để cho lời kinh tác động trên tim trên óc mình. Cô mơ thấy một dòng nước mắt chảy trong một cánh đồng có lấm tấm các bông hoa vàng, tím,…

*     *     *

Ngày thứ ba trên đảo vắng. Sáng thức dậy Đào lại thấy vắng Hồng. Cô bé này ưa đi chơi thật sớm, Đào suy nghĩ. Cô xuống suối vốc nước rửa mặt, lấy bộ áo bà ba màu tím ra thay, giặt bộ đồ cũ và đem phơi. Đợi mãi mà chưa thấy Hồng về, cô liền lấy hai chiếc bánh lạt ra ăn rồi vốc nước suối uống. Cô lại ngược dòng suối đi lên đảo, mong tìm gặp Hồng. Đi ngang qua cây ổi hôm trước, cô dừng lại, hái thêm một trái ổi non và đứng ăn dù trái ổi chát đắng khiến cô nhăn mặt. Chợt thấy mấy cây rau tàu bay mọc gần đấy, cô lại gần ngắt đọt định đem rửa để ăn sống cho đỡ xót ruột. Đi một lát nữa, cô lại tìm thấy mấy cây rau sam và rau dền. Cô hái mỗi thứ một nắm, rồi trở về nơi hốc đá. Hồng vẫn chưa về. Cô trèo lên tảng đá cao nhất và quan sát mặt biển. Biển bao la quá, cô không thấy bóng một chiếc ghe nào cả. Cô lấy làm lạ không biết Bưởi đi đâu mà sáng nào cũng biệt tích. Cô lại bắt tay lên miệng làm loa để gọi Hồng. Cô gọi đến hết hơi mà không thấy Hồng trả lời. Thất vọng, cô ngồi phịch trên tảng đá. Nhưng cô nhận thấy rằng cô không còn sợ tiếng vang của âm thanh cô vọng lại như ngày hôm qua.
Mặt trời lên tới đỉnh đầu mà Hồng đi chơi vẫn chưa về. Cô rất muốn đi tìm Hồng nhưng lại sợ lạc. Hồng đã lạc đường chăng? Không có lẽ. Cô bé này khôn ngoan hơn mình nhiều, nó không thể lạc đường trong hoang đảo. Đào nhớ lại những điều Hồng nói và càng lúc cái ngạc nhiên của cô càng trở nên to lớn. “Con bé sao mà thông minh một cách lạ lùng, mình nghĩ gì trong đầu nó cũng biết. Có khi nó nói chuyện như một ông thầy giảng bài. Có khi nó an ủi mình như một bà mẹ an ủi con. Hình như không có gì xảy ra trên mặt biển mà nó không biết. Nó kể chuyện như là nó có chứng kiến tất cả những điều nó nói.” Lạ hơn nữa là Đào thấy mình rất tin những điều nó nói. Nó nói Đạt còn sống thì Đào sẵn sàng tin ngay là Đạt còn sống. Mà Đào có phải là đứa con nít bạ ai nói gì cũng tin được cả đâu. Có lẽ Hồng là một đứa bé đặc biệt, một loại thần đồng, Đào nghĩ. “Lát nữa nó về mình sẽ hỏi nó học trường nào, và tại sao nó biết được nhiều chuyện như thế, kể cả những chuyện xảy ra ở bờ biển Mã Lai.”
Nhưng Đào đợi mãi mà vẫn không thấy Hồng. Vào khoảng hai giờ trưa hôm đó, mây đen lại kéo tới và trời nổi cơn giông. Mưa lớn không khác gì ngày hôm qua. Đào núp dưới hốc đá một mình, nghĩ đến Hồng giờ này ướt như chuột lột ở một nơi nào đó trên hoang đảo. Cô lo cho Hồng quá. Trời cứ mưa gió như thế cho đến khoảng xế chiều mới tạnh.
Khi trời đã ngả màu tím và cái lo sợ của Đào đã lên tới chỗ cùng cực thì Hồng về. Hồng từ dưới bãi cát đi lên, tóc và áo của em không dính một hạt mưa. Mừng quá, Đào la lên, chạy tới ôm chầm lấy Hồng. Hồng để cho Đào ôm như thế một lúc lâu rồi mới từ từ gỡ khỏi tay Đào, em nói:
– Có tin mừng chị ơi. Ghe anh Đạt đã được vào bờ.
– Sao, em nói sao? Ghe anh Đạt vào bờ hả? Đào hấp tấp hỏi. Không kịp nghĩ tại sao mà Hồng có thể biết được một cái tin như vậy.
– Ghe anh Đạt được một cái ghe đánh cá Mã Lai kéo vào gần cù lao Bidong. Bây giờ cả ghe đã được lên bờ và đã được chấp nhận vào trại tị nạn ở cù lao đó. Chị thấy không? Em đã nói là mình không nên mất hy vọng.
Đào rối rít:
– Thật hả em? Như vậy thì chị mừng quá. Chắc chị sống được rồi. Còn anh Đạt? Anh ấy có bị thương tích không? Vết thương có nguy hiểm đến tính mạng không?
Hồng lắc đầu:
– Anh Đạt không sao hết. Anh đã được một người bác sĩ cũng là dân tị nạn trong trại khám bệnh. Anh không bị nội thương. Người ta đã giã gừng lấy nước để bôi những vết bầm trên người của anh. Hiện anh chỉ khổ đau vì nghĩ rằng chị đã chết chìm dưới biển.
– Tội nghiệp cho anh Đạt ghê đi, Hồng. Làm sao mà ảnh biết rằng là chị còn sống ở đây, hả Hồng?
– Không có cách gì hết, thưa chị. Chỉ khi nào chị qua được ở bên kia thì chị mới có thể viết thư cho anh ấy mà thôi. Nhưng chị chưa qua được. Chúng ta còn phải chờ, mà không biết phải chờ bao lâu.
– Chị sợ chị chết trên đảo này và chẳng bao giờ gặp lại anh ấy nữa.
– Đó, chị lại để cho sự thất vọng xâm chiếm rồi. Mới nhận một tin vui lớn như thế sao chị lại có một cái nhìn bi đát như vậy?
– Chị tệ quá, chị xin lỗi em. Chị nghe lời em và hy vọng được rời khỏi đảo này sớm. Nhưng này em, làm sao mà em biết được tin đó? Em đi đâu từ sáng đến giờ khiến cho chị phải lo lắng cả ngày, đứng không yên mà ngồi cũng không yên?
Hồng lẳng lặng cầm tay Đào và đưa Đào lên ngồi trên một tảng đá. Em nói:
– Hôm qua em có hứa với chị là hôm nay em sẽ kể hết chuyện em cho chị nghe. Chuyện nào cũng có buồn vui. Mấy hôm nay chắc chị thắc mắc không hiểu tại sao em còn nhỏ mà biết nhiều chuyện kể cả những chuyện xảy ra bên bờ bên kia nữa. Chị lắng nghe em thì chị sẽ hiểu hết. Như hôm qua em đã thưa với chị, có những điều kỳ lạ mà chưa thấy, chưa hiểu, ta không nên cho là quái đản. Cũng như hôm qua em nói: cái bông hồng không phải tại nó hồng mà tại vì nó hút hết các tia sáng khác và chỉ phản chiếu những tia sáng có ba trường dài nhất mà mắt ta có thể thu nhận được. Em là bé Hồng của chị, năm nay em mười một tuổi. Nhưng em cũng là một con cá. Đó, chị lại giật mình rồi. Chị cười lên em xem nào? Được rồi, có thế em mới kể tiếp chuyện em cho chị nghe được.
Rồi Hồng tiếp tục câu chuyện hôm qua. Khi ghe của em ra tới hải phận quốc tế. Ghe chạy được một ngày rất ngon trớn. Nhưng tới ngày thứ hai thì ghe hỏng máy. Bác Bảy Nhiêu loay hoay mãi mà không chữa được. Ghe bềnh bồng trôi dạt từ đó. Trong bốn năm ngày liên tiếp, ghe không gặp một chiếc tàu nào hay một ghe chài lưới nào. Đến hôm thứ sau, biển động mạnh, mưa gió xối xả, chiếc ghe không điều khiển bị sóng đưa lên đưa xuống nhiều lần muốn lật. Mọi người trên ghe đồng ý quăng xuống biển tất cả hành lý, hy vọng ghe nhẹ sẽ không chìm. Họ đương đầu với sóng gió suốt ngày và suốt đêm, và may mắn là chiếc ghe đã không lật. Lúc tờ mờ sáng thì cơn bão chấm dứt. Mọi người đuối sức, không còn ai cử động được nữa. Ai cũng đói lả. Nước uống và thực phẩm đã bị liệng xuống biển từ ngày hôm qua rồi. Nắng lên, trong ghe nóng như một hầm lửa. Ai cũng khát đến khô cháy cổ mà không có nước uống. Khi đêm xuống thì trời lại lạnh. Cứ như thế mà ghe của Hồng trôi dạt ngày này sang ngày nọ. Em bé của Hồng, thằng Bích, lên cơn sốt. Không có thuốc men, không có nước uống. Bệnh tình của Bích càng lúc càng nặng. Ngày hôm sau nó chết. Má Hồng ôm xác nó trong tay, không chịu buông ra. Bà muốn khóc nhưng không còn nước mắt. Ghe của Hồng lại bị thủng lỗ, nước cứ ngấm vào; những người đàn ông thay nhau tát nước cho đến khi ai cũng mệt lả không còn cử động được. Một mình bác Bảy cầm chiếc lon tiếp tục múc nước đổ ra ngoài. Bác Bảy bảo Hồng đi tiểu thì giữ nước tiểu mà uống. Hình như những người khác cũng làm như vậy. Qua ngày hôm sau, bác Bảy bảo má Hồng phải làm lễ thủy táng Bích, bà không chịu. Nhưng xác Bích đã hôi lắm, nên chiều hôm đó bà đành nghe lời bác Bảy. Mọi người đọc Tâm Kinh Bát Nhã. Hồng cũng đọc Tâm Kinh Bát Nhã. Rồi bác Bảy xướng “Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật” cho mọi người niệm. Trong khi tiếng niệm Phật tiếp tục đều đều, bác Bảy nhè nhẹ gỡ tay má Hồng và ôm nâng thằng Bích trong hai tay bác. Bác cúi xuống hạ thằng Bích trên mặt nước và buông hai tay. Xác của Bích chìm nhanh xuống biển. Má của Hồng khóc thét lên. Bác Bảy và mọi người cất cao tiếng niệm Phật cho lấn át tiếng khóc của bà. Tiếng niệm Phật chấm dứt thì má Hồng ngã quỵ vào lòng thuyền. Chiều hôm đó, một chiếc ghe cướp biển trờ tới, mọi người ngẩng lên chưa kịp phản ứng thì một chiếc móc sắt đã được liệng vào ghe và ghe lập tức bị thuyền bọn cướp kéo sát lại gần. Tất cả có khoảng mười hai tên cướp biển. Chúng không có súng, chỉ cầm trong tay dao nhọn và xà beng, gậy gộc. Không ai dám kháng cự chúng mà cũng không ai còn sức lực để kháng cự. Chúng vơ vét được một ít vàng bạc và tư trang. Thấy ai mặc chiếc áo nào lành lặn là chúng bảo cởi ra đưa cho chúng. Một tên tới gần má của Hồng định kiểm soát xem bà có đeo dây chuyền giấu dưới áo không. Hồng đứng cách đó ba thước. Em la lên:
– Đừng động tới má tui.
Nhưng tên cướp biển không nghe lời em. Hắn nắm lấy áo của má Hồng để xé toạc ra mà tìm sợi dây chuyền. Hồng nhảy tới dùng hết sức bình sinh kéo chân tên cướp để cho nó mất thăng bằng ngã xuống. Nhưng em yếu quá. Hắn không ngã. Hắn đưa chân gạt một cái. Hồng lăn tõm xuống biển. Má của Hồng kêu thét lên như người điên dại.

*     *     *

Không biết vì sao, không biết vì phép lạ nào, hoặc có thể vì Hồng rơi xuống biển nhằm một giờ linh thiêng nào mà Hồng không ngộp thở. Hồng lội như một con cá quanh quẩn bên chiếc ghe bị cướp. Bọn cướp sau khi vơ vét hết mọi thứ trên ghe đã dùng thuyền của chúng va đập vào ghe khiến cho ghe phải vỡ nát và nước ùa vào. Những người trên ghe yếu quá không thể phản ứng được, chỉ biết hét lên để cho ghe từ từ chìm xuống biển trong khi bọn cướp giật máy chạy đi với tất cả tốc lực.
Hồng biếnt hành một con cá bề dài gần một thước, bề ngang chừng hai tấc rưỡi. Con cá không đủ trí tuệ và bình tĩnh nên không kịp nghĩ rằng mình có thể cứu được một trong những người lâm nạn bằng cách đỡ người ấy ngoi lên mặt nước. Khi ý định đó nẩy sinh thì nó cũng không tìm thấy mẹ. Ngoi lên và nhảy khỏi mặt nước để nhìn, nó cũng chỉ thấy có mặt biển trầm ngâm và ác độc. Nó quanh quẩn ngày đêm suốt một tuần lễ tại vị trí của chiếc ghe chìm. Nhưng vẫn không có tăm hơi mẹ nó. Mẹ nó bị cá mập ăn thịt rồi chăng? Hay là mẹ nó cũng biến thành một con cá như nó? Nếu mẹ nó thành cá tại sao không lội đi tìm nó? Mẹ tìm con và con tìm mẹ, thế nào cũng có ngày gặp nhau. Hồng quyết đi khắp vịnh Thái Lan để tìm mẹ. Ngày nào nó cũng bơi lội đi khắp nơi, và đến những đêm trăng tròn nó lại trở về vị trí xưa, nơi chiếc ghe của mẹ nó bị chìm, hy vọng gặp lại mẹ. Hơn một năm trời trôi qua, ngày nào Hồng cũng đi tìm mẹ. Vì lội khắp vịnh Thái Lan cho nên nó gặp rất nhiều ghe thuyền của dân tị nạn. Đã khôn rồi cho nên mỗi khi có ghe chìm, nó cố gắng cứu cho được một người. Thường thường người được nó cứu là một đứa trẻ. Nó đưa lưng và đỡ nạn nhân lên để cho người này thở. Và nó tìm cách đưa nạn nhân giạt vào một bãi cát. Nếu ghe tị nạn bị chìm không xa bờ biển quá thì công việc cứu trợ của nó không đến nỗi nặng nhọc khó khăn. Nhưng nếu ghe chìm giữa biển bao la thì có thể nó thất bại. Vì vậy nó thường quanh quẩn ở những vùng dọc theo bờ biển Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương để có thể có cơ hội cứu người dễ dàng hơn. Có lần nó bơi trước ghe của dân tị nạn để chỉ đường cho ghe khỏi va vào đá ngầm hoặc đi đúng vào những bến bờ không có cảnh sát. Có những người tị nạn nhận ra nó là một con cá linh nên cho ghe chạy theo nó. Có những người thấy nó thì nghĩ tới chuyện lấy lao đâm vào nó để đem lên ghe nấu ăn cho đỡ đói. Thấy người ta đem lao ra Hồng phải lặn sâu xuống biển và ghe tị nạn đó mất một kẻ hướng đạo khôn ngoan. Tuy vậy nó không hề giận những người có mưu toan giết nó. Họ đói quá cho nên họ làm như vậy.
Vào một đêm trăng tròn tháng tư, nó cứu được một cậu bé mười bốn tuổi và đẩy cậu vào một bãi cát gần thị trấn Kota Baru. Sợ đến khuya nước lại dâng lên kéo cậu bé trở về biển, nó nhoài người lên cát đẩy cậu bé trở về biển, nó nhoài người lên cát đẩy cậu bé lên cao. Nhưng lạ thay, khi nó leo lên cạn thì nó lấy lại hình người, trong chiếc áo hồng, cái quần sa tanh trắng mòn gấu và đôi giày cao su quen thuộc. Nó mừng quá. Nó nhảy múa trên bãi cát dưới ánh trăng rằm tháng tư. Đêm đó là đêm Phật đản. Nó thử kêu “má ơi!”, và nó kêu được “má ơi!”, đúng là tiếng người. Nó thử kêu “Bích ơi!” và nó kêu được “Bích ơi!”. Nó thử đọc Tâm Kinh Bát Nhã theo giọng bà ngoại nó và nó đã đọc được. Nó biết tuy nó là một con cá nhưng nó cũng còn là một em bé. Nó rơi xuống biển năm ngoái, lúc nó mười tuổi, bây giờ nó là một cô bé mười một tuổi.
Hồng ôm xốc cậu bé lớn hơn mình tới ba tuổi và mang đặt lên phía bờ cao, nơi nước biển không lên tới được. Nó biết nó đang đi trên bờ biển Mã Lai. Nó biết là nó đã sang được bờ bên kia mà không cần đến ghe thuyền. Nó có thể ở lại bờ bên kia. Nhưng mà nó không muốn. Nó muốn trở ề biển để tìm mẹ, để dắt lối cho ghe tị nạn, để cứu ít nhất là một em bé mỗi khi có ghe chìm. Cậu bé thiêm thiếp bất tỉnh, nhưng ngực cậu phập phồng. Biết chắc là cậu còn thở, Hồng cúi xuống đặt nhẹ một nụ hôn trên trán cậu và chạy về phía biển. Em nhảy xuống nước và biến trở lại thành con cá vảy hồng, lấp loáng trong trăng nước.
Từ đó thỉnh thoảng Hồng lại lên bờ, khi thì ở Mã Lai, khi thì ở Thái Lan, khi thì ở Nam Dương, hoặc để đưa người được cứu lên bãi hoặc để trà trộn trong đám người tị nạn mà dò hỏi sự tình. Ai cũng tưởng Hồng là con gái của một gia đình tị nạn đang được tạm cư tại đó trong khi chờ đợi được đi định cư ở một nước thứ ba. Tuy nhiên, Hồng chỉ ở trà trộn với dân tị nạn một buổi sáng hoặc một buổi chiều là nhiều. Thời gian còn lại Hồng phải đi cứu người dưới biển.
Hồng chỉ ăn toàn rong biển, nhưng em rất mạnh. Em bơi suốt ngày không mỏi và có thể đỡ một người trên lưng mà lội xa độ mười lăm hải lý. Hôm bọn cướp biển tới quấy phá chiếc ghe của Đào, Hồng được chứng kiến cảnh tượng kinh khiếp trên ghe. Đó là một nơi chỉ cách chỗ ghe của má Hồng bị chìm chưa đầy hai dặm. Khi Đào bị hất xuống biển Hồng vội đưa lưng đỡ ngay lấy Đào và đưa Đào tấp vào một cù lao không tên gần đó. Cù lao này chỉ cách cù lao Quái khoảng hai mươi dặm. Đưa Đào lên bờ cát xong, Hồng lội trở ra thì thấy ghe hải tặc đã đi rồi và gió Đông Bắc đang chiếc ghe của Đạt về hướng Trengganu. Hồng nghĩ, nếu may mắn thì trong hai ngày hai đêm ghe của Đạt sẽ trôi tới vùng có nhiều ghe đánh cá của những ngư thôn miền bắc Kuala Trengganu, và sẽ được một trong những ghe này kéo vào bờ biển Nam Thái, như Pattani, Songkhla hay Bắc mã như Kota Baru hay Trengganu. Sáng hôm sau, Hồng gặp một chiếc ghe hư máy trên đó có tám mươi bốn người tị nạn, hết lương thực và nước uống. Hồng theo bảo vệ ghe này và chứng kiến cảnh chiếc tàu Đan Mạch đi quanh ghe ba lần nhưng không chịu vớt người trên ghe mà chỉ thả xuống hai thùng nước uống và mười thùng bánh khô. Hồng đỡ một trong ba thùng rớt xuống biển đem về để trên bờ cát nơi Đào còn thiêm thiếp và trở lại biển. Hồng lội suốt ngày ấy nhưng không cứu thêm được ai. Chiều hôm đó em chỉ mang được về đảo một bọc áo quần mà em thấy nổi lềnh bềnh bên cạnh ván thuyền của một chiếc ghe tị nạn nào đã vỡ chìm vì sóng đánh. Em về tới đảo thì thấy Đào còn ngủ thiếp mê mệt. Em mở bọc áo quần, vắt cho khô một bộ rồi treo trên một cành cây cho khô. Trăng vừa lên. Dưới ánh sáng sáng tỏ, em ngồi bên cạnh Đào. Em vừa đặt tay lên trán Đào để xem Đào có bị sốt không thì Đào tỉnh dậy…
Đào bóp chặt cánh tay trái của Hồng trong hai bàn tay cô để kiểm soát lại xem cô bé trước mặt Đào có đúng là một cô bé bằng xương bằng thịt không. Hai mắt Hồng long lanh nhìn Đào vừa ngây thơ vừa hơi có vẻ cười cợt. Đào ôm chầm lấy Hồng và nói:
– Mầu nhiệm quá! Mầu nhiệm quá!
Sự thật trước mắt Đào thật khó tin, nhưng có không thể không tin, vì đó là đúng sự thật. Có lẽ sự thật đó mầu nhiệm quá cho nên có vẻ khó tin. Như đoán hiểu được ý Đào, Hồng vừa cười vừa nói:
– Giả sử mai mốt chị qua được tới bờ bên kia và gặp lại anh Đạt thì chị có cho đó là một điều mầu nhiệm không? Và chị có tin đó là một sự thật hay không?
Đào như người tỉnh mộng. Bé Hồng vừa mở cho cô thấy một thế giới mầu nhiệm mới lạ. Bây giờ nếu được gặp lại Đạt, được cầm lấy tay Đạt thì đối với cô đó là một điều mầu nhiệm lạ lùng, và cô cũng khó tin đó là sự thật. Có lẽ khi gặp Đạt, cô cũng sẽ ôm chầm lấy anh và kêu lên “Mầu nhiệm quá! Mầu nhiệm quá!” giống hệt như cô vừa ôm lấy Hồng, vừa kêu lên những tiếng đó. Mới hôm qua đây, cô gặp được một cây ổi trên hoang đảo và cô cũng thấy đó là một điều mầu nhiệm. Tất cả những điều mầu nhiệm đều có vẻ không phải là sự thực, nhưng chính những điều đó đã khiến cho cô thấy thế giới hiện hữu một cách hiện thực hơn. Hôm qua, nhìn cây ổi, cô thấy hòn đảo hoang trở thành rất thực và cô nhận thấy ngay được vị trí của cô trong thời gian và không gian quen thuộc. Hồng vừa mở mắt cho cô. Đào đã từng được Đạt ôm vào trong hai cánh tay chàng, đã từng ngồi với chàng giờ này sang giờ khác, nhưng chưa bao giờ Đào nhìn Đạt như một sự thực mầu nhiệm. Đào đã tưởng rằng mọi hiện tượng trên đời như mặt trời, đám mây, cây ổi, mẹ cô, em cô, cũng như Đạt, đều là những hiện tượng tất nhiên phải có, đã có, đang có. Cô chưa từng thấy những thứ mầu nhiệm. Bây giờ đây, cô mới nhận ra rằng không có hiện tượng nào trên đời này là tầm thường và tất nhiên hết: tất cả đều là mầu nhiệm, là quý hóa, là khó tin rằng có thực. Cũng như cô bé áo Hồng đang ngồi trước mặt cô đây.
Đào hỏi Hồng về chiếc ghe của Đạt. Hồng kể cho Đào nghe là hôm kia em đã lội theo chiếc ghe đó cho tới khi ghe được một ngư thuyền Mã Lai kéo vào gần cù la Bidong ở ngoài khơi thị xã Kuala Trengganu. Hồng đã lên đảo, đã chứng kiến cảnh Đạt và những người trên ghe được đưa lên trại tị nạn và do đó biết được đích xác tin tức về sức khỏe của Đạt. Hồng kể cho Đào nghe một vạn chuyện thương tâm mà Hồng đã chứng kiến dưới đáy biển. Hồng kể lại cho Đào nghe công việc hàng ngày của Hồng. Hồng cho Đào biết rằng thỉnh thoảng Hồng có thấy những ghe tị nạn đi theo con đường từ cù lao Quái đến cù lao Chàng. Hồng tin tưởng rằng thế nào cũng sẽ có chiếc ghe đi qua hòn đảo hoang này và Đào có thể xin quá giang để đi qua bờ bên kia với họ. Trước khi đi ngủ, Hồng lại hứa là sáng sớm mai, Hồng sẽ thức Đào dậy sớm để Đào có thể chứng kiến được cảnh Hồng đi xuống nước.

*     *     *

Suốt cả một buổi sáng hôm đó, Đào ngồi nhìn mặt biển phẳng lì với một tâm trạng vừa buồn vừa thương. Mặt biển đó đã từng khép lại trên bao nhiêu đồng bào xấu số của Đào, trong số đó có mẹ Hồng và em trai của Hồng. Cũng dưới mặt biển đó hiện giờ một con cá đầy tình thương đang một thân một mình lặn lội. Hồng nói sáng nào Hồng cũng phải đi làm việc thật sớm, ngay khi mặt trời chưa rời mặt biển. Tội nghiệp cho Hồng, mà cũng mừng cho Hồng. Tội nghiệp vì nghĩ đến Hồng chắc không bao giờ tìm lại được mẹ và em. Mừng cho Hồng là vì mới có mười một tuổi đầu Hồng đã làm được bao nhiêu điều lợi ích cho người đồng loại. Nghĩ tới đó Đào thấy hổ thẹn. Đào tự nguyện với lòng là một khi sang đến bờ bên kia, Đào sẽ gắng hết sức để lo lắng cho những người thiếu phước hơn mình. Theo Hồng thì còn nhiều khổ cực chờ đợi Đào trong trại tị nạn phía bên kia bờ. Nhưng Đào không sợ hãi nữa. Sự có mặt của Hồng trong biển Nam Hải là một nguồn an ủi lớn cho Đào. Đào sẽ phấn đấu, Đào sẽ cố gắng để khỏi hổ thẹn với Hồng. Sáng nay lúc còn tinh sương, Đào đã thấy Hồng xuống biển. Sau khi hẹn với Đào chiều nay sẽ gặp lại, Hồng đã thản nhiên đi xuống biển cho đến khi nước dâng tới ngực. Thế rồi Hồng đưa hai tay ra phía trước, cúi đầu thấp xuống và nhoài mình ra biển. Đào chỉ thoáng thấy bóng một con cá hồng quảy đuôi làm tung tóe bọt sóng phía sau lưng nó. Hồng đã đi. Hồng đi tới tối mịt Hồng mới về. Cả ngày Đào ngồi ngoài bãi cát bởi vì Đào biết Hồng đang ở biển. Khi bầu trời đã nhấp nháy ánh sao Đào mới nghe tiếng Hồng. Dưới ánh sao, Đào thấy dáng Hồng bước nhẹ trên bãi cát đi về phía Đào. Đào mừng rỡ đứng dậy đón Hồng. Hồng im lặng nắm tay Đào đi lên đảo. Đào chạy đi lấy bánh lạt cho Hồng ăn và vốc nước suối cho Hồng uống, nhưng Hồng không ăn bánh và chỉ uống hết vốc nước. Hồng kể cho Đào nghe những gì Hồng đã thấy trong ngày hôm nay. Hồng kể chuyện có một chiếc ghe tị nạn bị chìm ở Narathiwat, cách bờ biển gần một trăm thước, mà trong số ba trăm chín mươi bảy người đó, có tới chín mươi chín người bị chết chìm dưới biển. Khi h tới đó thì ghe đã chìm rồi và Hồng không có cơ hội cứu được một người nào cả. Hồng thấy những mảnh ván nổi lềnh bềnh trên mặt biển và ký hiệu LA1945 của chiếc ghe. Chiếc ghe này vừa thoát ra khỏi hải phận Việt Nam thì bị biển động. Ghe nghiêng ngả trong năm ngày năm đêm trên biển cả. Đêm thứ sáu biển động rất mạnh. Sóng đánh văng chiếc cầu tiêu phía sau ghe và gây thành một lỗ thủng thật lớn khiến cho nước chảy ào ạt vào ghe. Ai cũng tưởng là chết nhưng nhờ nhanh tay và cầm cự giỏi mà những người trai trẻ trên ghe đã giữ cho ghe không chìm. Họ tranh đấu suốt đêm hôm ấy và cả suốt một ngày mai nữa. Cuối cùng vào sáu giờ chiều, ghe của họ thấy được bờ biển Thái Lan và tiến dần vào. Trời đã tối, nhưng những đợt sóng lớn ụp tới làm cho ghe nghiêng hẳn đi và nước tràn vào các cửa sổ ghe. Ghe nghiêng qua nghiêng lại muốn chìm. Nhiều người hoảng hốt nhảy xuống biển. Ghe chìm thật sự. Đèn của ghe đã bị vỡ, không ai trông thấy ai, người nào cũng chỉ cố lội lên bờ để khỏi bị chết chìm. Chín mươi chín người đã mất mạng. Sáng hôm đó tiếng khóc vợ khóc chồng, mẹ khóc con, anh khóc em vang dậy cả bãi cát. Tất cả tiền bạc hành lý đều bị dân địa phương xuống lấy sạch. Cuối cùng cảnh sát Thái đã đưa họ lên xe về trại tị nạn Songkhla. Hồng kể cho Đào nghe về một chiếc ghe tị nạn cập bến Patthani. Chiếc ghe này chỉ chở có ba mươi người. Ghe ra đi từ Cà Mau. Trong hai ngày hai đêm, ghe đi bình yên vô sự. Ngày thứ ba ghe tới được gần hải phận thái Lan, cách cù lao Cụt khoảng hai mươi dặm. Nơi đây ghe gặp một ghe cướp Thái giả dạng đánh cá. Bọn cướp biển vơ vét hết tiền bạc áo quần. Tất cả bảy phụ nữ trên ghe đều bị chúng hãm hiếp; mỗi người bị hiếp tới hai lần. Sau khi chúng đi, ghe vẫn chưa tìm được cách vào bờ. Chiều hôm sau chiếc ghe cướp trở lại; chúng lục soát thêm để vơ vét và hãm hiếp các phụ nữ một lần nữa. Sau lần bị cưới thứ hai, ghe đã tìm cách đổ bộ nhiều lần nhưng lần nào cũng bị cảnh sát đẩy lui ra biển. Hai ngày sau, ghe gặp một lần ba chiếc ghe hải tặc đón đường. Chúng leo lên ghe lục soát. Thấy không còn gì để cướp bóc nữa, chúng giận dữ rút súng bắn chết hai người đàn ông và liệng xác xuống biển. Chúng còn ôm ba người khác liệng xuống biển cho cá mập ăn. Trong ba người này chỉ có một thanh niên thoát khỏi hàm răng cá mập. Anh ta cố bơi ra xa, bám và núp sau một chiếc thùng nhựa mà người trên ghe đã thảy xuống. Bọn hải tặc cho ghe của chúng ép lại để làm bể Bưởi Em ghe tị nạn. Ba bốn trẻ em trên ghe hoảng sợ, ôm thùng nhựa nhảy ùm xuống biển. Be ghe đã vỡ. Bọn cướp bỏ đi, chắc mẩm thế nào ghe cũng sẽ chìm.
Nhưng ghe không chìm. Trẻ em được người lớn vớt lên ghe trở lại, và ghe trôi nổi trên biển thêm ba đêm ba ngày liên tiếp. Trong thời gian này ghe lại bị thêm hai lần cướp nữa. Đây là những toán cướp khác. Chúng cũng lục soát và hãm hiếp, tuy nhiên chúng không bắn giết như toán vừa qua. Cuối cùng, vào sáng hôm nay, ghe được phép lên bờ và được cảnh sát cho đến trại Songkhla. Người phụ nữ trẻ nhất trên ghe là một cô gái mười sáu tuổi. Cô đã bị bọn cướp hãm hiếp tất cả là mười hai lần. Hiện giờ cô như người điên dại.
Nghe Hồng kể, Đào khóc ngất. Biết bao thảm kịch như thế xảy ra trong một ngày? Hai vai rung lên, cô kềm chế không được nữa những cảm xúc đang trào dâng trong cô. Sao loài người lại có thể độc ác với nhau như thế, cô không thể nào hiểu nữa. Có lẽ sắp đến ngày tận thế rồi chăng? Cô khóc rất lâu, mãi cho đến khi cô ngẩng đầu lên thì trăng đã sáng tỏ, và cô thấy Hồng ngồi yên lặng dưới trăng như một pho tượng đồng. Hồng hỏi nhỏ:
– Em đã để yên cho chị khóc, để chị vơi bớt nỗi khổ. Bây giờ thì chị đi xuống suối rửa mặt cho mát. Chúng mình sẽ đọc Tâm Kinh trước khi đi ngủ. Đêm đã khuya rồi. Ngày mai em lại phải đi sớm.

 

*     *     *

Ngày thứ năm trên đảo vắng. Đào biết trước là đến tối mịt Hồng mới về cho nên cô không có ý đợi Hồng. Cô chỉ ra biển ngóng nhìn xem có chiếc ghe nào đi ngang qua gần đảo không để cô làm dấu hiệu đón họ. Theo lời căn dặn của Hồng, cô đã buộc một cái áo vào đầu một cành cây để sẵn ở bãi; hễ khi nào có ghe là cô xuống bãi cầm cành cây phất qua phất lại để làm hiệu đón ghe. Nhưng suốt ngày hôm đó cho đến khi Hồng về Đào không thấy tăm dạng một chiếc ghe nào cả.
Hồng thuật chuyện hôm nay Hồng gặp nhiều ghe tị nạn đi quanh quẩn trong vịnh, vì ghé đến bến bờ nào họ cũng bị cảnh sát bắn dọa để đuổi hoặc dùng thuyền cảnh sát kéo các ghe họ trở ra hải phận quốc tế. Hồng gặp một chiếc ghe hư máy, trên ghe có năm mươi người đang trôi vô định ngoài khơi Patthani, trên ghe không còn nước uống và thực phẩm. Tất cả mọi người trên ghe đều đã chết, trừ một người đàn ông còn thoi thóp sống. Hồng lại thấy một ghe đánh cá Thái Lan đang kéo giúp một ghe tị nạn về phía Bắc Songkhla. Những người đánh cá trên ghe không muốn cảnh sát bắt gặp mình đang giúp ghe tị nạn cho nên chưa tới bờ đã cắt đứt sợi dây buộc thuyền và quay trở ra biển. Ghe tị nạn còn đang tìm cách tiến gần bờ thì một ghe cướp đi tới. Bọn cướp này chỉ lục soát lấy hết tư trang, tiền bạc và những áo quần còn tốt rồi bỏ đi, không động tới phụ nữ. Chiếc ghe này cuối cùng đã được vào bờ và những người trên ghe được chở vào trại tị nạn Songkhla.
Hồng lại mỉm cười thuật cho Đào nghe về một chiếc ghe kỳ lạ mà em đã gặp khá nhiều lần trên vịnh Xiêm La. Đó là một chiếc ghe đánh cá Thái Lan dài khoảng hai mươi hai thước và rộng khoảng năm thước hai, mang tên là Shantisuk. Trên ghe này có đủ dụng cụ đánh cá, có cả súng để bắn cá lớn nữa, nhưng Hồng chưa thấy người trên ghe đánh cá bao giờ. Trên ghe, Hồng thấy có tám người, trong số đó có một phụ nữ. Hồng đã từng thấy ghe đánh cá này tiếp cứu những ghe tị nạn bằng cách tiếp tế thức ăn, nước uống, dầu chạy máy và những bản đồ chỉ đường để ghe tị nạn có thể tránh đá ngầm và đi đúng vào những bến có trại tị nạn. Có một lần Hồng theo chiếc ghe ấy về tận bến Patthani. Ghe đậu chung với các ghe đánh cá khác không có vẻ gì là một chiếc ghe đặc biệt. Hồng khen thầm hành trạng của chiếc ghe kỳ lạ đó và càng để ý theo dõi. Tuy họ chỉ có tám người nhưng những người trên ghe lại nói chuyện với nhau bằng bốn thứ tiếng: tiếng Thái, tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Việt. Sở dĩ họ phải làm như vậy là vì trên ghe có ba người quốc tịch Thái và năm người quốc tịch Pháp, trong đó bốn người có gốc Việt. Bốn người này nói được cả tiếng Việt trong khi người Pháp thuần túy chỉ nói được tiếng Pháp. Tiếng Anh của chàng ta rất trọ trẹ. Ba người Thái đều nói được tiếng Anh nhưng không biết tiếng Việt và tiếng Pháp. Chiếc ghe của họ nếu lấy hết tốc lực thì có thể chạy được hai mươi gút, nhưng người thuyền trưởng chỉ cho ghe chạy với tốc độ mười gút mà thôi. Trên ghe có một chiếc ca nô bằng cao su bơm phồng mà thỉnh thoảng họ cho xuống nước để liên lạc nhanh với những chiếc ghe tị nạn. Chiếc ca nô này màu xám, rất nhẹ và chạy nhanh như một mũi tên. Hồng thường nghe tiếng cười nói và đàn hát trên ghe, tuy nhiên lúc nào cũng có một người đặc trách mang ống viễn kính nhìn ra bốn phía để tìm ghe tị nạn. Có lần chiếc ghe bị hỏng máy trên biển khiến cho anh thợ máy và thuyền trưởng loay hoay chữa mãi. Thuyền trưởng là một anh chàng dong dỏng cao tên Luc, Pháp gốc Việt, ăn ngủ rất ít mà làm việc tận tụy không ai bằng. Mọi người trên ghe hình như ăn chay. Có một buổi sáng Hồng thấy cô gái gốc Việt trên ghe nhặt những con cá bay vướng trên sàn ghe thả lại xuống biển. Những con cá này trong đêm đã bay nhầm lên sàn tàu. Có lần Hồng thấy cô gái trên thuyền đem cá sống mua được của một chiếc xuồng bé gần bờ mà thả xuống nước để chúng trở về với biển. Cô lại còn nói chuyện với những con cá này. Hồng rất cảm động và có cảm tình đặc biệt với cô gái này. Hồng lội sát chiếc ghe và ngoi lên gần mặt nước để nghe những người trên ghe nói chuyện, vì vậy đã nhiều lần bị cô gái bắt gặp và gọi những người khác đến xem. Biết họ là những người vô hại, Hồng thản nhiên lội theo ghe. Nhờ nghe chuyện họ nói mà Hồng hiểu tại sao công việc cứu trợ của họ phải làm trong vòng bí mật. Các nước Thái, Tân Gia Ba, Mã và Nam Dương không muốn nhận dân tị nạn cho nên rất ghét những chương trình cứu trợ người trên biển. Họ nghĩ, thà để cho dân tị nạn chết trên biển còn hơn là để nước họ bị lôi thôi về kinh tế và chính trị. Để có thể cứu người, chiếc Shantisuk đã phải cải trang làm ghe đánh cá. Những người có quốc tịch Thái trên ghe là những người không đồng ý với chính sách nhẫn tâm của chính phủ họ đối với dân tị nạn. Trong số ba người Thái ấy có một người là tu sĩ trẻ giả dạng ngư dân. Tất cả tám người trong họ đều là đệ tử của một vị đạo sĩ hiện đang tĩnh cư nơi một am mây trên đỉnh núi Doi Suthep, miền Bắc Thái Lan. Không có người Việt thuần túy nào được tham dự chương trình này vì lẽ giấy tờ của họ không cho phép họ vào một nước nào trong số bốn nước Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba và Nam Dương cả. Anh chàng Pháp thuần túy tên là Jean Paul, ngày xưa là một thủy thủ lành nghề miền Bretagne nước Pháp. Anh cũng biết ngồi thiền như bà ngoại của Hồng. Có lần Hồng thấy dáng anh ngồi kiết già trước mũi ghe. Hồng biết trên ghe có rất nhiều thực phẩm khô, nhất là mì gói, và biết Jean Paul thích ăn mì gói, ăn ngon lành như người Việt ăn bún chả. Chiếc Shantisuk đã bị cướp một lần trên hải phận Thái mặc dầu ghe đã giả dạng làm ghe đánh cá. Bọn cướp đã đến bằng một chiếc ghe có máy ra đa. Ghe của chúng chạy nhanh vô cùng bởi vì máy của ghe là một cái máy mạnh tới 800 mã lực. Chúng uy hiếp những người trên chiếc Shantisuk bằng súng. Chúng lấy hết tiền bạc và thực phẩm. Chúng không hỏi nữ trang và vàng bạc vì chúng biết đây không phải là ghe tị nạn. May cho những người trên ghe là chúng không đánh đập và hãm hiếp ai. Mọi người để yên cho chúng vơ vét.
Sau chuyến bị cướp ấy, thuyền trưởng Luc đề nghị phải mua một cây súng để tự vệ. Đây là đầu mối cho những cuộc đàm luận không ngớt trên tàu suốt nhiều ngày nhiều đêm. Hồng nghe chuyện và hiểu gần hết được những éo le của tình trạng họ.
Ý kiến của Luc bị nhiều người trên ghe bác bỏ. Là học trò của vị đạo sĩ trên núi, họ không muốn nhờ vũ khí bảo vệ cho họ. Nhưng Luc nói rằng “có một cây súng không có nghĩa là sẽ giết người”. Ngày xưa Luc đã từng là tay súng giỏi. Anh ta bảo rằng chỉ cần có một cây súng là mình có thể khiến cho bọn cướp “ngán” và không dám lại gần. Mình có thể hoặc bắn dọa trong không khí, hoặc bắn trúng một cái gì rất nhỏ trên ghe cướp để họ tránh xa. Cô gái trên ghe cười và nói rằng chỉ khi nào tinh thần mình yếu mới nghĩ đến chuyện có súng, rằng hướng dẫn bởi ý định tiếp tục cứu người trên bể cả mình sẽ được những niệm lực lành che chở. Cô nói:
– Trước khi mình xuống núi, thầy đã dặn mình phải tuyệt đối tôn trọng sự sống, lấy tình thương mà trả lời với bạo lực. Một con cá dưới biển cũng không được động tới, người đã dặn như thế rồi mà.
Luc bảo:
– Cây súng chỉ là hình thức. Cách sử dụng súng mới là nội dung. Chúng ta có thể sử dụng súng một cách bất bạo động. Chắc sư phụ cũng đồng ý với tôi.
Nhưng bạo động hay không bạo động không phải là đề tài bàn cãi quan trọng nhất. Vấn đề nghiêm trọng của họ là bọn cướp ở Mahachai đã khám phá ra rằng ghe của họ là một ghe đánh cá của người ngoại quốc. Mahachai thuộc về thị trấn SamukShkhorn là một nơi tương tự với xóm anh chị Cầu Muối bên mình.
– Bọn Mahachai mà có ý hại mình thì không thể nào mình tiếp tục được chương trình này nữa. Tụi mình đã lớn rồi, phải tự định liệu lấy, không thể bất cứ gặp vấn đề gì cũng phải về núi thỉnh ý sư phụ, Lục đã nói như thế. Vì vậy cho nên cuộc bàn luận kéo dài.
Bẵng đi một thời gian, Hồng không gặp chiếc Shantisuk, nhưng trưa hôm qua em lại thấy nó xuất hiện hoạt động phía bờ biển Bắc Mã Lai. Hồng nghe được những chuyện rất lý thú. Luc đã làm quen được với một tay anh chị cỡ lớn ở Mahachai tên là Tana, gọi tắt là Tân. Võ nghệ Tân khá giỏi nhưng Tân đã phục Luc và chịu nhận Luc là một người anh em. Luc đã đơn thân độc mã đi vào xóm Mahachai và bọn đàn em của Tân thấy dáng điệu hiên ngang của Luc đã không dám động tới. Có một đứa ngăn chặn Luc đã bị anh hất ngã. Chúng báo động với Tân. Luc cũng hỏi thăm và đi tìm Tân. Tân mời Luc vào nhà, mời ngồi. Nhưng bất thần Tân dùng một thế võ bí hiểm định khóa trái cánh tay Luc lại. Luc phản ứng mau lẹ như chớp, thoát khỏi tay Tân và thản nhiên ngồi xuống. Tân vớ con dao nhọn trên bàn đâm Luc bằng một thế đâm rất hiểm hóc. Luc không tìm cách giật con dao mà chỉ nghiêng mình khiến cho Tân đâm trượt. Sau cái thế võ thứ hai đó, Tân không còn “thử” Luc nữa và chịu Luc là người anh em. Tân muốn mời Luc vào “nhóm” bởi vì Tân cần một tay súng giỏi. Tân hứa sẽ bảo đàn em trả lại những gì chúng đã cướp trên chiếc Shantisuk. Tân vẫn nghĩ chiếc ghe Luc là một chiếc ghe đánh cá của người ngoại quốc. Tân đề nghị Luc bán chiếc Shantisuk và gia nhập vào nhóm của Tân. Tân sẽ giao cho Luc trông coi chiếc ghe 800 ngựa có trang bị ra đa.
Luc không dám từ chối, bảo rằng cần phải có thời gian để suy nghĩ và bàn lại với các bạn. Luc nói Luc cần một cây súng. Tân bảo Tân quen với cảnh sát, có thể giới thiệu để cảnh sát cấp giấy cho Luc mua súng tự vệ. Mà quả thật, Tân rất có quyền thế. Luc đã xin được giấy mua súng trong vòng một khắc đồng hồ, nhưng vì các bạn Luc không đồng ý cho nên Luc đã không mua.
Ghe của Luc không còn bị đàn em khá đông của Tân quất phá nhưng vẫn bị các toán cướp biển khác theo đuổi, trong số những toán cướp này có một toán gốc ở Trad. Chiến thuật của chiếc Shantisuk là mỗi khi gặp cướp biển thì mở hết tốc lực để chạy trốn. Chiến thuật này, theo Hồng, là khôn ngoan hơn hết. Nhưng những người trên ghe chỉ sợ những tàu hải tặc có ra đa, chạy nhanh và có súng. Trước đây, những chiếc tàu cướp biển thường hay đón những ghe đánh cá Mã Lai và Thái Lan; nhiều khi chúng giết cả ngư dân sau khi cướp đoạt tiền bạc. Cảnh sát biển của Thái đã nhiều lần đi tuần tiễu nhưng không trừ diệt nổi những lực lượng cướp biển. Cách đây không lâu, trọn một tiểu đội cảnh sát do một thiếu tá cảnh sát Thái chỉ huy đã bị bọn cướp bắn chết gần đảo Ko Kut, không sống sót được người nào. Có một lần chiếc Shantisuk suýt bị cướp không xa vùng ấy. Tối hôm đó, khi rời bến Trad và vượt eo biển để đi về phía các đảo Ko Chang và Ko Kut, nó gặp hai chiếc thuyền cướp đón đường. Nhờ quan sát kỹ nên Luc nhận ra thâm ý của hai chiếc này khi chiếc Shantisuk còn cách chúng đến năm trăm thước. Eo biển rất hẹp nên mọi người trên thuyền biết không thể nào tránh lọt hai chiếc ghe hải tặc. Jean Paul lưu ý mọi người về cách chúng chớp đèn báo hiệu cho nhau, dù rằng lúc ấy vẫn còn ánh mặt trời. Muốn biết chắc chúng có phải là ghe cướp không, Luc lái ghe sang phía mặt phải, làm ra cách sẽ ra biển bằng eo biển phía mặt thay vì đi thẳng eo bên trái. Hai chiếc ghe kia lại chớp đèn cho nhau và cùng tiến về phía eo mặt để chặn lối chiếc Shantisuk. Hồng lo ngại quá. Nhưng bất thần chiếc Shantisuk quay đầu lấy tốc lực hướng về bến Trad, nơi có rất nhiều ghe đậu. Vậy là đêm ấy nó không bị cướp. Đêm sau chiếc Shantisuk ra khơi lúc ba giờ khuya cùng với nhiều ngư thuyền khác; và do đó đã thoát khỏi ghe hải tặc đón đầu. Cũng từ đó chiếc Shantisuk không lai vãng vùng Trad nữa.
Mấy lúc gần đây bọn hải tặc tha hồ tung hoành, không ai kiểm soát được. Trên những chiếc ghe tị nạn đầu tiên mà chúng cướp, chúng có tìm thấy vàng. Vì vậy chúng chia nhau đi chặn đường những ghe tị nạn, nhiều nhất là vùng Ko Kut, Ko Chang, nơi có nhiều thuyền tị nạn đi qua. Càng ngày, hải tặc càng nhiều. Có nhiều người nghèo khổ xoay sang nghề hải tặc. Những người này không chuyên nghiệp, không có súng; họ chỉ có đao búa, xà beng và gậy gộc. Chính quyền Thái biết những gì xảy ra ngoài biển, nhưng vì không muốn có thêm dân tị nạn lên bờ nên cố tình làm ngơ. Mà dầu có muốn tiễu trừ cũng chưa chắc tiễu trừ được.
Một hôm chiếc Shantisuk đang nằm tại biển Chantaburi thì có một người Thái đến đề nghị với Luc lấy ca nô đi ra biển tìm vàng. Hỏi vàng ở đâu thì người kia nói là chôn ở một cái đảo nhỏ gần Ko Kut. Luc hỏi tới ngành ngọn thì biết rằng người đó là kẻ sống sót duy nhất của một đám hải tặc gồm mười tám người. Đám hải tặc này đã cướp bốn ghe tị nạn ở gần Ko Kut và chôn giấu vàng bạc cướp được tại hòn đảo vô danh kia. Ngay sau đó, toán hải tặc này lại bị toán hải tặc khác thanh toán, bởi vì “chúng là đàn em mà dám qua mặt, phỗng tay trên của đàn anh.” Tất cả đều bị giết, chỉ còn một người chạy thoát được. Chính người này đã tìm tới Luc và đề nghị Luc cũng đi ra hòn đảo nọ để lấy. Luc từ chối, nói rằng Luc rất sợ. Có thể là Luc sợ thật. Hoặc có lẽ chỉ vì mục đích của Luc tới xứ này không phải là để tìm vàng.
Hồng cho Đào biết cướp biển là tai nạn lớn nhất của người tị nạn. Nghề cướp biển thịnh hành quá thành ra hầu hết tị nạn chiếc nào cũng bị cướp ít nhất một lần. Có ghe bị cướp tới mười lần. Trung bình mỗi ghe bị cướp ba hay bốn lần. Có những bọn cướp dã man tới mức tột cùng. Có những bọn cướp sau khi cướp xong có thể nghe lời năn nỉ của nạn nhân mà kéo giúp ghe chúng vừa cướp vào gần tới bờ. Có bọn sau khi cướp và hãm hiếp xong thì giết hết người và nhận chìm ghe của nạn nhân. Có bọn chỉ lấy tiền bạc và áo quần mà không đụng tới phụ nữ.
Đào run sợ khi nghe Hồng kể. Cô mất hết can đảm. Nhưng Hồng nói là Hồng sẽ làm đủ cách để Đào sẽ qua được bờ bên kia mà không bị cướp bắt gặp. Tối hôm đó Đào xin Hồng dạy cho Đào học thuộc Tâm Kinh Bát Nhã. Cô thấy cô cần phải đọc kinh này để có thêm an tĩnh, có thêm sức mạnh tinh thần. Cảm thương cho thân phận của mình, tối đó cô thiếp đi mà nước mắt ướt đẫm cả mặt.
Thức dậy, Đào nhìn quanh và biết là Hồng đã xuống biển rồi. Cô giận mình mê ngủ quá. Cô xuống suối rửa mặt, rửa tóc và ngồi trên bờ suối ôn lại Tâm Kinh. Rồi cô đi lấy hai cái bánh lạt để ăn cho đỡ đói. Uống nước suối xong, cô leo lên một tảng đá trơn bóng và râm mát rồi tập ngồi thiền định. Cô chưa biết tọa thiền như thế nào nhưng cũng bắt chước ngồi xếp bằng giữ sống lưng cho thẳng. Cô chẳng biết phải làm thế nào cho đúng phép ngồi thiền. Có lần cô nghe người ta nói hơi thở rất quan hệ cho việc ngồi thiền, cho nên cô mỉm cười bắt đầu thở những hơi thở nhẹ và dài. Quả nhiên chừng mười lăm phút sau cô thấy trong người dễ chịu và tỉnh táo. Cô cảm thấy mình vững vàng hơn, về thể chất cũng như về tinh thần. Cô bèn khởi sự đọc Tâm Kinh. Cô đọc nhiều lần. Nhận thấy giọng của mình có hơi bắt chước giọng của Hồng, cô mỉm cười. Cô không hiểu lời kinh muốn nói gì nhưng cô thấy âm điệu của lời kinh rất là thu hút. Cô để ý nhất đến một câu mà cô có cảm tưởng rằng nếu cô lặp lại chừng một ngàn lần thì cô thể hiểu được. Đó là câu “Này người con của Xá Lợi, mọi hiện tượng đều có chung một thể tính không tịch; không có gì sinh ra, không có gì mất đi, không có gì nhơ bẩn, không có gì trong sạch, không có gì thêm lên, không có gì bớt đi. Trong thể tính không tịch đó, không có vật chất, không có cảm thọ, không có tư duy, không có hạnh nghiệp, không có nhận thức…”. Lời kinh gì mà vừa hiền dịu như mây bay, vừa dữ dội như sấm sét. Đào thoáng thấy một cái gì rất quan trọng trong câu kinh đó, dù cô chưa hiểu thấy. Chưa hiểu thấu nhưng không phải là cô không hiểu gì hết. Cô hiểu gì, cô cũng không biết; cô chỉ biết là cô bị hút vào câu kinh đó cũng như mảnh thép nhỏ bị hút vào một khối nam châm.
Đột nhiên Đào ngẩng lên, Hồng đã về. Hồng đã về quá sớm. Giờ này là giờ ngọ, mặt trời đang đứng bóng. Đào bước xuống, chạy ra đón Hồng. Cô đưa Hồng tới ngồi dưới bóng cây râm mát và chạy đi lấy nước cho Hồng uống. Hồng uống nước xong nhìn Đào và nói:
– Chị Đào, chị sửa soạn để chiều hôm nay qua bờ bên kia.
Đào giật mình nhìn Hồng. Cô chưa kịp hỏi gì thì Hồng tiếp:
– Có một chiếc ghe tị nạn sẽ đi ngang qua đây vào lúc ba giờ chiều. Chị còn dư thì giờ để chuẩn bị. Chị nên đem theo hết chỗ bánh còn lại và bọc áo quần. Khi ghe tới, chị nói người trên ghe lên suối lấy thêm nước ngọt. Em sẽ có cách làm cho người trên ghe thấy chị và ghé vào đây đón chị.
Đào nắm tay Hồng:
– Em có đi với chị không? Chị sợ lắm.
Hồng cười:
– Em sang bên ấy để làm gì? Em phải ở lại. Em còn phải tìm má em. Chị nghe em nói đây. Hôm nay là ngày đầu năm của dân tộc Thái. Tất cả đều ở nhà ăn Tết. Trên biển không có bóng dáng một ghe cướp nào của Thái, kể cả các ghe đánh cá cũng vậy. Đây là một cơ hội hiếm có cho các ghe tị nạn. Ở đây không có giấy và bút. Em không thể vẽ ra để chỉ đường cho chị. Vậy chị em mình xuống dưới bãi cát. Em sẽ chỉ cho chị con đường đi từ đảo này tới đảo Ko Kut và từ đảo Ko Kut tới đảo Ko Chang. Và em cũng sẽ chỉ cho chị cách đi từ Ko Chang tới một cái làng thuộc quận Leam Sing tỉnh Chantaburi. Nơi đây chị sẽ được dân làng đưa lên cho ăn uống thuốc men và ngày mai cảnh sát sẽ đưa chị và những người cùng ghe tới trại tị nạn Leam Sing.
Hồng đưa Đào xuống bãi cát, dùng ngón tay vẽ bản đồ vịnh Xiêm La và chỉ cho Đào mọi chi tiết. Hồng căn dặn Đào rất kỹ về những nơi có đá ngầm. Phải nhìn kỹ mặt biển, nơi nào sóng gợn bên trên khác thường với mặt biển xung quanh thì tránh ngay, vì bên dưới có đá ngầm có thể làm thủng ghe. Hồng chỉ cho Đào cách nhắm hướng căn cứ trên mặt trời, trên những ngôi sao, trên hình dáng mờ xa của cù lao Kut hay cù lao Chang. Rồi Hồng xóa bản đồ của mình vẽ, bảo Đào vẽ lại, lặp lại những điều Hồng dặn. Hồng lại bổ túc cho Đào những chỗ Đào chưa nắm vững. Xong xuôi, Hồng hỏi Đào:
– Chị có người quen nào ở ngoại quốc không?
– Có, chị có một ông bác ở Pháp.
– Vào được trại Leam Sing chị tìm cách viết thư ngay cho bác và nhờ mục sư Doug Kellum đem bỏ thư nhà dây thép thị trấn Chantaburi dùm. Ông mục sư này cứ mỗi tuần vào thăm trại tị nạn Leam Sing một lần để giúp đỡ. Chị nhờ bác đánh điện cho anh Đạt tại trại tị nạn Pulau Bidong ở Mã Lai, ngoài khơi thị trấn Kuala Trengganu, báo tin là chị còn sống và hiện tại ở trại Leam Sing. Chị cũng có thể viết thư trực tiếp cho anh ấy. Chị khai với đại diện Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc là chị có người bác tại Pháp và muốn làm đơn xin qua Pháp với bác. Anh Đạt cũng xin đi Pháp phải không? Chị nhớ nhắc anh Đạt là nên cùng xin qua Pháp. Và điều này nữa, em xin chị đừng quên: tới trại, chị tìm cách xin bác sĩ khám cho chị. Chị nói riêng với bác sĩ là chị không muốn có dấu tích gì của bọn cướp biển trên thân thể chị cũng như là trong tâm hồn chị.
Ngẩng lên, Đào thấy hai giọt lệ long lanh trong mắt Hồng. Cô ôm Hồng chặt trong tay. Cô nói:
– Chị sẽ làm đúng lời em dặn. Chị còn gặp em nữa không?
Hồng gỡ tay Đào, đưa Đào trở lên tảng đá có bóng cây râm mát. Hồng nói:
– Có thể em còn cơ hội gặp chị. Nhưng em không chắc lắm. Vậy cứ tạm xem hôm nay là buổi hội ngộ cuối cùng. Chị nghe em nói đây. Người tị nạn hiện giờ ra nhiều quá và các nước xung quanh đã đồng ý với nhau dùng biện pháp mạnh để ngăn chặn. Họ sẽ canh phòng các bờ biển nghiêm ngặt và sẽ dùng quân đội để ngăn người tị nạn đổ bộ lên đất họ. Chưa hết. Họ còn dự tính tổ chức dân chúng biểu tình để họ có cớ bỏ những người tị nạn trở lên ghe và kéo những ghe này ra hải phận quốc tế trở lại. Nếu họ làm như thế thì đồng bào chết hết. Em hy vọng dư luận thế giới sẽ ngăn cản họ. Nhưng một khi tới trại tị nạn chị phải cho đồng bào biết để đề phòng. Phải đồng sinh cộng tử với nhau, nghĩ ra những biện pháp kháng cự tập thể hữu hiệu. Cả trong ban đêm, mình cũng phải tỉnh táo và sẵn sàng đối phó. Nếu bị ép lên thuyền để đẩy ra biển thì nhất quyết đồng loạt không tuân lệnh dù súng của họ dí vào ngực mình cũng vậy. Trong trường hợp sự đe dọa trở thành rõ rệt quá, phải tìm cách nhận chìm hoặc tiêu hủy các con thuyền trước bến của trại tị nạn. Đời sống của người tị nạn ở trại chị sắp đến cũng rất cực khổ nhưng đời sống tại những Songkhla, Pulau Bidong, Pulau Tengah, Pulau Pinang và những trại khác rải rác trên miền duyên hải bốn nước. Chị sẽ phải ở lại trại từ bốn đến sáu, hay tám tháng. Thì giờ rỗi rảnh, em nhờ chị chăm sóc những người khổ đau bất hạnh trong trại dùm em.
Hồng ngước lên, cười, trong khi mắt em còn ướt:
– Có một tin vui. Anh Luc, thuyền trưởng của chiếc Shantisuk đã tới gặp anh Tân và nói hết sự thực. Anh nói: “Người nghĩa hiệp không bao giờ ức hiếp kẻ khốn cùng. Ta có thể tạm lấy vàng của nhà giàu trong khi kẻ khác đói, nhưng ta không có quyền giết người, hãm hiếp người. Đàn em của anh không thể làm mất thanh danh của anh.” Anh Luc thật là can đảm không ai bì kịp. Anh nói rằng anh Tân đã vỗ vai anh và hứa sẽ ra lệnh cho bọn đàn em. Nhưng chị ơi, trên biển có hàng trăm toán cướp. Một vài toán đàn em của anh Tân không đụng tới tính mạng và danh tiết của người tị nạn, nhưng còn những toán khác thì sao? Chính chiếc Shantisuk cũng đang bị những toán kia đe dọa. Em sợ một ngày gần đây chiếc ấy cũng không còn hoạt động được. Em sợ cho tính mạng của những người trên chiếc ấy lắm. Có thể là ông Đạo ở trên núi Doi Suthep sẽ gọi họ về vì tình trạng quá nguy hiểm trên biển. này chị, nhìn xem, chiếc ghe đã tới! Chị đi tìm cành cây có móc chiếc áo bà ba đi. Chúng mình xuối dưới bờ cát.
Đào thấy ở chân trời phía Đông một chấm đen. Chấm đen càng lúc càng rõ và cuối cùng Đào thấy rõ ràng đó là một chiếc ghe tị nạn. Hồng nói:
– Chị đợi ghe tới gần thêm chút nữa rồi hãy phất áo làm hiệu. Đừng nói gì cho những người trên ghe biết về em nhé. Em sẽ lội ra khơi và làm cho ghe chú ý tới dấu hiệu kêu cứu của chị. Nhớ làm theo điều em căn dặn chị nhé. Và nhất là phải tiêu hủy ghe ngay sau khi lên bờ.
Hồng ôm chặt lấy Đào. Rồi đúng như một cô bé, Hồng buông Đào một cách đột ngột, chạy về bờ nước, lao mình xuống biển, lội mất. Đào tiếp tục phất qua phất lại cành cây với chiếc áo bà ba. Cô tiến về phía trước cho tới khi nước biển ngập tới đầu gốc. Cô làm dấu không ngớt. Và kìa, chiếc ghe đã trông thấy dấu hiệu. Người trên ghe đã bẻ lái chạy về phía hoang đảo.