Giảng kinh
(Phiên tả Pháp thoại ngày 29 tháng 01 năm 1998 tại xóm Mới, Làng Mai, Pháp)
Bài Hướng về kính lạy có thể đặt tên là Phát nguyện hành trì vì nội dung gồm hai phần: phát nguyện và hành trì. Không mang tính cách cầu xin, bài tụng là lời nhắc nhở, ước hẹn, cam kết, phát nguyện trong đời sống hằng ngày: “Con sẽ sống như thế này, con sẽ thực tập như thế kia.” Ngay chính hôm nay con đang phát nguyện làm cái này hay cái kia chứ không nói rằng ngày mai, ngày kia con sẽ làm cái này hay cái kia.
- PHÁT NGUYỆN QUY Y
Một hình ảnh đặc biệt, tương đối mới được thấy trong bài là hình ảnh ngọn hải đăng. Ngày xưa, trong kinh chưa có hình ảnh đó. Ngọn hải đăng rọi ánh sáng ra biển để những con tàu đi lạc biết hướng quay về. Cố nhiên, theo đó là hình ảnh một đại dương mênh mông sóng gió với rất nhiều con tàu đang lạc hướng. Đại dương – tượng trưng cho biển khổ, biển của sự mê lầm mà chúng sinh đang ngụp lặn, không biết hướng về.
Hướng về kính lạy đức Như Lai
Hải đăng chiếu soi biển trần khổ.
Ở đây, chúng ta thấy đức Như Lai được ví như một ngọn hải đăng đang chiếu soi đêm ngày trong biển trần khổ để những người lầm đường lạc nẻo, nếu biết nhìn theo hướng ánh sáng đó thì có thể trở về bến bờ một cách an toàn. Ánh sáng hải đăng luôn luôn có mặt. Nếu chúng ta có chánh niệm, có ý định quay về thì ánh sáng hải đăng luôn có đó để dẫn đường. Như Lai là đức Thế Tôn, dịch từ chữ Tathāgata. Tathatā là Chân Như (真如), Lai (來) là tới. Như Lai nghĩa là một bậc từ chân như tới (the one who has come from the ultimate reality), và sẽ đi về chân như, tức là từ thực tại đi tới và sẽ trở về thực tại (the one who comes from suchness and will go to suchness). Thực tại nhiệm mầu này là chân như thì làm gì có tới, có đi. Cho nên, Như Lai có nghĩa là không từ đâu tới và cũng sẽ không đi về đâu.
Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như lai.
如來者,無所從來,亦無所去,故名如來.
(The Tathāgata means he has come from no–where and will go no–where).
Đó là định nghĩa Như Lai trong kinh Kim cương. Đức Như Lai là biểu trưng cho thực tại tối hậu, thực tại tối hậu đó không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Từ chân như tới và sẽ đi về chân như là một cách nói, vì trong chân như vốn không có tới, không có đi.
Hướng về kính lạy đức Như Lai. Đây là một hành động của sự quay về. Quay về chỗ xứng đáng để cho ta trọn đời nương tựa. Quay về với đức Như Lai, quay về thực tại nhiệm mầu là nội dung của sự quy y.
Hải đăng chiếu soi biển trần khổ. Đây là một hình ảnh rất đẹp, và mới mẻ. Ngày xưa trong kinh hình như chưa có hình ảnh ngọn hải đăng. Ngọn hải đăng chiếu ra ánh sáng và ánh sáng có mặt ở bất cứ giờ nào, bất cứ nơi nào có sự tăm tối. Trần, 塵, (rajas), có nghĩa là bụi bặm, hệ lụy. Khổ, 苦, (duḥkha), nghĩa chữ Hán là đắng, vị đắng. Trong ý niệm của người Trung Quốc, từ đắng được dùng để chỉ mọi sự đau khổ trong đời (vì phải chịu đựng vị đắng ngoài ý muốn nên mới khổ). Ta cũng có từ khổ qua tức là mướp đắng.
Xin đức Từ Bi xót thương nhiếp thọ,
Chúng con hôm nay khẩn thiết nguyện quay về.
Đây là một lời phát nguyện quy y. Bốn câu này là quy y Bụt. Đức Từ Bi chính là đức Như Lai. Đức Như Lai có lòng thương yêu rất lớn: từ là khả năng chia sẻ, hiến tặng hạnh phúc; bi là khả năng chuyển hóa những đau khổ trong tâm. Vì đức tính từ và bi trong Như Lai rất lớn nên có khi ta gọi Ngài là đức Đại Từ (mahā maitrī), Đại Bi (mahā karuṇā). Chúng ta cũng có từ và bi trong trái tim, nhưng từ bi trong ta nhỏ hơn (vinā maitrī, vinā karuṇā).
Xin đức Từ Bi xót thương nhiếp thọ. Nhiếp nghĩa là giữ gìn, bao bọc lấy, ôm trọn vào trong chứ không để lọt ra ngoài, không để cho mất mát. Nhiếp chúng nghĩa là ôm lấy tất cả mọi người trong đại chúng, không để một phần tử nào lọt ra ngoài. Thọ nghĩa là tiếp nhận. Khi lạy xuống, ta đặt cả thân và tâm ta vào vùng nhiếp thọ, vùng che chở, chấp nhận, ôm ấp của đức Như Lai. Khi lạy xuống, ta quán chiếu hai cánh tay Như Lai bao trùm tất cả và ta đặt hết thân tâm ta vào vùng năng lượng đó. Trong tư thế năm vóc sát đất, ta sẽ cảm thấy rất an ổn, như đã được quay về nhà với cha mẹ. Đó là vì ta đang được ôm ấp trong vùng năng lượng đại từ, đại bi của đức Như Lai.
Chúng con hôm nay khẩn thiết nguyện quay về. Quay về không phải bằng lý thuyết mà bằng tất cả mọi tế bào trong cơ thể: máu, xương, tủy, não, hạnh phúc, khổ đau, tuyệt vọng, hy vọng… đều quay về, đặt trọn vào vùng nhiếp thọ của đức Như Lai.
Hướng về kính lạy đức Như Lai
Hải đăng chiếu soi biển trần khổ
Xin đức Từ Bi xót thương nhiếp thọ
Chúng con hôm nay khẩn thiết nguyện quay về.
Khai chuông mõ, xướng lên câu Hướng về kính lạy đức Như Lai là phải có niệm, có định. Phải đọc bốn câu này bằng máu, nước mắt, xương, tủy thì ta mới cảm nhận rõ ràng rằng chúng ta đang được nuôi dưỡng, ôm ấp, bảo bọc và nhiếp thọ bởi năng lượng từ bi của Bụt.
Đệ tử chúng con
Bốn ơn mang nặng
Chưa dịp báo đền
Đệ tử là tiếng Hán Việt, có nghĩa là học trò, là em (đệ), là con (tử) của đức Thế Tôn. Quý vị vừa là con của thầy, vừa là em của thầy. Chữ disciple hay student chưa được hay lắm. Chữ con em rất hay, bởi vì con là do ta sinh ra; em là như ta, chỉ nhỏ tuổi hơn ta một chút và ta cầm tay dắt đi. Chữ con em nghe thân thiết hơn chữ học trò. You are my child, you are my younger brother. Vậy thì đối với chúng ta, Bụt là thầy, là cha, là anh, là chị.
Bốn ơn mang nặng. Là người có ân nghĩa, trong trái tim chúng ta luôn mang theo Bốn ân.
Ân đầu tiên là ân cha mẹ, đấng sinh thành. Ân thứ hai là ân sư trưởng, ân thầy, người đã sinh ra chúng ta lần thứ hai. Cha mẹ sinh ra hình hài, còn thầy sinh ra ta trong đời sống tâm linh, dạy ta biết hiểu và biết thương, biết chuyển hóa những khổ đau. Cho nên, thầy cũng là cha, là mẹ.
Ân thứ ba là ân bè bạn. Nhiều lúc ta thành đạt được là nhờ ở bạn bè, nhờ sư anh, sư em, sư chị. Vì vậy, ân thiện tri thức, ân bè bạn là một ân rất lớn, rất quan trọng. Chỉ cần có được một người bạn hiểu và nâng đỡ ta trong những lúc khó khăn, vấp ngã, an ủi ta trong những lúc sầu khổ là ta có thể thành đạt được sự nghiệp của đời mình. Hạnh phúc thay cho một người nào có được một, hai, ba người bạn hay có một tăng thân để nâng đỡ. Do đó, ân bè bạn cũng là ân tăng thân.
Ân thứ tư là ân của mọi loài chúng sinh. Chim chóc, thú vật, dòng sông, mặt trời, … tất cả đều là chúng sinh. Chúng sinh trong ba lĩnh vực: động vật (animal realm), thực vật (vegetal realm) và khoáng vật (mineral realm). Theo tuệ giác của Bụt, không những loài thú vật, loài cây cỏ được gọi là chúng sinh mà loài đất đá cũng có thể gọi là chúng sinh, vì nhìn cho kỹ thì đất đá cũng có sinh mạng của chúng. Vì vậy theo tinh thần của kinh Hoa Nghiêm thì: “Tình dữ vô tình, đồng thành Phật đạo”, tức là những loài hữu tình và vô tình đều thành Phật đạo (the animated world and the unanimated world, both become Buddha). Ranh giới giữa hữu tình và vô tình tìm cho kỹ thì không có. Trong kinh Kim cương viết “hữu tình được làm bằng vô tình và vô tình được làm bằng hữu tình”, điều này có thể chứng nghiệm được bằng khoa học. Có đôi lúc ranh giới giữa động vật và thực vật cũng không thể tìm ra, ví dụ như có những loài mà ta gọi là động vật cũng được, gọi là thực vật cũng được. Có những loài nấm ta gọi là con hay cây đều được, vì nó nằm ở giữa hai loài.
Đệ tử chúng con
Bốn ơn mang nặng.
Chúng ta mang ơn cha mẹ, ơn thầy, ơn bè bạn, ơn chúng sinh. Bốn ơn đó rất nặng. Chúng ta tu là tu cho bốn ơn đó: tu cho dòng họ, cho cha mẹ, cho thầy, cho chư vị Tổ sư, cho bạn bè và cho tất cả mọi loài chúng sinh. Vì có bốn ơn sâu nặng đó nên chúng ta mới ngày đêm tinh chuyên, thao thức để tu tập, nếu không, chúng ta sẽ là một người vô ơn, bạc nghĩa. Vậy, phải luôn mang bốn ơn đó trong trái tim và làm bất cứ điều gì cũng nhân danh bốn ơn đó: ta đi vì bốn ơn mà đi, ta ngồi vì bốn ơn mà ngồi, ta tụng kinh vì bốn ơn mà tụng kinh, ta thực tập vì bốn ơn mà thực tập.
Chưa dịp báo đền.
Ta chưa có cơ hội báo đền bốn ơn. Trong khi đó:
Nhìn ra ba cõi bốn bên
Thấy muôn loài còn chìm trong khổ nạn.
Ba cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Cõi dục (rūpadhātu – dục giới) là cõi mà tham dục đầy dẫy. Muốn biết về cõi dục, ta chỉ cần tiếp xúc với bản thân là sẽ thấy cõi dục ở ngay trong ta. Cõi sắc (arūpadhātu, sắc giới) cũng có trong ta, những lúc trong ta không có tham dục, ta sống nhẹ nhàng hơn nhưng vẫn còn hình sắc. Cõi vô sắc cũng có mặt một phần trong ta. Do đó, tam giới không cần phải đi tìm đâu xa, nó hiện hữu ngay trong bản thân và xung quanh ta. Chúng ta chọn một trong ba cõi đó để an trú. Và cố nhiên, ta sống trong cõi dục thì khổ hơn trong các cõi khác. Nhưng theo giáo lý của đức Thế Tôn, trong cả ba cõi đều không có an ninh, dầu là cõi vô sắc, vậy nên chúng ta phải làm thế nào để vượt khỏi ba cõi thì mới có an ninh hoàn toàn. Kinh Pháp hoa dạy rằng: “Tam giới bất an, do như hỏa trạch” (三界不安,猶如火宅), nghĩa là ba cõi không có an ninh như một cái nhà đang bốc cháy. Hỏa trạch là cái nhà đang bốc cháy, the house is on fire. Vì vậy, ta phải chạy ra khỏi tam giới. Nếu ở trong ngôi nhà đang cháy đó, ta thì sẽ bị chết cháy. The three worlds are without safety, they like burning houses. Bốn bên là đông, tây, nam, bắc.
Thấy muôn loài còn chìm trong khổ nạn. Đây rõ ràng là biển khổ. Mỗi ngày, xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu người còn đang chìm đắm trong đó. Khi những thiền sinh đến với chúng ta, nhờ tiếp xúc với họ, ta sẽ nhớ lại bên ngoài còn rất nhiều khổ đau. Có những thiền sinh run rẩy, đau khổ, khóc than ngay lúc mới đến. Họ nhắc cho chúng ta biết rằng cuộc đời bên ngoài đang là một biển khổ. Làng Mai giống như một hải đảo có an ninh (safety), có sự che chở (protection). Ở đây chúng ta có tăng thân tương đối vững chãi, có hạnh phúc mà đôi khi chúng ta quên mất. Ta cần sắm một chiếc thuyền, thỉnh thoảng đi ra ngoài biển khổ để nhìn thấy, và cứu giúp. Mỗi lần đi ra ngoài để tổ chức khóa tu, để hoằng pháp, chúng ta tiếp xúc với không biết bao nhiêu là khổ đau của con người, có thể học thêm được rất nhiều từ những khổ đau đó và chúng ta có thể chế tác ra những pháp môn mới để giúp những người đó chuyển hóa và từ từ bớt khổ. Chúng ta phải có những chiếc thuyền, đi ra biển khổ mà không có thuyền thì không thể giúp được ai cả. Chiếc thuyền đó chính là bản thân của chúng ta, chính là sự thực tập của chúng ta.
Cái hay của bài tụng này là những hình ảnh. Trong khi tụng kinh, những hình ảnh sẽ giúp chúng ta dễ dàng tiếp xúc với sự thật. Thiền quán là sự thực tập nhìn vào thực tại với sự trợ giúp của các hình ảnh. Khổ nạn là đau khổ và tai nạn. Tai nạn đầy dẫy cùng khắp. Tai nạn này xảy ra chưa hết thì tai nạn khác đã đến, mà phần lớn là do ta không có phương tiện để tự bảo vệ. Những người tu sĩ sở dĩ có cảm giác an ninh là vì họ tự biết bảo vệ mình bằng sự hành trì giới luật và uy nghi. Giới luật và uy nghi trở thành một năng lượng bảo vệ người tu, năng lượng đó chính là Bụt, Pháp, Tăng. Những ai đã tiếp nhận, hành trì Năm giới và Tam quy thì những người đó có thể tránh thoát đến 90% những tai nạn có thể xảy ra cho mình, sẽ được sống ngoài biển khổ. Hành trì quy giới rất quan trọng cho tất cả mọi thành phần trong xã hội.
Những đau khổ và tai nạn luôn rình rập, úp chụp lên đầu ta và hầu hết chúng sanh đều đang chìm trong khổ nạn. Khi vượt qua được khổ đau, chúng ta chắp tay lại và gọi tên đức Bồ tát Quan Thế Âm: “Lạy đức Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn. Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm ứng Quan Thế Âm Bồ tát”. Ai mà không có khổ có nạn và ai mà không cần đức từ bi của Bồ tát Quan Thế Âm? Nghe được tiếng kêu của thế gian, đức Quan Thế Âm hiện ra, Ngài nói: “Có ta đây, con đừng sợ. Con niệm danh hiệu ta và thực tập Ba quy, Năm giới là con sẽ được bảo vệ”. Vì vậy, đức Quan Thế Âm cũng là giới, cũng là quy, cũng là uy nghi.
Nhìn ra ba cõi bốn bên
Thấy muôn loài còn chìm trong khổ nạn
Bỗng giật mình kinh hãi.
Thật không ngờ trên đời con người khổ nhiều như vậy. Có thể ta đang sống trong giấc mộng, không biết được sự thật đang xảy ra ngoài đời là người ta đang khổ quá nhiều. Lâu nay ta sống trong một tháp ngà, nên ta mới buồn nhau, giận nhau, ganh tỵ nhau vì những lý do rất nhỏ bé. Ta không biết sử dụng những giây phút của đời mình để thực tập, để sống cho sâu sắc như đức Thế Tôn dạy. Khi mở mắt ra, thấy “muôn loài còn chìm trong khổ nạn”, ta mới giật mình kinh hãi và thấy mình quá dại dột, vì đã sống một cách hời hợt, u mê.
Bỗng giật mình kinh hãi
Biết rằng dù đã quay đầu nhìn lại
Vẫn thấy rằng bến giác còn xa
May thay trong cõi Ta bà
Đâu cũng có cánh tay đức Từ Bi cứu độ.
Khổ hải mang mang, hồi đầu thị ngạn hay là Khổ hải mang mang, quy đầu thị ngạn. Khổ là đắng, hải là biển, mang mang là lai láng, hồi là quay lại, đầu là cái đầu, thị là thấy, ngạn là bờ. Tuy biển khổ lai láng, mênh mông, ta rất dễ đánh mất mình trong biển khổ, nhưng nếu ta biết quay đầu trở lại thì có thể thấy được bến bờ.
Ta biết trên nguyên tắc: Quay đầu là thấy bờ, nhưng thấy thì thấy, bờ vẫn còn xa và muốn trở về bờ chưa chắc ta đã có đủ sức để bơi! Dù sao, thấy bờ và biết mình cần đi về hướng nào đã là một điều quý hóa rồi. Trước khi thấy bờ, chúng ta cứ bập bềnh, trôi nổi, không biết đang đi về đâu. Những người không biết mình đang đi về đâu là những người đau khổ nhất. Những người thấy được hướng đi, dù biết là phải đi một thời gian dài mới đến, là những người đã bắt đầu có hạnh phúc. Chỉ cần quy y thôi là hạnh phúc bắt đầu có mặt. Nhờ quy y ta sẽ biết rằng ta cần đi về hướng nào và ta có niềm tin đến gần với mục đích của ta, tức là sự an ninh.
May thay trong cõi Ta bà
Đâu cũng có cánh tay đức Từ Bi cứu độ.
Ta bà, tiếng Phạn là sahā, dịch là kham nhẫn, chịu đựng. Cõi Ta bà là cõi còn nhiều sự chịu đựng, khổ đau, là cõi của chúng ta. Không có ý thức thì thôi, chứ khi ta đã có ý thức chánh niệm thì tuy biết bến giác còn xa nhưng chỗ nào ta cũng có thể nhận ra cánh tay của đức Từ Bi đưa ra và chỉ cần níu lấy cánh tay đó là ta sẽ không bị chìm nữa. Cánh tay đức Từ Bi có thể là cánh tay của thầy, sư anh, sư chị, sư em hay của một thiền sinh đang thực tập giỏi. Cánh tay đó có thể là một tiếng chuông, một bông hoa vàng trong cỏ mà đức Từ Bi hóa thân ra dưới muôn vàn hình thức để cứu độ ta. Chỉ cần nhìn bông hoa vàng trong cỏ đang mỉm cười với mình, ta biết đó là cánh tay đức Từ Bi đang đưa ra cho ta níu lấy. Có chánh niệm, ta dễ dàng nhận ra sự có mặt của đức Từ Bi ở khắp nơi và bất cứ khi nào. Chúng ta đừng tưởng tượng một người có hào quang bằng đèn nê-ông phía sau đầu mới là đức Từ Bi, đó chỉ là hình ảnh ta đặt ra và cho đó là Bụt. Bụt là tiếng chuông, tiếng đồng hồ, tiếng điện thoại, là tia nắng sớm hay tiếng chim hót. Nếu có chánh niệm chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt và mỗi hiện tượng như vậy chính là cánh tay của Bụt đưa ra để chúng ta níu lấy. Bụt không ở đâu xa. Bụt có ngay trong cơ thể của ta và xung quanh ta.
Ngày xưa lúc còn nhỏ, thầy có đọc được cuốn hồi ký của một người lạc trong rừng. Chiều đã xuống nhưng ông ấy chưa thể ra được cửa rừng. Ở trong rừng ban đêm rất nguy hiểm. Lúc đó ông hơi nao núng và sợ hãi, nhưng ông ấy vẫn còn cứng đầu. Ông muốn cầu nguyện, nhưng ông là một người vô thần nên cầu nguyện thì cảm thấy mắc cỡ, cho nên ông đã cầu nguyện mà không mấy thành tâm. Ông nói rằng: Thượng đế ơi, nếu quả Thượng đế có mặt thì đến cứu tôi (Dieu, si tu existes, viens me sauver). Lúc ấy có tiếng sột soạt trong bụi và một người Phi châu hiện ra. Người da đen đó cầm tay ông và dẫn ông ra khỏi khu rừng. Khi viết trong hồi ký, ông ta viết một câu bất kính rằng: Tôi cầu Thượng đế nhưng Thượng đế ở đâu không thấy mà chỉ hiện ra một thằng mọi da đen (J’ai prié Dieu, mais il m’est arrivé un nègre). Ông không biết rằng, chính người da đen hiện ra và giúp ông thoát khỏi hoàn cảnh tuyệt vọng đó là Thượng đế. Ông tưởng tượng Thượng đế thì phải có râu dài, và nhất là phải có da trắng. Đối với nhiều người, Thượng đế phải là người da trắng, chứ da đen thì không phải. Chúng sanh mê mờ như vậy đó. Tại Phi châu, chúng ta sẽ thấy các đức Mẹ luôn luôn là da đen. Đức Mẹ của người Phi châu có da đen, đức Mẹ của người Âu châu có da trắng. Sự thật, màu da của đức Mẹ không đen cũng không trắng. Câu đầu tiên trong tác phẩm Thiền tông chỉ nam của vua Trần Thái Tông: “Phật vô Nam Bắc, quân khả tu cầu”, nghĩa là Bụt không phải là người Nam cũng không phải là người Bắc, tìm Bụt ở đâu cũng được. Đó là câu nói của tổ tiên chúng ta.
Nếu chúng ta biết quay về nương tựa và thực tập chánh niệm thì đức Thế Tôn không còn xa cách. Trong mỗi phút giây của đời sống hằng ngày, chúng ta có thể nhận diện được sự có mặt của đức Thế Tôn. Ta có thể luôn luôn nắm lấy cánh tay từ bi của Ngài để nương tựa và trở về bến giác. Cánh tay của đức Từ Bi có mặt khắp nơi, và ta chỉ cần nhận diện cánh tay đó.
Trong Truyện Kiều có một nhân vật tên Giác Duyên, là một sư cô và Thúy Kiều đã nương náu nơi sư cô này để khỏi đắm chìm trong khổ nạn. Tên Giác Duyên rất hay, có nghĩa là điều kiện để mình tỉnh thức. Sư chị Giác Duyên là nơi nương tựa cho sư em Trạc Tuyền (Trạc Tuyền nghĩa là được tắm gội trong một dòng suối). Thúy Kiều khi xuất gia có tên là Trạc Tuyền. Mỗi chúng ta đều có thể có “sư chị Giác Duyên” của mình, đó là những điều kiện để ta tỉnh thức, nắm lấy pháp môn tu học. Giác Duyên của ta là sư anh, sư chị, và cũng có thể là sư em của ta. Tất cả những điều kiện tỉnh thức quanh ta đều có thể gọi là Giác Duyên, conditions for awakening. Đông, Tây, Nam, Bắc đều có những điều kiện giác ngộ, chúng ta phải biết nắm lấy những điều kiện đó. Chúng chính là những hình thái của đức Từ Bi. Cánh tay đức Thế Tôn luôn luôn có mặt cho chúng ta. Tathāgata is always available to us.
Nay chúng con một lòng quay về nương tựa
Nguyền xin làm đệ tử đức Như Lai
Hợp nhất thân tâm
Quỳ dưới Phật đài.
Một lòng, one pointed mind, là quay về nương tựa với tất cả trái tim của mình. Đến lúc này thì thân tâm ta phải hợp nhất chứ không phải thân ở đây mà tâm đang phiêu lưu đâu đó trong quá khứ, tương lai hoặc nơi nào khác.
Buông hết trần tâm
Một lòng quy kính.
Trần tâm tức là tâm bụi bặm, tâm cứ nghĩ đến chuyện danh lợi, giận hờn. Trần là bụi bặm. Ta có hai tâm: thanh tịnh tâm và trần tâm. Phải buông hết tâm bụi bặm mới có thể một lòng quy kính được. Quy là quay về, kính là với thái độ kính cẩn.
Xin tiếp nhận diệu pháp
Tinh chuyên tu tập mỗi ngày.
Đây là một lời hứa, một lời phát nguyện. Con đến với đức Thế Tôn không phải để cầu xin một ơn huệ, con đến để cầu xin diệu pháp. Đức Thế Tôn giàu có về diệu pháp, là vua của pháp, gọi là Pháp vương (the Dharma king). Đức Thế Tôn có thể ban bố rất nhiều pháp môn tu tập, cho nên con đến đây là để cầu xin diệu pháp và tu tập, chứ không phải đến để xin làm thượng thủ, làm tổ, làm thị giả. Tinh là ròng, tuyền, thuần nhất, không bị pha tạp. Tinh chuyên tu tập tức là chỉ chuyên tâm tu tập để chuyển hóa chứ không trộn lẫn để buôn bán chánh pháp, mưu cầu danh lợi Con tiếp nhận diệu pháp để con tinh chuyên, siêng năng tu tập mỗi ngày. Phải tu (practice) và phải tập (train) mới thành tựu được: ngồi, đi cũng phải tập, xướng tụng cũng phải tập. Ý chí muốn làm chưa đủ mà phải có sự rèn luyện. Năm giới (mindfulness training) cũng vậy, ta không thể nói con xin tiếp nhận Năm giới là có thể hành trì được Năm giới mà phải có sự rèn luyện mới thành tựu được. Không phải hứa giữ Năm giới là giữ được, phải cùng luyện tập với tăng thân. Tu tập là làm cho đẹp hơn và không còn xấu nữa, làm cho hoàn hảo, toàn vẹn hơn, cũng như chữ tu bổ, tu sửa, tu chỉnh. Tinh chuyên tu tập không phải là mỗi tháng một lần mà phải là mỗi ngày, mỗi giờ.
Nuôi giới định lớn lên
Quả Bồ đề một mai thành tựu.
Con phát nguyện đi trên con đường Tam học (三學, three trainings): giới, định, tuệ (precept, concentration, insight). Nhờ đi theo con đường này nên mỗi ngày ta đều có phẩm vật để cúng dường. Tam học là hoa trái của người tu để cúng dường đức Thế Tôn, cha mẹ, thầy, bạn, chúng sanh. Đó gọi là hương giới, hương định và hương tuệ. Sự cúng dường và hiến tặng lớn nhất của người tu là tam học. Mỗi ngày ta đều phải rèn luyện. Nếu thực tập giới luật và uy nghi thì ta có niệm, mà có niệm thì thế nào cũng có định, có định thì thế nào cũng có tuệ. Chữ Bồ đề, Bodhi, ở đây là tuệ, là giác ngộ. Nuôi giới định lớn lên, quả Bồ đề một mai thành tựu là quá trình tam vô lậu học.
Chúng con cầu hồng ân đêm ngày che chở
Cúi xin Bụt, Pháp và Tăng xót thương.
Hồng ân tức là ân lớn. Chúng ta được che chở hay không là do chúng ta có thực tập giới, định và tuệ hay không. Nếu thực tập giới – định – tuệ mỗi ngày thì ân lớn của Tam bảo là Bụt, Pháp và Tăng sẽ luôn che chở cho chúng ta.
B. SÁM HỐI (LÀM MỚI)
Chúng con biết rõ
Tự thân nghiệp chướng còn nặng
Phúc đức còn mong manh
Tri giác vẫn thường hay sai lầm
Tuệ căn vẫn còn chưa vững chãi,
Tâm nhiễm ô còn dễ phát khởi
Văn tư tu chưa thực sự vững bền
Giờ phút này ngưỡng vọng đài sen
Năm vóc cùng gieo xuống
Mong lượng từ mở rộng
Chúng con xin trải hết lòng ra.
Điều chúng ta thường thấy khi trở về nhìn vào bản thân là nghiệp chướng còn nặng. Nghiệp chướng là những hành động sai lầm trong quá khứ và hiện giờ kết quả vẫn còn nặng nề, cụ thể là những thói quen tiêu cực biểu hiện mỗi ngày: thói quen hờn dỗi, thói quen làm biếng, thói quen không nắm được thân tâm. Ta biết rằng, có những điều nếu ta nói ra hay hành động, sẽ làm tan vỡ tình nghĩa, sẽ đổ vỡ mọi thứ, nhưng vì tập khí trong ta quá mạnh nên ta vẫn nói, vẫn hành động như có thế lực của ma quỷ xui khiến. Đó là tập khí, là ma tập khí, là nghiệp, do nghiệp còn nặng. Sau khi nói rồi, làm rồi thì ta hối hận, tự bảo tại sao ta dại dột như vậy. Thật ra ta không dại dột, ta biết rõ nếu nói hay làm điều đó thì sẽ gây ra nhiều đổ vỡ. Nhưng vì nghiệp chướng còn nặng, tập khí còn nặng cho nên ta vẫn cứ nói, cứ làm. Những tập khí này đôi khi không phải do chính ta tạo ra mà do năng lượng nhiều đời trao truyền lại cho ta, có thể là từ cha mẹ hay ông bà. Không hẳn một mình ta chịu trách nhiệm cho tập khí ấy. Đó là cộng nghiệp. Ví dụ ngày xưa ta đã bị mẹ chồng đày ải và bây giờ hạt giống làm mẹ chồng cũng có trong ta và ta lại làm khổ con dâu của ta. Điều đó cứ tiếp tục luân hồi: sự đày ải, dằn vặt, làm khổ nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu ta không thực tập thì không chuyển hóa được tập khí này mà sẽ để cho nó tiếp tục hành trình luân hồi. Khi nhìn vào thân và tâm, ta thấy quả thật mình có tập khí đó, nó đày ải ta và gây ra đổ vỡ. Nghiệp đó trở thành một chướng ngại (obstacle). Khi ta nói người ấy sao chướng quá, nghĩa là người ấy bị những chướng ngại về tham, sân, si, sự ngang bướng,… những cái chướng đó làm cho người ấy khổ. Nhờ sống có chánh niệm, ta trở về và nhận biết được nghiệp và chướng nào đang hiện có trong ta.
Tự thân nghiệp chướng còn nặng
Phúc đức còn mong manh.
Nghiệp và chướng là những điều tiêu cực. Phúc và đức là những điều tích cực. Nhưng phúc và đức của ta đều còn ít. Phúc là những hoa trái của hành động tốt trong quá khứ mà ta đã gieo trồng. Đức là những thói quen tốt như: sự thương người, sự không kỳ thị, sự siêng năng, khả năng tha thứ,… Ta có phước đức là nhờ ông bà, cha mẹ trao truyền cho ta nhưng phước đức đó chưa đủ lớn. Do vậy, ta phải tu tập để tạo ra sự cân bằng giữa phước đức và nghiệp chướng. Mai này phước đức sâu dày hơn thì nghiệp chướng sẽ nhẹ bớt.
Tri giác vẫn thường hay sai lầm.
Chúng ta thường ba chớp ba nhoáng trong khi nghe, nhìn nên mới phát sinh những vọng tưởng. Nhìn sợi dây mà tưởng là con rắn. Người khác không làm khổ ta mà cứ tưởng họ muốn làm khổ ta. Tình trạng hiện thực là ta đang chứa đầy những tri giác sai lầm. Cho nên, tu tập chánh niệm là để ta có cơ hội tự hỏi, không biết tri giác của mình có sai lầm hay không? Thành ra, ta phải có bạn để mỗi khi ta buồn giận thì người bạn hỏi: “Bạn có chắc chắn là mình đúng không?” (Are you sure that your perception is correct?). Chúng ta phải nâng đỡ nhau, phải nói với nhau rằng: “Anh khổ, chị khổ nhưng anh, chị phải thử nhìn lại xem cái khổ này có phải do tri giác sai lầm gây ra hay không?”. Một người bạn tu nhắc nhở mình như vậy thì đó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh, là cánh tay của đức Từ Bi cứu độ. Chúng ta phải giúp nhau, nhắc nhở nhau rằng hầu hết những khổ đau được gây ra là do những tri giác sai lầm. Như vậy, ta trở về và nhận ra là nghiệp chướng của ta còn nặng, phước đức của ta còn mong manh và tri giác của ta vẫn thường hay sai lầm. Đó là nhận diện sự thật về bản thân.
Tuệ căn vẫn còn chưa vững chãi.
Tuệ căn là một trong năm căn. Năm căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ) rất quan trọng cho sự thành công của công phu tu học. Tuệ căn của chúng ta còn chưa vững chãi, nghĩa là ta đang còn nghèo nàn về phương diện trí tuệ. My capacity of understanding is still poor. Điều này cũng có nghĩa là tri giác sai lầm còn nhiều quá. Tu tập là để làm cho năm căn ngày càng vững chãi.
Văn tư tu chưa thực sự vững bền.
Văn, tư, tu là quá trình tu học. Văn là lắng nghe giáo pháp của đức Thế Tôn, khi đó ta lấy tư cách của một Thanh văn. Chúng ta đang nghe kinh là đang thực tập thanh văn, tức là nghe pháp. Ta tiếp tục chiêm nghiệm, quán chiếu những điều đã nghe để hiểu và thấy rõ những điều đó, gọi là tư. Và khi nghe rồi, hiểu rồi, tư duy rồi thì mới áp dụng vào đời sống hằng ngày, gọi là tu. Tóm lại, văn – tư – tu là quá trình học hỏi, quán chiếu và áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Giờ phút này ngưỡng vọng đài sen
Năm vóc cùng gieo xuống,
Mong lượng từ mở rộng
Chúng con xin trải hết lòng ra.
Chúng ta thấy được những yếu kém của bản thân nên hôm nay ta chắp tay lại, hướng về đài sen. Năm vóc là đầu, hai tay, hai chân chấm đất, mọp xuống (ngũ thể đầu địa). Lượng từ, lượng tức là dung tích (volume). Đức Thế Tôn có lượng từ bi rất lớn, không gian chứa đựng lòng từ của Ngài lớn đến nỗi lượng từ đó có thể bao trùm được cả thái hư. Lượng từ đã mở rộng, vấn đề là ta có chịu đi vào lượng từ đó hay không.
Bậc đại giác viên mãn
Xuất hiện nơi cõi ta bà
Tấm lòng ôm trọn cả thái hư.
Đại viên mãn giác
Ứng tích Tây càn
Tâm bao thái hư.
大圓滿覺
應跡西乾
心包太虛.
Tâm bao thái hư: trái tim của Bụt ôm trọn cả vũ trụ. Tâm là trái tim, bao là ôm lấy, thái hư là vũ trụ.
Mong lượng từ mở rộng: chúng con quỳ xuống và xin đức Thế Tôn mở lượng từ bi, hải hà của Ngài.
Trải hết lòng ra: tức là trải hết những yếu kém của con ra. Thường thường đối với người khác thì ta tự ái, không muốn để họ thấy những yếu kém, tiêu cực của ta. Ta không can đảm mà giả bộ can đảm. Ta có ít tình thương mà giả bộ có nhiều tình thương. Ta không vững chãi, ta ít thảnh thơi, ta không có hạnh phúc mà làm ra vẻ có rất nhiều vững chãi, thảnh thơi và hạnh phúc. Tất cả những điều đó đều là giả dối. Nhưng một khi đã đến với đức Thế Tôn thì ta phải buông hết những giả dối đó, và trải hết lòng ra. Khi lạy xuống một cách thành tâm, ta ngửa hai bàn tay lên, đưa những ngón tay thẳng ra, ta muốn nói rằng “con không giấu gì trong hai bàn tay của con hết, đức Thế Tôn có thể thấy hết cả ruột gan của con”.
Đệ tử chúng con
Từ muôn kiếp xa xưa
Vì không nhận diện được bản tâm thanh tịnh.
Ta vốn có chân tâm (true mind) nhưng vì không thấy, không nhận diện được, ta để cho vọng tâm xuất hiện và chạy theo vọng tâm đó.
Nên đã chạy theo trần cảnh.
Trần là bụi bặm, cảnh là đối tượng. Trần cảnh tức là đối tượng bụi bặm. Khi cảnh là trần cảnh thì tâm là vọng tâm. Ta không tiếp xúc được với chân tâm và để cho vọng tâm phát khởi. Khi vọng tâm phát khởi thì đối tượng của vọng tâm là trần cảnh, là cảnh bụi bặm. Và ta chạy theo cảnh bụi, chạy theo đối tượng bụi bặm không biết đã bao lâu. Ta miệt mài trong cõi bụi để chạy đuổi theo bóng dáng của hạnh phúc, chạy theo đối tượng của ngũ dục.
Lên non vùi hạt bồ đề,
Xôn xao để lại dưới kia bụi hồng.
Đây là một thái độ ngược lại. Ta lên núi tìm thầy và quyết tìm cho được hạt bồ đề. Không phải ta vùi hạt bồ đề trên núi mà là vùi trong trái tim ta. Ta biết rằng nếu ta vùi hạt bồ đề trong trái tim, mỗi ngày đều tưới tẩm nó thì một ngày kia hạt bồ đề sẽ phát triển thành cây, nở hoa và cho trái bồ đề. Ta chỉ có thể làm được điều đó nếu bỏ lại dưới chân núi những đối tượng của thèm khát, giận hờn. Tất cả bụi hồng, ta không đem lên núi, ta phải để lại hết dưới chân núi.
Ba nghiệp nhiễm ô.
Ba nghiệp – thân, khẩu, ý đều đã ô nhiễm, the pollution of the body, the pollution of the speech, the pollution of the mind. Ba nghiệp nhiễm ô chỉ vì một nguyên do duy nhất là vọng tâm, là do ta chạy theo trần cảnh.
Đắm trong tham ái mê mờ
Ghét ghen hờn giận.
Tình trạng thật của ta là bị chìm đắm trong những tâm hành như thèm khát, vướng mắc, ngu si.
Nay nhờ chuông đại hồng khua vang tỉnh mộng.
Nghe một tiếng chuông ta bỗng giật mình, thấy rằng mình đã đi qua những quãng đường dài hun hút của sự lạc lối, mê mờ. Tiếng chuông giúp ta tỉnh dậy, đó là giác.
Quyết một lòng làm mới thân tâm.
I am determined to begin anew with my body and my mind. Mỗi buổi sáng ta thực tập nghe chuông là để có cơ hội tỉnh mộng.
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sinh tử
Giác ngộ tâm tư một hướng về.
Mỗi ngày, các sư cô, sư chú đều thỉnh chuông đại hồng vào sáng sớm. Thỉnh chuông cho muôn loài có cơ hội để tỉnh dậy. Khi đã tỉnh dậy, ta sẽ quyết lòng làm mới lại, không muốn đi theo con đường cũ nữa.
Bao nhiêu tội ác lỡ lầm
Nguyện xin hoàn toàn gột sạch.
Ác ở đây nghĩa là không mang đến lợi lạc, không tạo ra được hoa trái của sự vững chãi và thảnh thơi cho thân và cho tâm chứ không có nghĩa là độc ác. Thiện là những gì bồi bổ thêm cho giải thoát, cho an lạc, cho hạnh phúc. Ví dụ khi ta nghe một bài nhạc đứt ruột, xem một bộ phim vô bổ, đó không phải là giết người, không phải là nói dối, không phải là uống rượu, nhưng đó cũng là một ác nghiệp, vì không có lợi cho sự an lạc, giải thoát. Trong đạo Bụt, những gì không có lợi ích cho thân tâm, không hướng về giải thoát, an lạc và giác ngộ đều gọi là ác. Ác không phải là hung dữ (méchant), mà có nghĩa là tiêu cực (négative). Gột sạch là làm cho tinh khôi trở lại.
C. NGUYỆN
Nguyện có nghĩa là hứa, cam kết về việc hành trì.
Chúng con giờ phút này đây
Lập nguyện sâu dày.
Sâu dày có nghĩa là cho thật vững. Vừa sâu vừa dày như đất.
Xa lìa tập khí cũ.
Tập khí là những thói quen xấu. Ta nhận thấy ta có tập khí rồi thì nhất định phải xa lìa tập khí đó.
Suốt đời về nương tựa tăng thân.
Đây là điều cụ thể nhất. Thử hỏi, nếu anh muốn tu mà không nương tựa tăng thân thì làm sao anh tu được? Cho nên, anh phải làm đủ mọi cách để có một tăng thân. Khi đã có tăng thân, anh phải tiếp xúc với tăng thân, phải nương tựa vào tăng thân (take refuge in the sangha). Nếu anh không có tăng thân, không bám lấy tăng thân, không sống với tăng thân thì không cách gì anh tu được. Dù có thiện chí tu tập nhưng sau vài ba tuần anh cũng bỏ bê sự hành trì của mình vì không có tăng thân để được nâng đỡ, để được soi sáng. Do đó, chúng ta nguyện suốt đời về nương tựa tăng thân. Chúng ta đã nói rằng, chúng ta quy y Bụt, quy y Pháp và bây giờ chúng ta quy y Tăng. Quy y Tăng là quy y Bụt và quy y Pháp một cách rất cụ thể. Nói quy y Bụt, quy y Pháp mà không quy y Tăng, tức là chưa quy y Bụt, chưa quy y Pháp. Quy y Tăng, nương vào tăng thân thì mới thực sự quy y Bụt và quy y Pháp, bởi vì trong lòng tăng thân có Phật thân và Pháp thân.
Xin Bụt đưa cánh tay ân cần
Từ bi nâng đỡ.
Nguyện trong khi thiền tập
Nguyện những lúc pháp đàm
Lúc đứng, khi đi
Nấu cơm, rửa bát
Nằm, ngồi, làm việc
Giặt áo, kinh hành
Trì niệm hồng danh
Thắp hương, lạy Bụt,
Mỗi bước chân sẽ đem về an lạc
Mỗi nụ cười sẽ tỏa chiếu thảnh thơi.
Đó là một lời cam kết rất cụ thể. Con không nguyện, không cam kết những điều vu vơ. Con cam kết làm những điều rất đơn giản, rất thường nhật, rất nhật dụng. Giá trị sự tu học của anh nằm trong nhật dụng. Anh có thể nói trời, nói biển, nói rất cao siêu, nhưng nếu anh không chứng tỏ được những điều đó trong sự hành trì mỗi ngày của mình thì tôi không tin anh được. Bởi vì nhật dụng là tất cả. Giá trị, hoa trái của sự tu học đều nằm trong nhật dụng. Nếu không có nhật dụng đó thì không có cái gì hết. Trong những giây phút của các sinh hoạt hằng ngày như: đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, giặt áo, kinh hành, thắp hương, lạy Bụt,… mỗi bước chân phải có an lạc, mỗi nụ cười phải tỏa chiếu thảnh thơi. Tức là ta phải có chánh niệm trong tất cả mỗi động tác của đời sống hằng ngày. Đó là sự thực tập căn bản (basic practice).
Sống chánh niệm trong mỗi phút giây
Là chỉ dạy cho người
Thấy con đường thoát khổ.
Ba câu này rất quan trọng. Nghĩa là nếu dạy người khác, ta phải dạy bằng thân giáo trước, dạy bằng cuộc đời của ta trước. Thánh Gandhi có nói: “My life is my message”. Mahatma Gandhi dạy người ta bằng đời sống của Ngài vì Ngài sẽ làm những điều Ngài nói. Chúng ta cũng vậy, cũng phải làm những điều ta nói, nếu không thì những điều ta nói không có chút kí lô nào cả. Ngày xưa có một ông thầy giáo thường hút thuốc, uống rượu, chửi bới, thế nhưng trong giờ đạo đức học, ông dạy học trò không được hút thuốc, không được uống rượu, không được chửi bới, học trò của ông đã cười ông quá chừng. Ông mắc cỡ và nói: “faire ce que je dis, pas ce que je fais!” (Hãy làm những điều tôi nói, đừng làm theo những điều tôi làm). Chúng ta đừng như ông thầy giáo đó. Chúng ta phải biết chia sẻ, chỉ dạy những pháp môn cho người khác bằng sự thực tập của chính mình. Thân giáo là lời cam kết của chúng ta.
Nguyện thấy được Tịnh độ
Dưới mỗi bước chân mình.
Đây là Tịnh độ. Tịnh độ là đây. Tịnh độ không phải chỉ hiển hiện sau khi mình chết. Ta phải đi vào Tịnh độ ngay trong giờ phút hiện tại. Mỗi bước chân phải có sự an lạc, thảnh thơi. Nguyện thấy được Tịnh độ, dưới mỗi bước chân mình (I vow to touch the pure land with every step). Nếu thực tập như vậy trong vài ngày thì ta đã có sự chuyển hóa.
Nguyện tiếp xúc bản môn
Trong mỗi khi hành xử.
Bản môn là thế giới không sinh không diệt, gọi là bất tư nghị. Nhập bất tư nghị cảnh giới, đó là thế giới của kinh Hoa nghiêm. Ta phải thấy được bản môn trong khi hành xử. Ta hành xử không phải vì cái chốc lát, mà vì cái muôn đời. Nụ cười của anh, lời nói, bước chân của anh phải có giá trị muôn đời. Và như vậy, không có sự phân biệt giữa cứu cánh và phương tiện. Cứu cánh là phương tiện, phương tiện là cứu cánh. There is no way to happiness, happiness is the way. There is no way to peace, peace is the way. There is no way to nirvāṇa, nirvāṇa is the way. There is no way to liberation, liberation is the way. Đó là giáo lý của chúng ta. Hạnh phúc và an lạc phải có ngay bây giờ. Giải thoát, giác ngộ, Niết bàn phải là mỗi bước chân, mỗi hơi thở.
Bước trên thật địa
Thở giữa chân không.
Mỗi bước chân của chúng ta phải bước trên thật địa. Chúng ta không đi như những người mộng du. Hầu như trong cuộc đời, phần lớn người ta bước trên mặt đất mà như bước trên cung trăng. Chúng ta nghĩ đâu đâu mà không đặt được những bước chân vững chãi trên thực tế. Trần Thái Tông nói: “Bộ bộ đạp trước thật địa”, mỗi bước chân phải giẫm trên lãnh thổ của thực tại. Vua Trần Thái Tông không phải là người xuất gia nhưng vua thực tập tinh cần hơn cả người xuất gia. Mỗi ngày vua thực tập sám hối, làm mới sáu lần. Cứ bốn giờ đồng hồ là vua thực tập sám hối khoảng 15 phút, sám hối xong thì đi làm việc nước. Lục thời sám hối khoa nghi là một tác phẩm của vua. Hiện giờ tại thiền viện Trúc Lâm ở Lâm Đồng, thầy Thanh Từ cho các thầy thực tập theo Lục thời sám hối khoa nghi.
Thở giữa chân không. Mỗi hơi thở giúp ta thấy được chân không (true emptiness), tức là chân lý tương tức và tương nhập của thế giới.
Thắp lên trí sáng diệu tâm
Màn vô minh quét sạch.
Trí sáng diệu tâm ở đây nghĩa là chánh niệm. Chánh niệm là ngọn đèn khi thắp sáng lên thì bóng tối của u mê, quên lãng, thất niệm sẽ tan biến, gọi là màn vô minh quét sạch. Vô minh là sống mà không biết mình sống, sống mà không an trú trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Thắp đèn lên thì bóng tối tan biến, chánh niệm có mặt thì vô minh liền biến mất.
Thân tâm tịnh lạc
Tư thái thong dong.
Nếu sống có chánh niệm thì thân – tâm an tịnh, hạnh phúc, không bước đi một cách vội vã; sự thảnh thơi, an lạc được biểu hiện một cách rõ ràng. Mỗi sư cô, mỗi sư chú thực tập chánh niệm là phải có sự thảnh thơi, an lạc. Nhìn vào, người khác sẽ biết ta có thảnh thơi, an lạc hay không, không thể giấu giếm được.
Đến phút lâm chung
Lòng không luyến tiếc.
Phút lâm chung nghĩa là giờ phút ta đổi thân xác này và không còn luyến tiếc điều gì nữa cả. Những người thân của ta cũng không nên luyến tiếc vì biết rằng đây chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp, không phải là sự chấm dứt. Chiếc lá rụng không đáng cho mình khóc vì chiếc lá chỉ lên đường chuyển hóa để bắt đầu một giai đoạn mới.
Thân không đau nhức
Ý không hôn mê
Nhờ thực tập nên ta không co rúm lại vì lo sợ nữa. Trong chúng ta có những người rất hay sợ hãi, mới hơi có triệu chứng gì trong người là đã hoảng hốt, sợ sệt. Như vậy, cái đau cơ thể mới có một thì sự sợ hãi đã làm cho cái đau nơi tâm hồn lập tức nhân lên mười lần. Chúng ta tự đày mình xuống địa ngục vì sự vô minh, sợ hãi. Nếu thực tập đàng hoàng thì thân tâm ta sẽ buông thư và những đau nhức trong cơ thể sẽ giảm bớt.
Chánh niệm rõ ràng
Tĩnh lặng sáu căn
Buông bỏ báo thân
Như vào thiền định.
Đây là mong ước của tất cả những người tu. Cũng giống như chiếc lá khi rụng xuống, nó múa một cách rất ngoạn mục. Giờ phút chuyển hóa từ kiếp này sang kiếp khác, ta mong ước mình sẽ chết một cách đẹp đẽ như vậy, a happy dying, a beautiful dying. Nếu thực tập đàng hoàng, khi chết ta sẽ chết thật đẹp. Một cái chết như vậy sẽ tiếp tục là một bài học cho những người khác. Chết mà không chết mới gọi là chết. Chết mà không thấy mình chết, tại vì ta chết mỗi giây mỗi phút để ta sống lại mỗi giây mỗi phút. Ta có mặt ở khắp nơi chứ không phải chỉ ở đây mà thôi. Đó là kết quả của những người tu chánh niệm vững chãi trong đời này.
Đây là đoạn nói về sự phát nguyện cho bản thân. Những câu kế tiếp ta nguyện cho những người khác. Tu tức là tự độ, rồi tới độ tha.
Nếu cần thọ sinh kiếp khác
Sẽ lại làm đệ tử đức Như Lai
Tiếp theo sự nghiệp cứu đời
Đưa mọi loài về bến giác.
Nếu con cần sinh ra trở lại thì con cũng sẽ muốn làm đệ tử đức Như Lai (I want to continue as your disciple, as your brother, as your son, as your daughter).
Tiếp theo sự nghiệp cứu đời. Kiếp này con đã tham dự vào sự nghiệp của đức Thế Tôn và kiếp sau con cũng muốn tiếp tục được tham dự vào sự nghiệp của đức Thế Tôn, vì sự nghiệp của đức Thế Tôn là muôn đời. Ngài đã nhập Niết bàn cách đây 2.500 năm nhưng sự nghiệp của Ngài vẫn tiếp tục và chúng con là những người may mắn được tham dự vào. Được tham dự vào sự nghiệp của đức Thế Tôn là một hạnh phúc rất lớn. Vì vậy, con không chỉ muốn tham dự vào sự nghiệp của Ngài trong kiếp này mà còn muốn kiếp sau cũng tiếp tục được như thế (I want to continue, happy continuation). Chết như vậy rất hoan hỉ vì ta thấy đệ tử của ta đang tiếp tục sự nghiệp của Đức Thế Tôn, có nghĩa là ta cũng đang tiếp tục. Nếu còn một tàn dư nữa thì ta sẽ trở lại, đầu tư hết tất cả vào trong sự nghiệp cứu đời. Cũng như chiếc lá, suốt một mùa xuân, mùa hè nó đã đầu tư hết vào trong cây, bây giờ nó chỉ còn lại xác lá, nhưng dù chỉ là xác lá nó vẫn muốn đầu tư tiếp nữa: nó rơi xuống đất, biến thành phân để nuôi cây. Ta cũng như vậy, khi chết ta chỉ còn một chút tàn dư là cái xác này thôi, nhưng một khi ta đang theo sự nghiệp của đức Như Lai, dù ta đã đi xa rồi nhưng với một chút tàn dư này ta cũng sẽ đầu tư thêm nữa. Thành ra, trong tinh thần này thì chết là một điều gì đó rất vui.
Thành tựu ba thân, bốn trí.
Ba thân (Tam thân, 三身, trikāya) là pháp thân, báo thân, ứng thân. Pháp thân (法身, dharmakāya) thì chúng ta ai cũng đều có. Báo thân (報身, saṃbhogakāya) là thân hưởng thọ được những phước báu của sự thực tập, rất đẹp. Ứng thân (應身, nirmāṇakāya) là những hóa thân có mặt khắp nơi để độ đời. Mỗi người chúng ta đều đã có hóa thân mà không biết. Ta có mặt ở đây nhưng đồng thời ta cũng có mặt ở nơi khác. Nếu ta tu hành cho đàng hoàng thì hóa thân của ta cũng đang có mặt ở nhiều nơi. Ta ngồi ở đây nhưng kỳ thực ta cũng đang có mặt ở gia đình. Ta ở phương Tây nhưng ta cũng đang có mặt ở Việt Nam. Ta ngồi yên ở đây thì khắp chốn đều có sự yên ổn.
An vui nơi này, an khắp mọi nơi là lời một bài hát của sư cô Giải Nghiêm. Ngồi ở đây mà an thì năng lượng an đó sẽ thấm khắp mười phương. Quý vị cứ tưởng tượng những cuốn băng của thầy, hiện giờ đang chu du khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam. Trong khi thầy đang ngồi đây, thì ngay giờ phút này hiện có những người lái xe đi làm và đang nghe thầy thuyết pháp. Có những tù nhân đang thực tập thiền tọa và thiền hành theo lời hướng dẫn của thầy trong tù, có nghĩa là thầy cũng đang có mặt trong nhà tù, đang có mặt trong địa ngục. Có những nhà xuất bản ở Brazil, ở Thái Lan đã in những quyển sách của thầy, chúng ta đã cam kết dùng số tiền bản quyền có được giúp cho con nít đói. Cho nên có những em bé đói, đang ăn một miếng cơm, miếng cơm đó là từ tiền bản quyền sách, chứng tỏ là hóa thân của thầy đang có mặt với miếng cơm đứa bé đang ăn. Như vậy, chúng ta không đợi đến lúc thành bậc toàn giác như đức Thích Ca Mâu Ni thì mới hóa thân, nếu ta tu hành cho đàng hoàng, ta vẫn có hóa thân khắp nơi. Lúc đó, cha mẹ ta được nhờ, anh em, đồng bào ta được nhờ. Sự an vui của ta là sự an vui của cả dòng họ, của quốc gia, của thế giới. Ta điên loạn thì thế giới điên loạn, ta an vui thì thế giới an vui. Vì vậy, mỗi người trong chúng ta đều có pháp thân, báo thân, ứng thân và càng tu tập thì ta càng thành tựu ba thân đó một cách vững chãi.
Bốn trí tức là bốn mặt của trí tuệ.
1. Trí thứ nhất là trí đại viên cảnh, 大圓鏡智, tiếng Phạn là ādarśa jñāna, tiếng Anh là the wisdom of the great mirror. Đại viên cảnh tức là một tấm gương tròn, lớn. Khi trong tàng thức của ta, những hạt giống xấu chuyển hóa, những hạt giống tốt biểu hiện thì tâm ta có tác dụng soi sáng như một tấm gương. Trí này do thức thứ tám là tàng thức được tu tập chuyển hóa mà trở thành như một tấm gương tròn lớn.
2. Trí thứ hai là trí bình đẳng tánh, 平等性智, tiếng Phạn là samatājñāna, tiếng Anh là the wisdom of equanimity. Trí này cho chúng ta thấy được tính cách tuyệt đối bình đẳng giữa chúng sanh này với chúng sanh khác, không có sự kỳ thị, phân biệt. Tôi là anh, anh là tôi, chúng ta không phải là hai. Loài này tương tức với loài khác. Cái thấy đó gọi là cái thấy tương tức, đó là cái thấy khi sự phân biệt về ngã được lấy đi. Đó là cái thấy bình đẳng. Trí này do thức thứ bảy là mạt na chuyển hóa mà thành.
3. Trí thứ ba là trí diệu quan sát, 妙觀察智, tiếng Phạn là pratyavekṣaṇa-jñāna, tiếng Anh là the wisdom of wonderful observation, là trí tuệ có thể quán chiếu được mười phương, có thể thấy rất rõ ràng mà không còn tri giác sai lầm nữa. Trí này do thức thứ sáu là ý thức chuyển hóa mà thành, nhờ vào sự tu học.
4. Trí thứ tư là trí thành sở tác, 成所作智, tiếng Phạn là kṛtyānuṣṭhāna-jñāna, tiếng Anh là the wisdom of wonderful realization, là trí có thể thực hiện được tất cả những gì mà mình mong muốn. Trí này do năm thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức) khi không còn sai lầm nữa mà thành.
Năm thức cảm giác, khi không còn sai lầm nữa thì trở thành trí thành sở tác. Thức thứ sáu khi không còn sai lầm nữa thì trở thành trí diệu quan sát. Thức thứ bảy khi không còn sai lầm nữa thì gọi là trí bình đẳng tánh. Thức thứ tám khi không còn sai lầm nữa thì gọi là trí đại viên cảnh. Đây là bốn trí của người giác ngộ từ tám thức mà chứng thành.
Sử dụng năm mắt, sáu thần thông
Năm mắt là mắt thịt (nhục nhãn), mắt trời (thiên nhãn), mắt chánh pháp (pháp nhãn), mắt tuệ (tuệ nhãn) và mắt Phật (Phật nhãn).
Mỗi ngày chúng ta chỉ dùng mắt thịt thôi. Mắt trời là con mắt có thể nhìn được rất xa. Pháp nhãn là con mắt của chánh pháp. Tuệ nhãn là con mắt của trí tuệ. Phật nhãn là con mắt của bậc giác ngộ. Tại Làng Mai, ta còn dùng một con mắt nữa là Tăng nhãn, con mắt của tăng thân. Mắt Tăng rất quan trọng. Cho nên sau này chúng ta có thể tụng Sử dụng sáu mắt, sáu thần thông.
Sáu thần thông là thiên nhãn thông (nhìn thấy được vạn vật gần xa), thiên nhĩ thông (nghe được mọi loại âm thanh), thần túc thông (di chuyển khắp nơi một cách tự do), tha tâm thông (biết được người kia đang nghĩ gì), túc mạng thông (nhớ được những gì xảy ra của các kiếp trước), lậu tận thông (chuyển hóa được tất cả phiền não). Lậu tận thông là thần thông lớn nhất. Hiện nay, muốn có thiên nhĩ thông thì dùng điện thoại di động. Muốn có thiên nhãn thông thì dùng ti vi. Muốn có thần túc thông thì đi máy bay.
Hóa hiện ngàn vạn ứng thân
Có mặt một lần trong ba cõi
Ra vào tự tại.
Những chuyện này giống như xa vời lắm nhưng ta có thể làm được. Ta vừa có mặt trên xóm Thượng, vừa có mặt dưới xóm Hạ, vừa có mặt ở xóm Mới. Nếu tu hành cho đàng hoàng thì ta có thể làm gương cho tất cả sư anh, sư chị, sư em, ta có mặt khắp tất cả. Ra vào tự tại (xuất nhập vô ngại): đi vào địa ngục cũng được, đi lên thiên đường cũng được.
Hóa độ mọi loài
Không bỏ một ai
Tất cả đều đưa lên bờ không thối chuyển.
Chuyển hóa và đưa người qua bờ giải thoát, không loại ai ra khỏi, gọi là hành bất xả (不捨). Một mặt ta phải thực tập xả, tức là buông bỏ để không có vướng mắc. Một mặt ta không bỏ một ai hết. Hai cái đó đi đôi với nhau và ta phải thực tập cả hai. Bất thối chuyển (不退轉, tiếng Phạn là avaivartika, tiếng Anh là no return), là không bị sa đọa trở lại. Danh từ này có trong kinh A Di Đà, gọi là A bệ bạt trí.
Đoạn nói về phát nguyện, hành trì ở trên gồm có phần hành trì cho bản thân và phần hành trì cứu độ mọi loài. Nếu chúng ta tụng bài này cho sâu sắc, năng lượng chánh niệm sẽ được chế tác rất nhiều.
D. BỒ ĐỀ TÂM
Đây là đoạn cuối nói về bồ đề tâm của ta, về ước vọng lớn của ta (the great aspiration).
Thế giới vô tận
Chúng sanh vô tận
Nghiệp và phiền não
Đều cũng vô tận
Nguyện con cũng thế
Sẽ là vô tận.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Phiền não là vô tận mà nguyện của ta cũng vô lượng, cả hai điều ấy đều tương đương nhau.
Con nay xin lạy Bụt phát nguyện
Tu trì công đức
Chia sẻ với muôn loài hữu tình.
Những công đức hôm nay ta có được do sự tu tập và hành trì, ta xin chia sẻ với mọi loài.
Để báo được trọn vẹn bốn ơn
Và giáo hóa khắp nơi trong ba cõi
Xin nguyện cùng tất cả mọi loài chúng sanh
Hoàn thành tuệ giác lớn.
Đây là lời xác nhận lại mục đích của đời ta. Mục đích đời ta không phải là thực hiện một cái gì nho nhỏ mà phải làm được một cái gì rất lớn. Không phải là lập một gia đình có chồng hay vợ và ba con, không phải là được làm chủ một hãng bào chế dược phẩm, không phải chỉ làm hội trưởng một hội Phật giáo… Nguyện của ta lớn hơn nhiều, đó là nguyện độ hết tất cả chúng sanh. Người tu ai cũng phải có ước nguyện lớn (đại nguyện), gọi là bồ đề tâm (bodhicitta). Tuệ giác lớn (the greatest wisdom), tiếng Phạn là Anuttarā-samyak-saṃbodhi. A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (阿耨多羅三藐三菩提), dịch là vô thượng chánh đẳng chánh giác (無上正等正覚), tức là sự giác ngộ chân chính, cao hơn hết thảy, không có gì sánh bằng. Mahābodhi là đại bồ đề, là tuệ giác lớn. Đạt được tuệ giác lớn là mục đích của chúng ta.