Con đi cho Mẹ

(Sư Cô Chân Lạc Hạnh)

Sư cô Chân Lạc Hạnh, xuất gia tại Làng Mai Thái Lan năm 2022 trong gia đình xuất gia Cây Xích Tùng. Hiện sư cô đang tu tập và phụng sự tại chùa Từ Nghiêm, xóm Mới.

Năm vừa rồi, ở Làng đã trải qua ba tháng An cư kiết đông với chủ đề trọng tâm là đạo đức, cụ thể hơn là những đóng góp của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu. Là một xuất sĩ theo truyền thống Làng Mai, chúng con có những giới luật và uy nghi giúp nuôi dưỡng và giữ gìn nếp sống phạm hạnh. Đối với con, nếp sống ấy không chỉ nuôi dưỡng thân tâm mà còn giữ gìn và bảo hộ được ba nghiệp thân-khẩu-ý trong hiện tại, góp phần chuyển hóa những lầm lỗi, hối tiếc trong quá khứ và đảm bảo cho một tương lai tươi sáng hơn. Nếp sống an lành, nhân ái từ bi, có hiểu có thương vẫn luôn là kim chỉ nam định hướng cho cuộc đời con.

Điều gì là đúng đắn?

Đó là câu hỏi mà con phải đối diện nhiều lần trong đời. Có những lúc con thấy mình đứng chênh vênh giữa ngã ba đường, tê liệt khi nhận ra rằng bất kỳ quyết định nào mình đưa ra sẽ đưa mình đến những hướng đi khác nhau và định hình nên số phận cuộc đời mình. Con tự cân nhắc những điểm tích cực và tiêu cực, mường tượng những viễn cảnh có thể xảy ra, đau đầu khi không biết phải làm gì, cứ như vậy tâm trí và trái tim giằng xé lẫn nhau. Con chật vật khi đưa ra những quyết định lớn, cảm tưởng như chắc chắn là có một quyết định khác đúng đắn hơn, mặc dù không phải lúc nào cũng rõ ràng và dễ nắm bắt.

Điều gì là đúng đắn?

Ngày 29 tháng 12 năm 2014 là ngày con gặp mẹ ruột của mình, hay đúng hơn là gặp lại mẹ ruột, sau hơn 40 năm xa cách kể từ khi chào đời. Năm ấy cũng là năm đầu tiên và duy nhất con được sống với mẹ. Dòng đời xô đẩy, con và mẹ đi theo những ngã rẽ cuộc đời khác nhau, cho đến khi con gặp lại mẹ ở nơi con đã được sinh ra. Lúc ấy, mẹ đang nằm trong bệnh viện, mọi sinh hoạt đều phụ thuộc vào người khác, không thể nói năng, và hoàn toàn bị liệt do lần đột quỵ 15 năm về trước. Nhờ tìm thấy và kết nối được với người cha ruột khoảng hai năm về trước, con có thêm động lực để tìm kiếm gia đình huyết thống của mình. Nhưng rồi khi gặp lại mẹ trong bệnh viện, mọi hy vọng, mong mỏi khám phá thêm về nguồn cội của mình phút chốc bỗng tan tành mây khói.

Chuyện tìm hiểu về quá khứ không còn quá quan trọng đối với con nữa. “Mình phải làm gì bây giờ?” và “Làm thế nào để tiến bước về phía trước?”, đó là những câu hỏi mà con quan tâm nhiều hơn. Nhưng con lại không có câu trả lời. Những gì đi lên trong con đều chứa đầy “điều nên làm” hoặc những gì con nhận thấy mọi người đang trông đợi nơi con. Tất cả đều là sự tưởng tượng của con, vì chẳng ai nói ra điều họ mong muốn con phải làm. Mẹ ruột của con phải sống cô độc và không nói được nên bà không thể cho con biết là con cần phải làm gì. Người anh ruột mù lòa của mẹ (cậu của con) cũng chính là người giám hộ và cho phép con được gặp mẹ, cũng chưa một lần đòi hỏi hay yêu cầu gì từ con. Con được một gia đình khác nhận nuôi, không lớn lên trong vòng tay của mẹ ruột nên bạn bè và gia đình không thể hiểu vì sao con cảm thấy mình có trách nhiệm chăm sóc mẹ ruột như vậy. Một mặt nào đó, con thấy mình cần có trách nhiệm.

Con có cảm giác bất lực và vô vọng khi không biết điều gì là đúng đắn cần làm trong hoàn cảnh phức tạp ấy. Là con gái ruột của mẹ, nhưng con lại có một người mẹ khác. Ngay cả ngôn ngữ mẹ đẻ để giao tiếp và trò chuyện với mẹ cũng như hiểu biết về văn hóa nguồn cội Hàn Quốc của mình, con cũng không nói được. Và quan trọng hơn hết, con chưa từng biết một ai rơi vào hoàn cảnh tương tự để tìm sự hướng dẫn và giúp con đi qua chặng đường khó khăn này.

Điều gì là đúng đắn?

Khổ đau ngập tràn khiến con rơi vào trạng thái trì trệ và tuyệt vọng. Đó là nhân duyên chính đưa con đến với Làng Mai lần đầu. Nhờ đọc sách của Thầy từ năm 1999, những lời dạy và pháp môn mà Thầy trao truyền đã đồng hành với con trong suốt những năm tháng con thực hành và giảng dạy Ashtanga Yoga. Con được đánh động sâu sắc bởi những lời Thầy dạy, những lời dạy ấy xuất phát từ trải nghiệm của Thầy trong hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh tàn phá, chia rẽ về ý thức hệ, và Thầy phải sống lưu vong do kêu gọi hòa bình và không chịu đứng về phe nào. Thầy đã kêu gọi hòa bình cho quê hương, cho nhân loại, và cho tự thân của mỗi người.

Trước đó, lòng con luôn mong muốn được đến Làng nhưng điều kiện và nhân duyên chưa cho phép. Dù đã có đường hướng tâm linh để thực tập, nhưng con không thể hoàn toàn chuyển hóa được những khổ đau tột cùng sau lần gặp mặt với mẹ ruột. Con đã tìm đến những người bạn trong cộng đồng Ashtanga Yoga trên khắp thế giới để học hỏi thêm về những điều có thể giúp các bạn đối diện với những cuộc khủng hoảng nội tâm, đặc biệt là khi các bạn cảm thấy những phương pháp trong truyền thống yoga không đủ để giúp mình. Sau đó con nhận được vô số câu trả lời từ rất nhiều truyền thống và văn hóa khác nhau. Một người bạn hành thiền Vipassana lâu năm cùng với con đã gửi một bài viết về Thầy – Thiền sư Thích Nhất Hạnh, lúc đó Thầy vừa mới rời bệnh viện Bordeaux trở về Làng sau cơn đột quỵ. Ngay trong tích tắc, con biết mình phải đến Làng Mai.

Điều gì là đúng đắn?

Đến xóm Mới vào khóa tu mùa Xuân năm 2015, ngay từ tuần đầu tiên con đã nhận thấy những khổ đau và tuyệt vọng trong con bắt đầu có sự chuyển hóa nhờ vào sự thực tập căn bản hàng ngày và năng lượng yểm trợ của tăng thân. Con quyết định ở lại hết khóa và tiếp nhận Năm Giới – phương pháp thực tập chánh niệm giúp con biết cách sống một đời sống từ bi, có hiểu biết và thương yêu. Con cũng nhận ra hạt giống xuất gia trong con được tưới tẩm. Dù vậy, con vẫn bị cuốn theo đời sống vật chất ngoài kia. Con có một người bạn đời đã cùng nhau vượt qua mọi khó khăn trong suốt tám năm, và con vẫn chưa biết phải làm thế nào với người mẹ ruột của mình. Những năm tiếp theo, con tìm mọi cách về lại Hàn Quốc để gần mẹ hơn, và để khám phá bản thân cũng như văn hoá đất nước, cội nguồn tổ tiên huyết thống. Con cũng tiếp tục về Làng Mai để tiếp xúc với tăng thân và làm sâu sắc thêm sự thực tập của mình.

Nhờ Ashtanga Yoga, nhiều lần con được mời đến Hàn Quốc để giảng dạy. Những lần chia sẻ ấy là những trải nghiệm chữa lành sâu sắc. Cùng lúc ấy, những lời dạy của Thầy về phương pháp đối diện với buồn đau, mất mát; chữa lành em bé trong tự thân; chuyển hóa những khổ đau được truyền trao từ ông bà tổ tiên, gia đình và xã hội, con đã dần hàn gắn được những đổ vỡ trong nội tâm. Tuy vậy, con vẫn cảm thấy bế tắc và thường có xu hướng kháng cự khi nghe dạy về tình thương không điều kiện của người mẹ dành cho đứa con của mình, hay là khi thực tập quán chiếu hình ảnh mẹ là em bé năm tuổi, hay là lúc thực tập đi thiền hành cùng với mẹ. Thật lòng, con chưa thể kết nối được với người mẹ ruột của mình qua những phương pháp thực tập ấy, có lẽ bởi vì trong con không có ký ức gì về mẹ.

Với con, vẻ đẹp của sự thực tập chánh niệm miên mật là khi ta thoát khỏi được trí năng và đi thẳng vào được chiều sâu của trái tim để chạm tới sự hiểu biết và chữa lành. Trong một chuyến trở về Hàn Quốc, các bác sĩ cho con biết tình trạng của mẹ phải nằm liệt giường, không thể ăn được thức ăn cứng và phải ăn qua ống thông từ tháng Giêng năm 2017. Năm ấy đã là năm thứ 20 kể từ khi mẹ bị đột quỵ. Con khá bất ngờ về tinh thần kiên cường của mẹ và cũng thường quán chiếu sự sống và tự hỏi điều gì đã giúp mẹ có thể tồn tại như vậy. Năm 2018, con quyết định dứt khoát chuyển đến Seoul, sau khi nhận được lời mời về giảng dạy Ashtanga Yoga vô thời hạn, mặc dù Bruno – người bạn đời của con lúc ấy – sẽ không đi cùng. Đó là một quyết định đau lòng nhưng con biết rằng việc chữa lành là thiết yếu và tự mình phải đối mặt. Cách mà người khác nhìn nhận về con và hình ảnh của con khi có Bruno bên cạnh so với khi phải sống một mình là hoàn toàn khác nhau. Thật kỳ lạ, sự chia ly cũng là cách để cứu vãn mối liên hệ, và giữ cho tình yêu giữa con và Bruno được nguyên vẹn, bởi vì những chuyến đi và về liên tục của con cũng đã bắt đầu ảnh hưởng tới tình cảm của hai người.

Điều gì là đúng đắn?

Sống và giảng dạy ở Hàn Quốc là một trong những khó khăn lớn mà con từng đối mặt, nhiều hạt giống ẩn tàng trong tâm thức đã được chạm tới. Nhưng đó cũng là một trong những trải nghiệm đẹp và nuôi dưỡng, vì nhờ đó mà con có cơ hội tiếp xúc được với tình người ấm áp trong văn hóa dân tộc, giúp con xóa bỏ được những mặc cảm bị bỏ rơi và chia cách nằm sâu trong tâm thức.

Đại dịch Covid đã làm đảo lộn cuộc sống của con, việc cách ly xã hội và hạn chế di chuyển khiến con đặt lại câu hỏi cho quỹ đạo cuộc đời mình. Do giãn cách xã hội, không thể tới bệnh viện thăm mẹ, con tiếp tục quán chiếu về hướng đi và môi trường sống của mình. Trong thời điểm thế giới tạm dừng các hoạt động tập thể và mọi người tìm cách kết nối với nhau bằng những hoạt động trực tuyến, Làng Mai một lần nữa xuất hiện như vị cứu tinh giúp con tìm về với những khát vọng sâu sắc nhất.

Khi đại dịch tiếp tục kéo dài và cuộc sống trở nên khó khăn hơn, con quay về nội tâm để tìm lối đi và những chỉ dẫn cụ thể. Ban đầu nghĩ mình sẽ ở Hàn Quốc ít nhất cho đến khi mẹ qua đời, nhưng sau đó con quyết định quay về châu Âu và tham dự khóa An cư ở xóm Mới năm 2021 để xem liệu thật sự con có ước muốn xuất gia hay không. Trước khi rời Hàn Quốc cũng là lúc kết thúc cách ly xã hội, con có cơ hội chia tay và bày tỏ tình thương, lòng biết ơn của mình với mẹ trong vòng 20 phút. Suốt chín tháng qua, tuy vẫn có thể ăn được thức ăn lỏng, nhưng mẹ không thể mở mắt. Con tự hỏi có phải là mẹ không muốn nhìn thấy điều gì không. Nắm lấy tay mẹ, bằng vốn liếng tiếng Hàn bập bẹ mới học được của mình, con nói lên lòng biết ơn của mình vì mẹ đã đưa con đến với cuộc sống và cho con gặp lại được mẹ, cầu mong mẹ sẽ luôn được bình yên. Con biết đây có thể là lần cuối con gặp mẹ. Rời Hàn Quốc, tuy lòng còn nặng trĩu nhưng con vẫn cảm nhận được sự bình yên và trái tim như mở thêm ra.

Đó là điều đúng đắn

Mẹ qua đời vào ngày 30 tháng 7 năm 2022, khi con đang tập sự xuất gia ở xóm Mới, vài tháng trước lễ xuất gia ở Làng Mai Thái Lan. Trong buổi lễ xuất gia, Sư cô Chân Không là người cắt lọn tóc đầu tiên của con. Sư cô cũng chính là lý do con chọn ở xóm Mới năm 2015, sau khi được truyền cảm hứng từ cuốn sách Learning True Love (tạm dịch: Tình thương đích thực) của Sư cô và biết được Sư cô đang cư trú và tu tập tại xóm Mới. Đó là tất cả những gì con đang cần. Sự có mặt ấm áp và đầy thương yêu của Sư cô là nguồn cảm hứng và động viên cho con trong thời gian ở đây.

Sư cô cùng Thầy và đoàn thị giả rời Pháp về Làng Mai Thái Lan cuối năm 2016, và sau đó về lại Việt Nam. Con không được gặp lại Sư cô cho đến khi Sư cô quay trở lại Làng vào mùa hè năm 2022 sau khi Thầy viên tịch, lúc đó con đang tập sự xuất gia ở xóm Mới. Sư cô luôn biểu hiện với nghị lực phi thường, dù trải qua cuộc phẫu thuật do bị ngã và phải ngồi xe lăn thường xuyên. Với những bài tập vật lý trị liệu, dần dần Sư cô có thể đi lại quanh sân với sự trợ giúp của thị giả. Một lần, sau bữa ăn cơm quá đường, nước mắt con đã trào ra khi thấy Sư cô tự mình đi từ đầu đến cuối thiền đường ở xóm Hạ chỉ với sự trợ giúp của cây gậy chống. Sau đó con đến tâm sự với Sư cô là hình ảnh Sư cô đã đánh động sâu sắc tâm can con. Khi gặp lại mẹ ruột, ước mơ thầm kín và lớn lao của con là mẹ có thể đứng dậy khỏi chiếc xe lăn và bước tới ôm chầm lấy con. Yên lặng và ấm áp, Sư cô mở rộng vòng tay ôm con vào lòng.

Từ khi mẹ ra đi, con dần dần cảm nhận và tiếp xúc được với mẹ ở trong mình và thấy mình là một phần của mẹ. Mẹ không phải ngồi trên xe lăn hay trên giường bệnh. Nhờ những pháp môn thực tập căn bản, nhất là thiền hành đã giúp con chuyển hóa được những đau buồn và bất lực trong thời gian qua. Con thấy rằng đôi khi sự hòa giải và chuyển hóa với người mà chúng ta hướng đến xảy ra một cách tự nhiên bên trong nội tâm mình, cũng như thông qua hoàn cảnh và những người xung quanh, mà không nhất thiết phải tiếp xúc trực tiếp với người ấy. Và nó thường xảy ra vào lúc chúng ta ít mong cầu nhất. Những lời dạy của Thầy về sự thực tập hay câu thư pháp “Con đi cho mẹ” không còn nằm trên trang giấy nữa mà đã thật sự đi vào trong huyết mạch và sự sống hàng ngày của con, với mỗi bước chân, mỗi hơi thở.

Ngồi đây và nhìn lại chặng đường đã qua, con không chắc có cái gọi là “điều đúng đắn” phải làm. Sự sống và những biểu hiện của nó đều phụ thuộc vào các nhân duyên. Tuy nhiên chúng ta luôn có thể đi theo những quy tắc đạo đức dựa trên nền tảng của hiểu biết thương yêu, có khả năng hướng ta về những điều thiện lành và gắn kết thay vì sự chia rẽ và phân biệt. Con cảm thấy trong tất cả những tình huống xảy đến, luôn luôn có điều gì đó mà chúng ta có thể làm được. Và đó là điều đúng đắn.

Phép lạ

( Trích từ sách Hạnh phúc cầm tay của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

 

Năng lượng thương yêu

Tất cả chúng ta đều sợ rằng nhu yếu thương và được thương của ta không được thỏa mãn. Nỗi sợ cô đơn luôn có đó trong mỗi chúng ta. Ta phải nhận diện nỗi sợ hãi và nhu yếu đó. Phải nhìn sâu vào chúng. Thương yêu là biết an ủi vỗ về, biết hiến tặng sự hiểu biết và cảm thông. Hiểu là suối nguồn của thương yêu. Ta sẽ cảm thấy đau khổ nếu không ai hiểu ta. Và khi người đó không hiểu ta nghĩa là người đó không thể thương ta. Không có sự hiểu biết thì tình thương cũng không thể có mặt. Sự thật là ta cần hiểu, cần thương. Và ta đi tìm người có thể cung cấp cho ta cả hai thứ ấy.

Giá như ai đó hiểu và thương mình. Giá như người đó đang ở đâu đó. Nhưng chúng ta phải đặt lại câu hỏi: “Ta có khả năng hiểu và thương người kia không? Ta có khả năng chế tác hiểu biết và thương yêu mà chính ta cũng cần không? Bởi vì nếu ta không có khả năng chế tác năng lượng hiểu biết thì ta không làm được gì cả.

Giáo pháp của Bụt nhằm giúp ta chế tác năng lượng hiểu và thương. Nếu ta có khả năng chế tác nguồn năng lượng này thì trước tiên nó sẽ giúp ta thỏa mãn nhu yếu được thương. Sau đó với khả năng hiểu và thương ta có thể ôm ấp người kia. Ta có thể làm cho người kia hạnh phúc khi chính ta hạnh phúc. Hạnh phúc tạo ra thêm hạnh phúc, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu.

Vì vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được thương và được hiểu, mà là ta có khả năng chế tác được tình thương và thấu hiểu được chính mình hay không. Nếu làm được điều đó ta sẽ thấy sung sướng, bởi vì nguồn năng lượng này làm ta thỏa mãn và làm cho những người xung quanh ta cũng thỏa mãn. Đó là tình thương của Bụt. Tình thương chân thật là như vậy. Thực ra, ‘thương một người là cơ hội để học thương tất cả mọi người’. Nếu ta có khả năng hiểu và thương thì ta có thể làm ngay bây giờ không cần phải chờ đợi. Nếu ta thành công trong lĩnh vực này thì nỗi sợ hãi, lo lắng của ta biến mất, ta sẽ thấy sung sướng ngay.

Hiểu

Đôi khi ta tin rằng hành động của ta phát xuất từ tình thương, nhưng nếu hành động ấy không dựa trên nền tảng của hiểu thì nó sẽ mang lại khổ đau. Ta muốn làm cho ai đó hạnh phúc và ta tin chắc rằng ta làm điều đó vì tình thương, nhưng hành động của ta có thể làm cho người kia khổ đau rất nhiều. Cho dù ta tin rằng hành động của ta xuất phát từ tình thương thì ta cũng gây cho con ta, vợ ta, chồng ta, bạn ta hay đồng nghiệp của ta khổ đau trầm trọng, bởi vì ta không đủ hiểu người đó. Vì vậy ta cần có con mắt hiểu biết, cần có tuệ giác để làm công cụ thương yêu một cách hiệu quả.

Nếu ta không hiểu được khó khăn, khổ đau, không hiểu được ước muốn sâu sắc của người kia thì ta không thể thương được người đó. Vì vậy điều quan trọng là ta phải kiểm tra lại với người kia và xin người kia giúp đỡ. Người cha phải hỏi con: “Cha có hiểu con đủ không? Cha có làm cho con khổ vì sự thiếu hiểu biết của cha không?

Người mẹ cũng phải có khả năng hỏi con mình: “Con có nghĩ là mẹ hiểu con không? Con nói cho mẹ nghe để mẹ có thể thương con đúng cách”. Đó là ngôn ngữ của yêu thương. Nếu mình thành thật thì con mình sẽ nói cho mình nghe những khổ đau của chúng. Và khi hiểu được nỗi khổ đau của chúng, ta sẽ không làm những điều gây khổ đau cho con mình nữa, những điều mà ta tin chắc là ta làm chỉ vì hạnh phúc và sự an sinh của chúng. Hiểu sâu là bản chất của thương yêu. Cánh tay của Bồ tát là biểu trưng cho hành động nhưng hành động của chúng ta phải được hướng dẫn kỹ càng bằng con mắt hiểu biết.

Bốn câu thần chú

Trong đạo Bụt có nói về thần chú. Thần chú là một phép thần, một khi phát ra là có thể thay đổi được toàn bộ tình trạng, tâm thức, cơ thể hoặc một con người. Nhưng thần chú phải được nói ra trong trạng thái định tĩnh, trạng thái mà trong đó thân và tâm hoàn toàn hợp nhất. Những gì ta nói trong trạng thái này sẽ trở thành thần chú. Vì vậy, tôi sẽ giới thiệu cho quý vị bốn câu thần chú rất linh nghiệm, không phải bằng tiếng Sanskrit, tiếng Tây tạng hay tiếng Anh mà bằng tiếng Việt.

Câu thần chú thứ nhất là: “Em yêu, anh có mặt đây cho em”, hay: “Mẹ ơi, con có mặt đây cho mẹ”. Có thể tối nay ta thực tập thở chánh niệm trong vài phút để đưa thân tâm về lại với nhau, rồi đến gần người ta thương, ta nhìn vào mắt người kia bằng niệm định và bắt đầu nói lên câu thần chú: “Em yêu, anh thật sự có mặt đây cho em”, hay: “Mẹ ơi, con thật sự có mặt đây cho mẹ”. Ta phải nói câu này bằng cả thân tâm, sau đó ta sẽ thấy sự chuyển hóa. Có mặt là bước đầu tiên. Công nhận sự có mặt của người kia là bước thứ hai. Thương là công nhận, được thương là được người kia công nhận. Nếu ta thương một ai đó mà ta không biết hoặc cứ lờ đi sự có mặt của người ấy thì đó không phải là tình thương chân thật. Có thể ta không muốn bỏ mặc hay thờ ơ với người ấy nhưng cách ta làm, ta nói, ta nhìn không biểu hiện được ước muốn công nhận sự có mặt của người kia. Khi được ai đó thương, ta muốn người kia công nhận sự có mặt của ta. Đây là một sự thực tập rất quan trọng. Ta có thể làm tất cả những gì cần thiết để có thể làm được điều này: Nhận diện sự có mặt của người thương vài lần trong ngày.

Để đạt được mục đích này, ta cũng cần thực tập thân tâm hợp nhất. Thực tập thở vào, thở ra năm, bảy lần, rồi đến gần người kia, nhìn vào người kia, mỉm cười và bắt đầu câu thần chú thứ hai: “Em yêu, anh biết em có đó nên anh rất hạnh phúc”, hoặc: “Mẹ ơi, con biết mẹ có đó nên con rất hạnh phúc”. Nếu ta thực tập như vậy với niệm định hùng hậu, ta sẽ thấy người kia nở ra ngay như một đóa hoa. Được thương là được công nhận. Ta có thể thực tập như thế vài lần trong ngày, điều này không khó. Đây đích thực là thiền tập.

Câu thần chú thứ ba thường được dùng trong những trường hợp người thương của ta khổ đau. Sống có chánh niệm, ta biết được những gì đang xảy ra cho ta trong giây phút hiện tại. Vì vậy ta cũng dễ dàng thấy được khi người thương của ta khổ đau. Ngay lúc đó ta đến với người kia, với thân tâm hợp nhất và định tĩnh, ta phát ra câu thần chú thứ ba: “Em yêu, anh biết em đang khổ đau và anh đang có mặt đây cho em”, hoặc: “Mẹ, con biết mẹ đang khổ đau nên con có mặt đây cho mẹ”. Bởi vì khi khổ đau, ta rất cần sự có mặt của người ta thương. Khi ta khổ mà người ta thương không biết ta đang khổ thì ta càng khổ hơn. Vì vậy điều ta có thể làm ngay lập tức là có mặt thật sự cho người ta thương và nói lên câu thần chú với tất cả chánh niệm của mình: “Em yêu, anh biết em đang khổ nên anh có mặt cho em đây”. Chưa làm gì mà người kia đã thấy bớt khổ rồi. Sự có mặt của mình là một phép lạ. Hiểu được nỗi khổ của người kia là một phép lạ và chúng ta có thể hiến tặng phép lạ cho người ta thương ngay lập tức.

Câu thần chú thứ tư khó thực tập hơn. Câu này thực tập khi chính ta đau khổ và ta nghĩ rằng nỗi khổ của ta do chính người ta thương nhất trên đời tạo ra. Nếu như một ai khác nói hay làm điều đó với mình thì chắc mình sẽ ít khổ hơn. Nhưng đằng này chính người mình thương nhất trên đời nói điều đó với mình, làm điều đó với mình, vì vậy mà mình khổ hơn. Mình tổn thương nặng nề vì nỗi khổ đau của mình do người mình thương nhất gây nên. Mình muốn chạy vào phòng đóng cửa lại, một mình mình khóc, một mình mình hay. Mình không muốn đến với người kia để cầu cứu sự giúp đỡ. Chính cái tự ái này là một chướng ngại.

Theo lời Bụt dạy, trong tình thương chân thật không có chỗ cho sự tự ái. Mỗi khi khổ đau, ta phải tới với người kia để cầu cứu sự giúp đỡ. Đó là tình thương chân thật. Đừng để tự ái chia cách mình. Nếu ta nghĩ rằng tình thương của ta dành cho người kia là tình thương chân thật thì ta phải vượt qua tự ái, phải luôn luôn tới với người kia. Chính vì vậy mà tôi phát minh ra câu thần chú này. Thực tập để đưa thân tâm về lại với nhau trước khi tới với người đó nói câu thần chú thứ tư: “Em yêu, anh đang khổ, và anh cần em giúp đỡ”, hoặc: “Mẹ ơi, con đang khổ và con cần mẹ giúp con”.

Truyền thông chánh niệm

Ngày nay truyền thông giữa người với người, giữa những cá nhân, gia đình và quốc gia đã trở nên rất khó khăn. Tuy nhiên có những phương pháp cụ thể để tự rèn luyện cách truyền thông bất bạo động, để tình thương trong mỗi người được đánh thức, để chúng ta có thể hiểu nhau, thông cảm cho nhau.

Nói lời ái ngữ và lắng nghe sâu là những thực tập tinh yếu cho việc truyền thông bất bạo động. Truyền thông chánh niệm nghĩa là ý thức những gì ta đang nói và sử dụng ngôn ngữ hòa ái, có ý thức, là lắng nghe người khác một cách sâu sắc để hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng ta có thể dùng phương pháp này trong bất kỳ lúc nào, ở đâu, trong tình huống nào.

Để cho cơ thể khỏe mạnh, trái tim ta phải bơm máu liên tục. Để cho mối quan hệ của ta lành mạnh, ta cũng cần truyền thông chánh niệm liên tục. Tuy nhiên nhiều người thấy khó để truyền thông có hiệu quả, bởi vì họ có quá nhiều tuyệt vọng và giận hờn. Cho dù khi đến với người kia, ta có thiện chí muốn lắng nghe hết lòng nhưng nếu ta không có khả năng sử dụng ái ngữ, định tĩnh thì không có hy vọng người kia sẽ nghe ta và hiểu những gì ta nói. Có thể ta có chủ tâm dùng ái ngữ và định tĩnh nhưng thường khi bắt đầu nói thì nỗi khổ đau, tuyệt vọng và sợ hãi đi lên. Mặc dù với thiện chí tốt nhất, ta cũng bắt đầu phàn nàn, đổ lỗi và phê phán gắt gao. Lời nói của ta bắt đầu phát ra một năng lượng khiến người kia chống lại ta, bởi vì họ không thể chịu nổi những gì ta đang nói. Truyền thông giữa ta và người kia bị đổ vỡ. Khi tình hình như thế xảy ra, ta phải học đi học lại cách truyền thông. Điều quan trọng là làm thế nào để học cách lắng nghe sâu và sử dụng ái ngữ? Để làm được điều này trước tiên ta phải chăm sóc nỗi đau và cơn giận của chính ta. Bằng cách thực tập hơi thở chánh niệm và bước chân thiền hành, ta làm lớn mạnh nguồn năng lượng chánh niệm trong ta. Ta cần tập luyện trong vòng vài tuần hay thậm chí vài tháng để có thể vượt qua nỗi đau và sử dụng ngôn ngữ từ ái. Khi chánh niệm hùng hậu, ta sẽ dễ dàng nhìn sâu hơn vào tình trạng của ta để làm phát khởi hiểu biết và thương yêu.

Khả năng lắng nghe sâu cũng vậy. Nếu ta không có khả năng ôm ấp, chuyển hóa niềm đau, hờn giận của chính ta thì sẽ khó để lắng nghe niềm đau của người khác, đặc biệt là khi lời nói của người kia đầy phán xét tiêu cực, đầy tri giác sai lầm và mang tính đổ lỗi. Trong thâm tâm ta, ta biết rằng ta nên lắng nghe và ta đã cố gắng hết sức nhưng thường thì sau vài phút ta không còn nghe nổi nữa cho dù là thêm một lời. Ta thấy quá đầy. Cho dù ta đã phát nguyện là bất kể lời nói có khiêu khích cách mấy, có quyết đoán không đúng ta vẫn ngồi yên lắng nghe bằng tâm từ bi nhưng ta không thể làm được điều đó. Thiện chí của ta biến mất bởi vì ta không thể xử lý được nỗi đau đang lớn lên trong ta.

Tuy nhiên, nếu ta có khả năng lắng nghe thì chỉ trong vòng một giờ người kia sẽ bớt khổ đi nhiều. Lắng nghe với tâm cởi mở, ta sẽ có khả năng làm cho tình thương sống dậy. Ta sẽ hiến tặng cho người kia cơ hội để bày tỏ những khổ đau của họ.

Lắng nghe như thế đòi hỏi phải có sự tập luyện. Thực tập hơi thở chánh niệm và bước chân thiền hành có thể chuyển hóa hạt giống giận dữ và bực bội trong ta, cho phép trái tim ta mở rộng để lắng nghe người khác bằng tình thương và lòng bi mẫn.

 

Tiếng gọi

(Sư Cô Chân Hiền Hạnh)

“Châu báu chất đầy thế giới
Tôi đem tặng bạn sáng nay
Một vốc kim cương sáng chói
Long lanh suốt cả đêm ngày”
(Châu ngọc Pháp Hoa, thơ Sư Ông Làng Mai)

Ô cửa từ từ mở ra, cái lạnh se se đưa lòng về thực tại. Sáng nay nhìn mưa bay qua vòm trời xa tít có chút gì đó thổn thức tâm hồn. Mưa đẹp quá và thi vị biết bao. Cảm xúc lòng khơi dậy và thôi thúc mình ghi lên vài con chữ. Mưa giăng lối đưa tôi về nhiều kỷ niệm. Mưa là tôi, là nắng, và là cả thiên hà.

Ngày ấy, sau một chuyến đi chơi xa. Về nhà, tôi cảm nhận ấm áp và thênh thang biết bao. Đúng là nhà, như người Tây phương thường diễn đạt: Home sweet home! (nói một cách dân dã là không đâu bằng nhà mình!). Nâng chén trà bên hiên nhà sáng ấy, mình tận hưởng không khí mát dịu như tiết trời thu xứ Pháp. Một cảm giác thân quen vui vui trở về. Ồ đây là nhà ở quê mà, mình bay bổng tưởng tượng chút xíu cho vui. Mỉm cười với mình và tận hưởng phút giây mình với trà.

Chung trà đã cạn, mình đứng dậy nhìn ra xa, ôi nước… Thấy biết như vậy, vì quê mình mùa ni làm bạn với thiên tai. Hững hờ với tiết trời bên ngoài. Mưa tạo duyên cho mình ở trong nhà để khám phá, để học hỏi. Tại vì mỗi khi trời nắng đẹp, mình thích thú ra vườn, dòm cây nọ, ngó cây kia, trồng cây nớ,… Xa xa nghe tiếng điện thoại reo. À chị X… “Nước lụt sao rồi em?”. Mình chụp cái hình gửi cho chị và gửi vào vũ trụ sự vô lo của mình. Rồi lại tiếp tục vài thứ còn đang dang dở.

 

Xế chiều thì nước ùa lên sân nhà. Khi đó mình hơi lo lắng chút xíu. Có vài thứ cần kê lên, một mình thì làm sao? Nếu bị ngập hư thì lấy gì xài. Ngóng ra đường thì thấy cậu bạn đang chèo ghe đi chơi. Mình í ới nhờ cậu ta trợ giúp. Hai đứa kê đồ lên cao hơn chút rồi tủm tỉm cười. Cậu ta là đứa bạn một thời thả diều, chơi ô quan với mình. Nay có gia đình ở xa, mỗi tuần đều ghé về chăm mẹ già. Hơn hai mươi năm gặp lại, đứa nào cũng vui vui và tự thấu hiểu nỗi gian khó của quê hương.

Quê mình, bà con mỗi lần gọi nhau làm gì thì làng trên xóm dưới đều nghe. Mình xa quê cũng lâu và bây giờ ở nhà trong hình tướng sư cô nên sự tiếp xúc với xóm giềng cũng khác. Mà khi cần thì tình làng nghĩa xóm vẫn gần gũi chân chất.

Cậu bạn ra về, mình tiếp tục nhìn sự ngổn ngang. Kiếm chút gì ăn đã, rồi tiếp tục dọn nhà, kê đồ. Ôi nước tràn vào nhà rồi, lên nhanh thiệt. Mình ngồi nhìn dòng nước và kỷ niệm lúc bảy, tám tuổi trở về…

Đêm đó nước lên ngang cửa sổ, nội lội nước ngang bụng đi lượm vài thứ bềnh bồng trôi. Nội vừa lội vừa run lẩy bẩy. Mạ thì đặt cái lò trấu trên bàn tôn để nấu cơm. Cô bé ấy chắc đang vọc nước và bị la mà cứ tinh nghịch vô tư… Ký ức về mạ và nội nguyên vẹn như đang có mặt đó với mình. Nước càng lên cao, mình cứ thản nhiên. Lúc đó có vài cuộc gọi video từ phương xa. Mọi người thấy nước rồi xót xa… Mình cũng nói chuyện vui vui như mọi lần. Chuyện gì phải tới thì sẽ tới thôi, cái nhìn kiên định có mặt như vậy.

Loay hoay tới khuya, giờ nằm ở đâu chút xíu đây! Chỉ còn cái bàn gỗ là cao và chắc, leo lên đó nằm. Ngủ yên hơn một tiếng thì vài chú muỗi vo ve. Với tay nhìn đồng hồ, gần ba giờ sáng. Vậy là mình ngồi dậy đi nấu nước. Hì, mất điện rồi! Mình tìm nến và thắp lên đầy nhà. Nước và nến lung linh. Lúc ấy mình cảm giác như đang ở một ốc đảo. Mình đang ngồi trên một phiến đá chênh vênh ngắm nhìn biển trời lênh láng dưới ánh sao đêm dày đặc. Tĩnh mịch, đẹp vô cùng! Mình tìm cái gì đó kê làm bàn trà để an yên hơn. Nhìn qua bên cạnh thấy cái hộc tợ (bàn nhỏ).

Đứng dậy định khiêng thì thấy chú rắn nằm trong góc giường nhìn lên. Ôi rắn, phản xạ tức thời… con vật mình sợ nhất. Dù đang đi trên đường thấy nó chết mình cũng bỏ chạy. Bây giờ nó nằm đó làm gì đây!? Phút chốc đi qua, mình bình tĩnh lại. Mình nhìn nó và thấy nó cũng đang sợ bị nước cuốn trôi. Nhưng nếu lỡ đụng, nó cắn thì sao? Nhớ trong kinh có đoạn Bụt mời chú rắn đi chỗ khác để quý thầy nghỉ ngơi. Mình cũng bắt chước Bụt thì thầm to nhỏ với chú rắn. Nó uốn éo rồi cuộn tròn thân hình một cách khéo léo và nằm êm ấm hơn. Chú ta có vẻ không nghe mình nói gì cả. Chẳng lẽ làm bạn với chú rắn này ư?

Mình không tới gần mà cũng không xua đuổi. Mình tìm một góc khác ngồi uống trà.

Nhìn đằng kia là một đàn kiến đang bám vào cái chổi. Góc nọ mấy con châu chấu đang lờ đờ, bị nước dập dìm.Và chú rắn đây nữa. “Giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng”! Mình ta với ta. Văng vẳng lời dạy của Thầy đi lên trong tim: “… Con là con ếch bơi trong hồ thu mà cũng là con rắn nước cần nuôi thân bằng thân ếch nhái, con là con sâu con kiến mà cũng là con chim đang đi tìm con kiến con sâu …” Lòng thật bình yên, con thẩm thấu tuệ giác của Thầy “mình là một với muôn loài”. Cảm nhận hơi thở thật nhẹ và sâu. Thầy và mạ đang có trong con.

Thở vào, thấy hình hài mạ cho vẫn an lành khỏe mạnh.

Thở ra, thấy pháp thân tuệ mạng này, Thầy đã và đang dưỡng nuôi.

Thầy và mạ cùng hiện khởi trong tim con. Thầy và mạ là một, ấm áp ngọt ngào:

“Mẹ, Mẹ là dòng suối dịu hiền
Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên
là bóng mát trên cao
là mắt sáng trăng sao
là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.”
Bông hồng cài áo
(Lời: Sư Ông Làng Mai; Nhạc: Phạm Thế Mỹ)

Đèn nến vẫn lung linh, chung trà dần cạn. Mình thấu hiểu trùng trùng nhân duyên đã đang nâng đỡ từng bước chân đi. Chắp tay nguyện cầu gửi vào đất Mẹ hoa thơm trái ngọt nhất đến với mọi người. Tình Thầy, tình mẹ, nghĩa bạn bè luôn trọn vẹn và mãi tinh anh.

Giáng sinh năm nay tiết trời khá lạnh. Mình vẫn thắp nến thưởng trà và gói ghém niềm biết ơn vào trang vở. Thiếu quà, thiếu bánh gửi đến người thương mà lòng bình an là vậy. Bởi trong con và người con thương đang có Thầy. Đồng hành, thấu hiểu và cảm thông. Mình có trong nhau tự thuở nào.

Con về nương tựa đất Mẹ

(Trích từ chương Một chỗ quay về trong sách Tâm tình với đất Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Trong suốt mùa thu, mỗi khi đi thiền hành, chúng ta giẫm lên những chiếc lá vàng. Ai trong chúng ta mà không giẫm chân trên lá vàng trong mùa thu này? Ở Thénac lá chỉ mới rụng 50%, khu rừng trước thất Ngồi Yên vẫn còn nhiều lá rất đẹp. Nếu giẫm lên lá một cách có ý thức, chúng ta sẽ có được tuệ giác. Lá đã được biểu hiện vào tháng ba, tháng tư năm nay dưới một hình thái xanh non. Lá đã lọc được ánh sáng mặt trời, đã tung tăng vui chơi, đã làm việc để tự nuôi mình và nuôi cây. Một lá cây có chức năng tự nuôi mình và nuôi toàn thể cây. Đến mùa Thu, lá già chín. Nó biết thế nào nó cũng rụng vào đầu mùa Đông, nhưng nó không lo lắng, sợ hãi.

 

 

Một chiếc lá có phải là một vật vô tri hay không? Lá cũng là sự sống, hoa lá cũng có cảm giác. Mấy tuần nay ở miền nam nước Pháp rất ấm, cây cỏ cũng cảm được điều đó nên có vài cây hoa bồ công anh đã nở. Chúng ta cho cây cỏ là vật vô tri là không đúng. Cây cỏ cũng có tâm thức của nó. Vì vậy chúng ta đừng nên cho chiếc lá là một vật vô tình. Lá cũng là vật hữu tình có cảm xúc, có tri giác. So sánh thân phận của ta với thân phận của chiếc lá, ta có cảm tưởng ta sống lâu hơn chiếc lá, ta sống tới 70 năm hay hon nữa trong khi một chiếc lá chỉ sống có 6 hay 7 tháng. Nhưng chiếc lá không đo thời gian bằng tháng năm như ta, có thể chiếc lá thấy thời gian sáu, bảy tháng đó rất dài. Ta có cảm tưởng chiếc lá vô tư hơn ta, ít lo lắng, ít khổ đau hơn ta. Loài người văn minh phải chịu đựng cái gọi là ưu tư (anxiété), đó là cái giá mà loài người phải trả. Có lẽ vì đau khổ, lo lắng nhiều nên có những thi sĩ ao ước kiếp sau Đất Mẹ sẽ cho ta ra đời dưới một dạng khác hơn là một con người. Thi sĩ Nguyễn Công Trứ đã nói:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo 

Cây thông hình như vô tư hơn, không có lo lắng, sầu khổ. Làm cây thông đứng reo trong gió là một hình ảnh rất đẹp. Chúng ta có ước muốn làm một chiếc lá hay làm một cây thông hay không? Chúng ta hãy nói với Mẹ trái đất: Mẹ ơi, kiếp sau Mẹ đừng cho con làm người nữa, Mẹ hãy cho con làm cây thông hay một con hạc, một con nai. Tùy theo ý ta lựa chọn, Mẹ đất đã đưa ta ra đời thì Mẹ đất có thể đưa ta ra đời nhiều lần nữa.

Thực tập địa xúc, ta biết mình thuộc về Mẹ, ta là một phần của Mẹ. Bản chất của ta là không sinh không diệt, ta đã biểu hiện dưới hình thức này nhưng ta cũng có thể biểu hiện dưới những hình thức khác. Nếu Mẹ đã cho ta ra đời một lần thì Mẹ cũng có thể cho ta ra đời hàng triệu lần. Trong khi đi thiền hành, ta cứ chọn lựa đi, ta nói chuyện với trái đất đi. Khi quán chiếu, chúng ta thấy ta luôn luôn có chỗ để trở về. Chúng ta ai cũng cần có một chỗ về. Có người nghĩ đó là cõi Phạm Thiên, có người nghĩ đó là cõi Tịnh độ của Bụt A Di Đà, có người nghĩ đó là Thiên quốc. Về Thiên quốc ta có thể ngồi dưới chân Thượng đế, về nước Cực Lạc ta có thể đi thiền hành với đức A Di Đà.

Chúng ta có nhu yếu muốn có một chỗ về và chúng ta đi tìm những con đường trở về:

Hãy cùng ta tới hỏi bé tìm chi và đang đi đâu

Đâu là uyên nguyên? 

Đâu là quy xứ? 

Đường về có những ngả nào? 

(Uyên nguyên – thơ Nhất Hạnh)

 

 

Nếu đi thiền hành vững chãi thì chúng ta thấy rõ chỗ về của ta là Đất Mẹ. Điều này rất khoa học, rất thực tế. Tất cả những tế bào, những nguyên tử trong cơ thể ta đều trở về đất. Đó là điều không thể chối cãi được. Đất Mẹ là nơi chúng ta sẽ trở về, Đất Mẹ là một vị Bồ tát lớn và chúng ta nương tựa nơi Đất Mẹ. Nam mô Bồ tát Thanh Lương Đại Địa. Đó là sự thực tập của chúng ta. Đất Mẹ rất linh thiêng, Đất Mẹ không phải là vật chất như một số nhà khoa học đã tưởng. Phần lớn các nhà khoa học vẫn còn cái nhìn lưỡng nguyên về vật chất và tâm thức. Nhưng chúng ta, những người học Phật, đã tìm ra tâm và vật là hai khía cạnh của một thực tại, thực tại đó không phải là tâm cũng không phải là vật. Vì vậy, khi đi thiền hành trên mặt đất chúng ta phải tập thấy rằng Đất Mẹ là một vị Bồ tát linh thiêng chứ không phải là vật chất vô tri. Chúng ta hãy nhìn một bông hoa, bông hoa là sự biểu hiện của Đất Mẹ. Nếu không phải là một vị Bồ tát linh thiêng làm sao Đất Mẹ cho ra đời được những mầu nhiệm đó, và chính cơ thể mình đây cũng là một mầu nhiệm.

Chúng ta phải tập nhìn địa cầu với một con mắt khác, phải thấy Mẹ là một vị Bồ tát lớn, là Mẹ của muôn loài, là Mẹ của các vị Bụt và Bồ tát. Mẹ là chỗ mà chúng ta sẽ trở về một cách chắc chắn và khoa học, và chúng ta có thể nương tựa nơi Mẹ. Quán chiếu cho sâu sắc chúng ta sẽ thấy: Các hiện tượng bề ngoài có sinh, có diệt, có có, có không, nhưng tiếp xúc cho sâu thì bản chất của thực tại là không sinh, không diệt, không có, không không. Quán sát cho kỹ một đám mây, ta thấy đám mây không có sinh, không có diệt, đám mây thoát ra khỏi ý niệm có và không. Tất cả những sợ hãi, lo lắng không còn nữa. Vì vậy ta có thể rong chơi với tư cách một chiếc lá hay một bông hoa hay một con nai. Khi ta trở lại với Mẹ, Mẹ sẽ đưa hai cánh tay thương yêu đón tiếp ta về. Dù cho trong thời gian rong chơi ta có gây ra nhiều lầm lỗi thì mẹ vẫn đón tiếp và tha thứ cho ta vì Mẹ là một vị Bồ tát.

 

Khoá tu Xuất gia gieo duyên tại Viện Phật học EIAB – Đức 2025

             

“TIẾP NHẬN GIA TÀI TÂM LINH CỦA CHƯ BỤT VÀ BỒ TÁT”

  Trong Bài tụng hạnh phúc mà chúng ta thường đọc có đoạn:

          “Hạnh phúc thay được sống
           Trong tăng đoàn Thế Tôn
           Được hành trì giới định
           Sống vững chãi thảnh thơi
          Trong từng giây từng phút
          Của cuộc sống hàng ngày
          Và trực tiếp tham gia
          Vào sự nghiệp độ sinh
          Của Bụt và Bồ Tát”

Để tạo cơ hội cho nhiều người có thể hiểu rõ hơn về hạnh phúc lớn được sống trong tăng đoàn Thế tôn, Viện Phật học ứng dụng châu Âu tại Waldbröl sẽ tổ chức một khóa tu Xuất gia gieo duyên từ ngày 03 đến 10.06.2025.

 

 

Xuất gia là lìa khỏi gia đình thế tục để sống đời giải thoát an lạc của người tu sĩ. Gieo duyên vì chưa thực hiện được hoàn toàn đời sống xuất gia nên xin được kết duyên lành với chí nguyện xuất trần này. Xuất gia gieo duyên là gieo trồng hạt giống thiện và lành, trải nghiệm đời sống xuất gia, là một việc làm đem lại phước báu vô biên cho chính mình và cho cả gia đình tổ tiên.

Trong khóa tu, chúng ta sẽ tuân thủ đúng theo các hình thức nghi lễ, y phục, chuẩn mực trong cuộc sống và sự tu học giống như những vị xuất gia thực thụ. Chúng ta sẽ có cơ hội tu tập miên mật, tụng kinh, nghe pháp, giữ gìn giới luật, thực tập thiền định, thiền quán làm trí tuệ phát sinh cũng như chuyển hóa những tập khí và phiền não. 

Sau khi mãn khóa tu gieo duyên và trở về cuộc sống đời thường, những hồi ức đẹp khi gia nhập vào Tăng đoàn vẫn sẽ luôn hiện hữu trong tâm và sẽ là động lực cho chúng ta vững tin vào con đường Bát Chánh Đạo để đạt được cuộc sống an lạc và hạnh phúc.

Trong khóa học này, chúng ta sẽ có cơ hội tìm hiểu những tuệ giác thâm sâu mà Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni đã dày công giảng dạy để làm nền tảng cho đạo Bụt qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Chúng ta sẽ học hỏi và tu tập để hiểu được sự phát triển của đạo Bụt khởi đầu từ sự thực tập chánh niệm cho đến các tuệ giác và pháp môn được khai mở ra trong các kinh Kim Cương, Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. Chúng ta sẽ thấy được lâu đài rực rỡ của Kinh Hoa Nghiêm là đỉnh cao nhất của tư tưởng đạo Bụt, có thể đại diện được cho tuệ giác thâm sâu mà Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni đã chứng đắc trong đêm Ngài thành đạo, những tuệ giác mà ngày nay khoa học vật lý lý thuyết đã và đang bắt đầu khám phá ra để ứng dụng vào đời sống hiện đại của nhân loại.

Quý vị nào muốn đăng ký ghi danh hay có thắc mắc gì xin gửi thư về địa chỉ email:

 

 

Lễ xuất gia Cây Hoa Tử Đinh Hương (Lilac) ngày 06.10.2024

Hoa Tử Đinh Hương (hoa Lilac trong tiếng Anh) vào mùa này hoa nở sắc tím, mang hương thắm lan toả khắp không gian. Ở tu viện Lộc Uyển và Mộc Lan tại Hoa Kỳ hoa cũng đang nở không những tươi thắm, điểm tô cho cuộc đời mà còn có sự biểu hiện của bốn sư cô, sư chú mới trong gia đình xuất gia mang tên loài hoa này. Gia đình xuất gia Hoa Tử Đinh Hương là sự tiếp nối của của Bụt, Sư Ông và Tăng Thân.
 
Hai sư chú mới đã có khoản thời gian làm tập sự xuất gia tại trung tâm Lộc Uyển, bang California và hai sư cô được tu tập tại tu viện Mộc Lan, bang Mississippi. Lễ xuất gia cũng được trang nghiêm thanh tịnh tổ chức tại hai trung tâm vào ngày 6 tháng 10 vừa qua.
Đại chúng vô cùng hân hoan chào đón bốn thành viên mới gia nhập vào tăng đoàn Áo Nâu, nối tiếp dòng chảy của tăng thân. Hai sư cô mới có pháp tự là Chân Dũng Hạnh và Chân Minh Hạnh. Hai sư chú với pháp tự là Chân Nhất Quang và Chân Nhất Trì.
 
Kính gửi đến đại chúng bức trang thật đẹp của buổi lễ Dẫn thỉnh, lễ Xuất gia và buổi chào đón quý vị trong hình tướng mới với sự có mặt của người thân gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của các sư cô, sư chú mới.
 

Lễ xuất gia Cây Thuỷ Tùng ngày 03.11.2024

Ngày 03/11/2024, tăng thân tu viện Bích Nham chào đón thêm một sư chú mới. Sau thời gian thực tập tập sự xuất gia tại tu viện, được hướng dẫn nếp sống thiền môn, bạn trẻ phát tâm dũng mãnh cầu xin được thọ giới Sa-di, bước trên con đường tỉnh thức, thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày, đem lại niềm vui tự thân, gia đình, và xã hội. Được sự cho phép của tăng thân, tập sự trẻ tuổi trình diện trước bốn chúng trong buổi Lễ Dẫn Thỉnh và sau đó là Lễ xuất gia được tổ chức tại thiền đường Đại Đồng. Quý vị phụ huynh và thân hữu cũng đã có mặt để yểm trợ cho giờ phút huyền thoại.
Trong không khí trang nghiêm, giới tử quỳ xuống tiếp nhận Mười giới Sa-di, y của Bụt, và điệp hộ giới, chính thức trở thành những người con của tăng thân và hoà cùng dòng chảy trong gia đình tâm linh. Pháp tự của sư chú là Chân Nhất Địa, sư chú thuộc thế hệ 44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của Thiền phái Liễu Quán.
“Sáng nay cạo sạch mái tóc.
Mở thêm rộng lớn con đường.
Phiền não vô biên nguyện đoạn.
Một tâm mà động mười phương.”
(Trích từ bài thơ “Mở thêm rộng lớn con đường” của Sư Ông Làng Mai)
Kính mời Đại chúng thưởng thức một vài hình ảnh đẹp đón chào vị xuất sĩ trẻ!
 
 
 
 

Lễ xuất gia Cây Hoa Mai Trắng ngày 14.07.2024

Kính thưa Đại chúng!

Trong Kinh Pháp Cú Hán tạng có một bài kệ nói lên tinh thần dũng liệt phi thường của những người xuất sĩ trẻ:

“Thiếu tráng xả gia

Thịnh tu Phật giáo

Thị chiếu thế gian

Như nguyệt vân tiêu.”

Học hỏi từ bài kệ này, Sư Ông Làng Mai đã đặt cho thế hệ đệ tử tiếp nối những Pháp tự với chữ Trời và chữ Trăng. “Người xuất sĩ dù là còn trẻ nhưng hết lòng thực tập Phật pháp thì cũng giống như một mặt trăng soi sáng thế gian trong khung trời không có mây ám.”

Và, dòng sông tiếp tục chảy. Các Sư cô, Sư chú mới vừa được xuất gia tại Tu viện Vườn Ươm – Làng Mai Thái Lan (thuộc gia đình xuất gia Cây Hoa Mai Trắng) vào ngày 14/7/2024 với Pháp tự có chữ Hạnh cho quý Sư cô và chữ Nhất cho quý Sư chú là những minh chứng của những giọt nước long lanh hoà vào dòng lớn. Pháp tự của các Sư em thuộc gia đình Xuất gia Cây Hoa Mai Trắng này lần lượt là: Quý sư chú : Chân Nhất Hội, Chân Nhất Hậu, Chân Nhất Hoà, Chân Nhất Ngôn, Chân Nhất Minh, Chân Nhất Ngộ, Chân Nhất Phương, Chân Nhất Bảo. Quý sư cô: Chân Sắc Hạnh, Chân Sinh Hạnh, Chân Sách Hạnh.

Còn trẻ, ôm ấp chí nguyện giúp đời giúp người, lựa chọn một con đường thực tập lối sống giản dị chân thành, những Sư cô, Sư chú mới là thành viên mới nhưng đồng thời là nhựa sống nuôi dưỡng cả Tăng thân. Thực tập cùng Tăng thân, ta sớm thành tựu con đường hạnh phúc.

Kính mời đại chúng cùng chia sẻ những phút giây chuyển mình thiêng liêng trở thành các sư cô sư chú mới hoà nhập vào dòng chảy của tăng thân.

Trân kính,