Gia đình cây Bách Xù gồm có 3 sư cô người Việt xuất gia tại chùa Từ Đức vào ngày 17.10.2025 và 3 sư chú người Mỹ xuất gia tại tu viện Lộc Uyển vào ngày 19.10.2025.
Hình ảnh lễ xuất gia tại chùa Từ Đức
Hình ảnh lễ xuất gia tại Tu viện Lộc Uyển
Gia đình cây Bách Xù gồm có 3 sư cô người Việt xuất gia tại chùa Từ Đức vào ngày 17.10.2025 và 3 sư chú người Mỹ xuất gia tại tu viện Lộc Uyển vào ngày 19.10.2025.
Hình ảnh lễ xuất gia tại chùa Từ Đức
Hình ảnh lễ xuất gia tại Tu viện Lộc Uyển
(Trích trong pháp thoại của Sư Ông Làng Mai tại Xóm Hạ ngày 29-04-2002)
Khi một người có những khó khăn, bế tắc, khổ đau mà không biết cách chuyển hóa, thì họ thường vô tình vung vãi những khổ đau đó lên những người xung quanh. Điều này xảy ra với rất nhiều người.
Một người có tu tập, biết pháp môn, thì mỗi khi có khổ đau như hờn giận, ganh tức, mình biết cách nhận diện và ôm ấp. Nhờ vậy, mình không để khổ đau của mình lan sang người khác.
Còn khi không biết tu, mỗi khi giận lên, mình chỉ muốn trừng phạt. Người kia nói hay làm điều gì khiến mình đau khổ, thì mình liền muốn làm cho họ cũng đau khổ, nghĩ rằng như vậy mình sẽ bớt khổ. Đó là tâm lý trừng phạt rất thường gặp.
Con mình làm mình giận, mình có thể nói nặng hoặc đánh một cái tát. Vợ hay chồng nói hoặc làm điều gì khiến mình khổ, mình có thể nổi nóng, dùng những lời lẽ hay hành động không còn tình nghĩa. Mình nghĩ làm họ đau khổ thì mình sẽ bớt khổ — nhưng đó là cách hành xử rất phổ biến của con người.
Khi tin rằng đau khổ của mình do người kia gây ra, mình muốn trừng phạt họ: trừng phạt bạn đời, con cái, thậm chí cha mẹ. Cha mẹ làm mình khổ, mình cũng muốn phạt cha mẹ.
Tôi có một đệ tử, bây giờ là một sư cô, một ni sư, có nhiều đệ tử khác. Khi còn nhỏ, mới 13–14 tuổi, một hôm đi học mà thay vì được ăn cháo đậu xanh như thường lệ, mẹ chỉ nấu cháo trắng. Nó nổi giận. Chỉ một chuyện rất vô lý. Nó giận và muốn phạt mẹ bằng cách trên đường đi học ghé qua đập đá, cởi áo ra để gió lùa vào người. Tối đó bị sưng phổi, phải nằm một tuần để mẹ chăm. Đó chỉ là hành động dại dột của một đứa trẻ muốn trừng phạt mẹ mình.
Con cái cũng có thể trừng phạt cha mẹ theo cách dại dột như vậy. Không dám nói nặng cha mẹ, nhưng làm bản thân khổ để cha mẹ lo lắng. Khi giận lên, mình có thể làm những chuyện điên rồ như thế.
Cho nên khi học giáo pháp của Đức Thế Tôn, mình không nên dại dột như vậy nữa. Càng trừng phạt, người kia càng khổ; người kia càng khổ thì lại có những lời nói, hành động làm mình khổ thêm. Hai bên leo thang làm khổ nhau — một quá trình u mê, dại dột. Dù biết rõ là dại, nhiều khi mình vẫn lặp lại.
Phương pháp của Bụt dạy là: nhìn thật sâu vào người kia để thấy những bế tắc, đau khổ, khó khăn chưa được giải tỏa. Khi thấy như vậy, mình hiểu rằng người ấy cần giúp đỡ, không phải trừng phạt.
He needs help, not punishment.
Người ấy cần sự giúp đỡ của mình, không phải sự trừng phạt.
Con mình khổ, bế tắc, không biết cách chuyển hóa; nếu mình cứ phạt, cứ giận, cứ mắng hoài thì nó càng bế tắc thêm, càng khổ đau thêm.
Mình phải thay đổi chiến lược: «Con ơi, cha biết con khổ lắm, bế tắc lắm. Nói cho cha nghe, biết đâu cha có thể giúp. Cha có thể làm gì để giúp con bớt khổ?» Đó là lời nói của thương yêu, của ái ngữ.
Phải học những câu nói như vậy: «Ba biết con có những khó khăn, những bế tắc, những nỗi buồn, nỗi khổ. Ba xót xa lắm vì chưa giúp được con. Con nghĩ ba có thể làm điều gì để con bớt khổ không?»
Học thuộc lòng câu đó để mà nói với con mình.
Có khi nghe vậy, con sẽ òa khóc, vì từ lâu ba chưa bao giờ nói với nó những lời như vậy. Ba chỉ la mắng và trách phạt. Trong bụng nó chỉ muốn nói: “Chỉ cần ba đừng chửi con thôi là con đã đỡ khổ rồi.”
Thay vì phạt, la mắng, trách móc, mình hỏi:
«Con ơi, ba có thể làm gì để con bớt khổ?»
Cách ấy cũng áp dụng cho vợ chồng:
«Anh ơi, em biết trong anh có nhiều bế tắc, đau khổ. Em xót xa lắm. Em có thể làm gì để anh bớt khổ không? Anh nói đi.»
Một người vợ nói được câu ấy là đang thực tập ái ngữ. Khi nói xong thì lắng nghe. Dù người kia có nói những lời dễ tổn thương, có buộc tội hay trách móc, mình vẫn lắng nghe — vì tội nghiệp, vì lâu nay mình chưa bao giờ thật sự lắng nghe. Chỉ cần được lắng nghe một giờ, người kia đã bớt khổ rất nhiều. Và mình có thể làm Bồ Tát Quan Thế Âm được.
Trong mỗi người đều có hạt giống của Bồ Tát Quan Thế Âm. Chỉ cần tưới tẩm hạt giống của từ bi, xót thương và kiên nhẫn. Chỉ một buổi lắng nghe thật êm ái là trái tim của người kia có thể mở ra.
Tôi nói điều này với sự chắc chắn, vì tôi có nhiều đệ tử đã thực tập và thành công. Khi thấy được nỗi khổ, niềm đau, sự bế tắc của người khác, mình không còn muốn trừng phạt. Chỉ cần có tâm muốn giúp, chưa làm gì cả, mình đã thấy nhẹ rồi. Đó là cam lồ của chất liệu từ bi.
Chỉ cần ngồi xuống, nhìn sâu, thấy được nỗi khổ niềm đau của người kia, là giọt nước cam lồ của lòng từ bi tự nhiên ứa lên trong tim, làm dịu trái tim mình. Mắt mình dịu lại, lời nói mình dịu lại. Và như thế, mắt thương và lời thương là điều hoàn toàn có thể làm được, không phải chuyện mơ hồ trên mây.




Vào ngày 19/10/2025, một lễ xuất gia đã diễn ra tại thiền đường Thái Bình Dương, tu viện Lộc Uyển. Ba người con trẻ tuổi của đất Mỹ đã cạo sạch mái tóc xanh, gia nhập gia đình áo nâu, “phát túc siêu phương” để trở thành ba vị tân sadi. Gia đình xuất gia này có tên là cây Bách Xù (Juniper).
Ba sư chú mới có tên là Chân Nhất Xả, Chân Nhất Chúng và Chân Nhất Uyển.

Trước đó, vào ngày 11/10/2025, tại chùa Từ Đức, trong khóa tu dành cho Tiếp Hiện, tứ chúng đã cùng thở với nhau thật bình an để hộ niệm cho lễ xuất gia đón chào ba vị tân sadini, cũng thuộc gia đình xuất gia cây Bách Xù (Juniper).
Ba sư cô mới có tên là Chân Phương Hạnh, Chân Chiếu Hạnh và Chân Viên Hạnh.

Như vậy gia đình cây Bách Xù gồm có ba tân sadi xuất gia tại tu viện Lộc Uyển, Mỹ và ba tân sadini xuất gia tại chùa Từ Đức, Việt Nam, cùng hòa nhập vào dòng chảy của tăng thân.
Chúc các sư chú, sư cô tâm bồ đề kiên cố, cùng nhau xây đắp tình huynh đệ, chế tác niềm vui, hạnh phúc, chuyển hóa tự thân để cùng đi trên con đường hiểu và thương thật bền lâu để tự độ, độ tha.
(Khai sơn Tổ Đình Từ Hiếu – Huế)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý.
Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ:
Nhất Định chiếu quang minh
Hư không nguyệt mãn viên
Tổ tổ truyền phú chúc
Đạo Minh kế Tánh Thiên.
Từ đây, bước chân của Sư Tổ đã in dấu ấn trên khắp vùng đất Cố Đô. Đi đến đâu Người cũng gieo xuống những hạt giống hiểu biết, thương yêu, vững chãi và thảnh thơi trên mảnh đất nhân tâm. Từ những ngôi làng quê cho đến chốn kinh thành, các vua quan lúc ấy nhờ thấm nhuần ân đức của Sư Tổ mà muôn dân được an bình. Cũng do đó mà vua Minh Mạng đã mời Sư Tổ giữ chức Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự. Tăng Cang là người có khả năng làm khuôn thước đạo đức cho đạo cũng như đời. Với đạo đức và uy phong của Sư Tổ, Người thực sự là một vị Thầy tâm linh, làm chổ nương tựa cho vua dân chốn Thần Kinh lúc bấy giờ. Giáo lý mà Người trao truyền, vì vậy đã mang đậm dấu ấn nhập thế, không chỉ dừng lại ở chốn Thiền môn mà đã đi vào các lĩnh vực khác của cuộc sống.
Năm 1843, sau khi thôi làm Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự và trao quyền điều hành chùa Báo Quốc cho pháp đệ là Hòa Thượng Nhất Niệm, Người một mình, một bát vân du đến núi Dương Xuân, dựng am tranh bên một con suối nhỏ, lấy tên là An Dưỡng Am. Sư Tổ đã đưa mẹ mình cùng với ba người đệ tử về đây cùng tu tập, hằng ngày cuốc đất trồng rau, vui nếp sống thanh bần. Lúc ấy, Sư Tổ đã đến tuổi lục tuần, nhưng Người vẫn làm bổn phận của một người con hiếu đối với người mẹ già tám mươi tuổi. Một hôm, mẹ của Người ốm nặng và thầy thuốc nói rằng, cụ bà cần phải tẩm bổ thì mới mong qua khỏi. Sư Tổ đã chẳng ngần ngại, chống gậy xuống núi, đến chợ Bến Ngự mua một con cá thật to, mặc những lời thị phi hai bên đường, Người ung dung xách trên tay đem về nấu cháo dâng mẹ. Tiếng đồn vang đến Vua Thiệu Trị, vua không chịu được, liền tức tốc lên Thảo Am của Người để tìm hiểu thật hư, khi vừa đến Thảo Am thì đúng lúc Sư Tổ đang dâng bát cháo cá cho mẹ. Vua hiểu ra được mọi điều và niềm cảm phục nơi vua lại tăng lên bội phần. Công việc đó Người có thể nhờ một học trò cư sĩ của mình làm được, nhưng không, Người đã tự mình làm chuyện đó, để rồi câu chuyện cứ lan truyền trong nhân gian làm cảm hóa không biết bao nhiêu người.
Tuy người ở chốn thâm sơn nhưng đạo phong của Người vẫn còn đó, cho nên các vua quan và học trò của Người vẫn thường lên thăm. Đường đi thật khó khăn, từ Kinh thành Huế lên thảo am của Người chỉ có năm cây số, vậy mà phải mất nữa ngày đường mới tới nơi. Có lúc các vua quan ngỏ ý muốn xây một ngôi chùa cúng dường Sư Tổ nhưng Người đã nói: “Nếu muốn ở chùa thì tôi đã ở Giác Hoàng Quốc Tự, ở Chùa Báo Quốc rồi, đâu cần phải lên đây dựng thảo am làm chi”. Có những lúc khác, thấy Người túng thiếu, các quan lại có ý muốn cúng dường thì Người nói rằng, Người đã có ba người học trò cuốc đất trồng rau, đủ sống qua ngày rồi, chẳng cần chi thêm nữa. Dạ! Đúng rồi thưa Sư Tổ, một người vô sự thì đâu cần tìm cầu chi nữa. Niềm vui của Người là được chơi với mẹ già và trao truyền trái tim của mình cho những người đệ tử. Chúng con cảm thấy thật may mắn, khi các thế hệ Tổ sư đi qua đã tiếp nối được Người một cách xứng đáng và để cho hôm nay chúng con được nương tựa.
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con thấy là chúng con cũng đã có mặt một lần cùng với Người, khi Người đặt bước chân đầu tiên đến núi Dương Xuân. Chúng con cũng đã có mặt trong những người học trò của Người và hằng ngày cùng cuốc đất trồng rau với Người. Chúng con cũng đã có mặt với Người khi Người xuống núi làm một người vô sự, và bây giờ đây, Người cũng có mặt với chúng con trong giờ phút hiện tại, trong mỗi hơi thở, mỗi nụ cười và mỗi bước chân vững chãi của chúng con. Thảo am ngày xưa ấy, đã khơi nguồn cho dòng suối cam lộ chảy mãi cho đến hôm nay. Chúng con thật hạnh phúc khi biết rằng, giờ đây con cháu của Sư Tổ đã có mặt khắp mọi nơi. Đi đến đâu chúng con cũng đang tiếp nối công việc của Sư Tổ, là gieo xuống mảnh đất tâm của mọi người những hạt giống hiểu biết, thương yêu, vững chãi, thảnh thơi mà chúng con đã được tiếp nhận từ thầy tổ, và chúng con cũng ý thức là Người cũng đang làm công việc đó với chúng con trong giờ phút hiện tại.
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con cảm thấy lòng mình thật ấm áp, khi được ngồi đây và nói lên được lòng biết ơn của chúng con đến với Người. Xin Sư Tổ luôn có mặt đó và bảo hộ, che chở cho chúng con.
Nam mô Khai sơn chùa Từ Hiếu Sư Tổ Nhất Định chứng minh.
————————————————————————
(Trích từ Pháp thoại của Sư ông Làng Mai, ngày 14.12.2006 tại Xóm Thượng, chùa Pháp Vân, Làng Mai, khóa An cư kiết Đông)
Khi đọc lại tiểu sử của Tổ Nhất Định, người khai sinh ra chùa Từ Hiếu, mình thấy có một điểm son. Điểm son của Tổ Nhất Định không phải là Ngài được làm Tăng Cang nhiều chùa Vua. Điểm son của Ngài không Phải là Giới Đao Độ Điệp, được Vua và các quan sùng kính, rồi được làm trụ trì hết chùa này đến chùa kia. Điểm son của Tổ Nhất Định là đến độ tuổi suýt soát sáu mươi thì Ngài cương quyết thoát ra. Ngài đã tìm cách xin với Vua trả hết tất cả những ngôi chùa kia để về núi Dương Xuân, dựng một am tranh ở một mình, với người mẹ. Một người được trọng vọng, được cung kính, có nhiều lợi lộc, quyền danh như vậy, mà chỉ trong vòng một niệm là buông bỏ được, thoát ra được. Đó là điểm son của Tổ Nhất Định.
Cố nhiên là lên đồi Dương Xuân, Ngài chỉ cất một cái am tranh thôi. Ngài đi với hai người đệ tử, hai thầy trẻ mới thọ đại giới. Ba thầy trò cuốc đất trồng khoai. Hồi đó, ở xung quanh chùa Từ Hiếu hoang vu lắm, không phải như bây giờ. Có nhiều vị quan trong triều đình nhớ Ngài và tìm lên. Thấy Ngài sống cực khổ quá, họ thấy tội nghiệp. Trong khi đó, Ngài hạnh phúc quá chừng. Chưa bao giờ Ngài hạnh phúc như vậy. Tại vì Ngài đã buông bỏ tất cả. Ngài được sống một mình với hai người đệ tử, cuốc đất trồng khoai và được sống với người mẹ “chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau”. Các quan xin với Ngài để lập chùa cho “có tiện nghi”. Ngài nói: “Thôi thôi, tiện nghi thì tôi có quá nhiều rồi. Chính tôi đi kiếm cái này”. Và Ngài cương quyết không cho các quan lên lập chùa. Cúng dường cái gì Ngài cũng trả lại hết. Điểm son của Tổ Nhất Định là chuyện đó. Và mình, con cháu Từ Hiếu, phải hãnh diện là mình có một vị thầy như vậy: Buông bỏ công danh, phú quý, địa vị dễ dàng như buông bỏ một đôi dép cùn. Cái đó là điểm son của Ngài, chứ không phải là làu thông tam tạng Kinh điển, hay những chức vị và sự sùng kính của Vua và các quan. Đến ngày giỗ Tổ, để xưng tán công hạnh của Tổ thì phải nói điểm đó.

Nguồn: Xin bấm vào kết nối dưới đây để được liên tục cập nhật hình ảnh và tin tức cứu trợ.
Bài viết sau đây của cô Gisele Theriault, người Canada, là một vị Tiếp Hiện tập sự, hiện đang là thiền sinh tham dự 3 tháng an cư kiết thu 2025-2026 tại xóm Mới. BBT chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh “The Gift of Community” https://justbkind.substack.com/p/the-gift-of-community
Bạn hiền thương,
Mong rằng đã có nhiều điều thuận lợi đến với bạn để thân tâm bạn nhẹ nhàng, thư thái và an lạc.
Trong tuần qua, tại Làng Mai Pháp, đại chúng bận rộn không thể tưởng tượng được bạn à. Thứ Sáu tuần trước, Sư cô Bảo Nghiêm, một sư cô lớn tại xóm Mới đã xả bỏ báo thân. Vì vậy nên tất cả mọi người đã bỏ ra nhiều tâm huyết để tạo nên một khung cảnh thật đẹp và long trọng, nhằm tôn vinh cuộc đời tu tập của Sư cô.
Trong năm ngày sau đó, quý sư cô xóm Mới và xóm Hạ đã liên tục túc trực bên cạnh nhục thân của Sư cô được quàn tại thiền đường (Trăng Rằm, xóm Mới) rất trang nghiêm. Nhiều lễ hộ niệm siêu độ và một buổi chia sẻ những kỷ niệm quý báu với Sư cô đã diễn ra thường xuyên trong năm ngày đó. Sau cùng, tất cả mọi người đã tiễn đưa Sư cô đến nơi hỏa táng để cử hành lễ tiễn biệt cuối cùng.

Những thiền sinh dài hạn, trong đó có tôi, đã cùng với quý thầy, quý sư cô Làng Mai dự buổi lễ cuối cùng đó. Tôi giúp lái một chiếc xe van 9 chỗ đi sau chót trong một đoàn xe đưa Sư cô ra nhà hỏa táng. Chứng kiến đoàn xe dài này di chuyển trên những con đường làng trong suốt 45 phút đến nơi có nhà hỏa táng, thực sự đã làm tôi rất xúc động.

Thật là đặc biệt khi chứng kiến cách tăng thân vận hành như một cơ thể, trong đó các tế bào đảm nhận những nhiệm vụ trong các buổi lễ, tiếp tục tu tập an cư một cách đúng mức nhưng đồng thời vẫn có mặt để chào đón và chăm sóc những thiền sinh đến tu tập hàng tuần với một nụ cười.
Nếu việc trở thành một phần trong tổ ong tuyệt vời được sắp xếp một cách khéo léo này để hỗ trợ nhau cuối cùng lại là bài học lớn nhất mà tôi nhận được từ khóa an cư ba tháng, thì quãng thời gian mà tôi ở đây thật sự rất đáng giá. Tôi đã chứng nghiệm rằng pháp môn tu tập không tách rời đời sống hằng ngày, mà chính là đời sống hằng ngày
Hiện tại tôi đang tập sự để thọ giới Tiếp Hiện, do vậy tuần lễ đó đã đem lại cho tôi một cái thấy vô cùng sáng tỏ là khi ta biết ta không phải là một thực thể riêng biệt mà ta đang tương tức với tất cả những cái khác, những khổ đau của ta tự nhiên được giảm thiểu. Giáo lý này gần đây đã đi vào xương tủy của tôi. Nhân và quả, cái này có vì cái kia có. Tôi ở trong bạn, và bạn ở trong tôi.
Ngày thứ Năm, chúng tôi được nghe bài pháp thoại cuối cùng của Sư cô Tuệ Nghiêm tại Làng Mai Pháp. Sư cô đến Làng Mai từ khi còn rất trẻ, và sau hơn 25 năm ở đây, Sư cô sẽ chuyển sang trung tâm ở Úc. Thật đáng tiếc cho tất cả chúng tôi, những người trân quý sự có mặt và năng lượng tu tập của Sư cô, nhưng lại rất may mắn cho các thiền sinh ở Úc.
Bài pháp thoại của Sư cô rất rõ ràng và đi thẳng vào trọng tâm. Sư cô đặt cho chúng tôi những câu hỏi như tại sao chúng tôi đến tham gia khóa an cư, hạnh nguyện của chúng tôi là gì, và sự thực tập đối với chúng tôi chính xác là gì.
Sống theo chánh pháp là thực tập có mặt một cách chánh niệm trong từng việc mình làm. Pháp môn này có thể được áp dụng vào mọi điều, mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ. Muốn có chánh niệm, ta phải có chánh niệm về một điều gì đó. Chánh niệm chuyên chở trong nó một ước muốn được hoàn toàn có mặt, và sẵn sàng đi sâu hơn bất cứ khi nào có thể. Và điều này là điều mà lúc nào ta cũng có thể làm được.

Mỗi người đến các trung tâm tu học của Làng Mai trên khắp thế giới đều mang theo những ước nguyện khác nhau. Có người đến với mong muốn đời sống của mình có thêm sự hòa hợp; có người muốn đào sâu hiểu biết, nuôi lớn từ bi, tăng trưởng sự chuyên cần, muốn tâm mình cởi mở hơn hay rèn luyện khả năng chú tâm. Có người đến để thực tập hơi thở, ôm ấp và chăm sóc nỗi khổ niềm đau, học cách buông bỏ, tập tha thứ, hay chuyển hóa tập khí. Có người đến để nuôi dưỡng tâm cầu học, rộng lượng, hoặc để tiếp xúc với bản tính tự tâm. Khi được thực tập và nuôi dưỡng những ước nguyện ấy trong tăng thân, lợi lạc mang lại sẽ sâu sắc và lớn hơn rất nhiều so với khi ta chỉ đi một mình trên con đường ấy.
Sống, thực tập và thực hiện bất kỳ ước nguyện nào trong tăng thân cũng đều đem lại nhiều lợi lạc hơn so với những gì mà mình đạt được nếu phải thực hiện nó một mình.
Sẽ như thế nào nếu ta đem một ước nguyện vào sự thực tập? Có thể ta sẽ học thêm nhiều cách để có chánh niệm hơn trong khi ngồi thiền, hay trong khi mỉm cười. Chúng ta có thể thực tập ái ngữ, lắng nghe sâu hơn. Ta có thể học cách làm bạn với khổ đau của chính mình hay tạo không gian để yểm trợ một người đang đau khổ. Viết nhật ký, đặc biệt là ghi lại lòng biết ơn, là một pháp môn rất mầu nhiệm. Làng Mai có pháp môn “Làm mới” rất hiệu quả để giúp ta hóa giải những khó khăn, hiểu lầm. Về đây tôi cũng học cách nương tựa vào những gì có thể yểm trợ cho mình, thưởng thức sự tĩnh lặng của thời gian im lặng hùng tráng, tinh tấn hơn trong sự thực tập giới luật và tập buông bỏ. Ở đây có đủ không gian cho tất cả mọi người.
Hầu hết những pháp môn này đều có thể được áp dụng trong đời sống hằng ngày, ở bất cứ nơi đâu. Có sự yểm trợ của tăng thân, ta có thể thực tập dễ dàng.
Chúng ta đang sống trên quả địa cầu này trong thời kỳ có rất nhiều căng thẳng và xáo trộn đối với trái đất và toàn thể sự sống trên mặt đất. Sự toàn vẹn của sự sống con người đang bị đe dọa bằng vô số cách. Mỗi ngày, chúng ta đều đối diện với những tin tức về xung đột, chia rẽ và tàn phá môi trường. Rất dễ cảm thấy nhụt chí, rơi vào cảm giác tuyệt vọng hoặc tê dại. Thế nhưng chính những lúc như vậy, tiếng gọi thúc giục ta quay về với lối sống cộng đồng, với sự thực tập chánh niệm và với sự tu tập tâm linh càng trở nên thúc bách.

Đó lại càng là lý do để nuôi dưỡng và phát triển một cộng đồng có khả năng yểm trợ cho sự tỉnh thức của con người cao quý nhất nơi ta – hay cái vô ngã trong ta. Tăng thân là nơi nhắc ta nhớ lại bản chất đích thực của mình, với lòng từ bi là căn bản, là nơi ta luôn có thể trở về để giúp nhau ôm ấp khổ đau một cách nhẹ nhàng, tiếp xúc với giây phút hiện tại để nhận ra rằng đâu đó niềm vui và hạnh phúc vẫn đang có mặt cho ta.
Trong một thế giới quá nhấn mạnh chủ nghĩa cá nhân và sự chia cách, việc tìm ra, nuôi dưỡng hay phát triển một tăng thân có thực tập đã trở thành một điều có ý nghĩa rất sâu sắc và cấp thiết. Khi chúng ta bước đi, thở và mỉm cười cùng nhau trong chánh niệm, thì đó chính là sự phản kháng thầm lặng trước những năng lượng của sợ hãi và chia rẽ.
Nếu tất cả chúng ta tiếp tục nhìn dưới ánh sáng của tương tức, thì những hoa trái của sự thực tập có thể lan tỏa ra khắp gia đình, xã hội, và cả cho Đất Mẹ.
Từ Pháp Quốc, xin gửi tới bạn bức thư này với tình thương, một bông sen búp và một nụ cười.
Gisele
Đây là lá thư do sư cô Đôn Nghiêm gửi tới Sư cô Bảo Nghiêm lúc Sư cô còn đang điều trị trong bệnh viện.
Thương gởi Sư mẹ Bảo Nghiêm từ Thái Lan
Xóm Trăng Tỏ, Làng Mai Thái Lan ngày 30.08.25
Sư mẹ Bảo Nghiêm thương, quý, kính của con!
Chiều hôm qua, con nghe Sư chị Nhẫn Nghiêm nói Sư mẹ Đoan Nghiêm gởi giấy về xin cầu an cho Sư mẹ vì Sư mẹ đang nhập viện lần thứ ba do tai biến. Lòng con bỗng muốn viết thư cho Sư mẹ! Dạ con là Đôn Nghiêm thưa Sư mẹ! Con có cơ hội được ở xóm Mới hơn tám năm, ở một nơi lâu nhất từ khi con xuất gia tới giờ. Con được ở gần Thầy, làm thị giả Ni trưởng Chân Không, được nuôi dưỡng và lớn lên bởi tình thương, sự chỉ dạy của Sư mẹ, quý sư cô lớn và chị em xóm Mới.
Ngày các sư chị chuyển đi Mỹ, có viết trên bảng thông tin ở nhà ăn rằng dù mình đi đâu vẫn là xóm Mới của nhau… Dạ đúng vậy thưa Sư mẹ, dù con có đi đâu thì Sư mẹ vẫn là Sư mẹ đáng kính quý của con. Con xa xóm Mới ngày 08.01.2019, tính tới nay cũng gần sáu năm rồi, nhanh quá Sư mẹ ha. Con đã chứng kiến lần đột quỵ đầu tiên của Sư mẹ tại phòng Telephone xóm Mới. Cả xóm ai cũng lo lắng cho Sư mẹ vì không biết Sư mẹ sẽ ra sao. May nhờ ơn đức của Bụt Tổ, Sư Ông gia hộ, Sư mẹ đã vượt qua, khoẻ lại từ từ và ai cũng nói Sư mẹ trở thành cô tiên xanh, rất tươi mát, hiền lành, dễ chịu sau đó… Chúng con mừng quá vì chúng con vẫn còn có Sư mẹ bên cạnh.
Tối qua và sáng nay trong giờ ngồi thiền, con nghĩ về Sư mẹ, và nước mắt con rơi. Ngồi đây viết những dòng này, nước mũi con cũng đang chảy, vì con không dám khóc to thưa Sư mẹ! Con xin lỗi Sư mẹ vì con tình cảm quá! Con nghĩ tới những ngày tháng ở xóm Mới, có Sư mẹ, con thấy ấm áp, chở che lắm, con không dám nghĩ tới những ngày tháng sau này… Con cũng không hiểu sao mà con lại muốn khóc thưa Sư mẹ! Mặc dù con biết Sư Ông dạy mình đã có trong nhau, rằng mình đã sống trọn vẹn với nhau rồi thì không có gì phải luyến tiếc nữa… Dù rằng có lần con lên sửa máy sưởi trong phòng Sư mẹ, mùa đông năm đó lạnh lắm mà cửa phòng Sư mẹ bị hư nữa. Phòng Sư mẹ nhỏ xíu nhưng gọn gàng, cái giường ấm lắm. Sư mẹ nói con mang bài thơ qua cho Sư cô Khuê Nghiêm viết thư pháp, khi nào Sư mẹ đi rồi thì dán lên cửa. Con nhớ được hai câu: “Nẻo về sáng tỏ, cửa không bước vào!”. Sư mẹ đã chuẩn bị tâm lý hết cho mình. Mà chắc do con chưa chuẩn bị được tâm lý con…
Con rất biết ơn Sư mẹ hay nhắc nhở, sách tấn các chị em trong sự thực tập. Con nên người cũng nhờ sự chỉ dạy nghiêm túc, thẳng thắn và từ bi của Sư mẹ! Ai cũng nói xóm Mới có Sư mẹ nên nề nếp ra! Sư mẹ nổi tiếng trong bài pháp thoại mà Sư Ông nhắc khi nói về Tâm Bồ Đề kiên cố của Sư mẹ, “có
đuổi cửa trước thì sư mẹ cũng vào lại cửa sau.” Sư mẹ luôn đi thời khoá đúng giờ, đi quán niệm mặc đồ cũng rất tươm tất. Sư mẹ dạy rằng đi ra ngoài là bộ mặt của tăng thân, phải cho đẹp, cho gọn gàng. Sư mẹ làm vườn giỏi lắm, sư mẹ là người dạy con trồng ngò, trồng cải, muối dưa, làm bánh bao, bánh giò, cuốn chả giò… Sư mẹ khéo tay lắm. Năm đó, mỗi sư mẹ nổi tiếng một thương hiệu, Sư Ông phong Sư mẹ là suối nguồn của bánh giò, Sư mẹ Trí Giác là suối nguồn của bánh bao, còn Sư mẹ Thoại Nghiêm thì chúng con phong là suối nguồn của chấp tác vì dù có súc ruột, ai nằm bẹp chứ Sư mẹ Thoại Nghiêm là làm không ngơi tay, nhà bếp sạch không còn một hạt bụi, vườn cây sạch không còn một cọng cỏ…
Lúc anh con mất, Sư mẹ viết một lá thư an ủi con nhiều lắm. Lúc đó Sư mẹ cũng vừa mới mất đi một người em trai. Sư mẹ cũng buồn lắm nhưng Sư mẹ dạy con rằng cuộc sống vẫn phải tiếp tục đi lên, nên Sư mẹ cũng tập vui trong hiện tại để cuộc sống được bình an. Tu tập mỗi ngày có thêm nhiều tuệ giác, và phải luôn để Sư Ông trong tâm mình, để Sư Ông yểm trợ cho mình, có Sư Ông thì sẽ có nhiều chánh niệm hiện tiền. Sư mẹ nói bên Pháp lúc đó lạnh lắm, khắp nơi đông đá đóng băng hết, cây cối thì ủ rũ, nhiều người bị cảm, ai cũng có vấn đề với cái lạnh, ước gì được ấm áp như các em thì sướng quá! Con đọc thư Sư mẹ con cũng nhớ Sư mẹ nhiều lắm, con ước gì Sư mẹ có thể ghé thăm Thái Lan, hoặc trung tâm nào đó ở Việt Nam để hưởng cái nắng ấm, hưởng chuối ba hương, ăn những món quê nhà!
Lúc còn bên Pháp, Sư mẹ hay nhờ con chép pháp thoại Sư Ông cho Sư mẹ, đi dạo ngoài vườn nhìn cây cối thay lá với Sư mẹ, đi tưới rau, làm chao, phơi bí đao, trồng rau thơm, rau ngò, những loài Sư Ông hay dùng… Bây giờ, con và Sư chị Thao Nghiêm vẫn còn trồng bắp, trồng hoa ở Thái, vẫn còn thói quen đi dạo ngắm núi, “tám” với nhau. Chị em chúng con vẫn đang tu học rất hết lòng, Sư chị Thao Nghiêm có thêm nhiều lớp giảng dạy. Các sư em mới xuất gia hay tập sự đều ‘rơi vào tay’ Sư chị hết. Nhờ đó mà cũng ra nề nếp lắm.
Thưa Sư mẹ! Còn con thì xách giỏ đi theo phụ tá cho Sư chị và nhắc lịch giùm vì Sư chị được cái nhiều việc mà hay quên ạ! Chị em chúng con vẫn luôn mang Sư Ông trong lòng, cùng nhau đi tới và yểm trợ cho nhau trên con đường tu học chuyển hóa tự thân, để làm đẹp cho tăng thân! Sư mẹ yên tâm về chúng con nhé!
Con cũng nghĩ về xóm Mới, nơi có quý Sư mẹ Chân Không, Chân Đức, Từ Nghiêm, Thoại Nghiêm, Định Nghiêm, Tuệ Nghiêm; Sư cô Khuê Nghiêm, Sư chị Sùng Nghiêm, Sư chị Sắc Nghiêm, Sư chị Phượng Nghiêm… và rất nhiều quý sư cô, sư chị, sư em xóm Mới đã từng nâng đỡ, chỉ dạy cho chúng khôn lớn, đồng hành chia sẻ ngọt bùi cùng chúng con! Con xin hướng về với lòng biết ơn sâu sắc và nể phục quý sư cô! Và xóm Mới, xóm Hạ, xóm Thượng, Sơn Hạ vẫn đang là nơi nương tựa cho bao người hướng về gốc rễ tâm linh. Con cũng mong là một lúc nào đó con được trở về cái nôi bé thơ, một quãng thời gian quý giá trong đường tu mà sẽ theo con và nuôi dưỡng con mãi về sau.
Con lạy Bụt cầu nguyện cho Sư mẹ thở được khoẻ, ngủ được yên giấc… Những gì đẹp lành từ Sư mẹ mà chúng con đã được tiếp nhận, chúng con xin hứa giữ gìn, nuôi dưỡng mình và trao truyền lại cho thế hệ tương lai.
Con, Đôn Nghiêm

Sáng ngày 9 tháng 11 năm 2025, tứ chúng Làng Mai Pháp đã tập hợp tại Thiền đường Nước Tĩnh, chùa Pháp Vân để yểm trợ năng lượng và hộ niệm cho lễ xuất gia cho 8 người trẻ (7 nam và 1 nữ) đến từ 7 quốc gia khác nhau. Những vị này đã hoàn tất chương trình tập sự 1 năm và sẵn sàng để bước tới thảnh thơi.
Trong niềm vui hân hoan, Tăng thân đón chào các thành viên mới của gia đình xuất sĩ áo nâu. Theo thứ tự xuất gia, các sư chú sư cô mới có pháp tự là:
Sư chú Chân Nhất Hữu (người Úc)
Sư chú Chân Nhất Hợp (người Thụy Điển)
Sư cô Chân Gia Hạnh (người Pháp)
Sư chú Chân Nhất Hộ (người Đức)
Sư chú Chân Nhất Trúc (người Đài Loan)
Sư chú Chân Nhất Tĩnh (người Trung Quốc)
Sư chú Chân Nhất Liệu (người Thụy Điển)
Sư chú Chân Nhất Diệu (người Đức)
Tám cây liễu đã ra đời trong vòng tay thương yêu của gia đình tâm linh và gia đình huyết thống, trở thành những thành viên thuộc thế hệ thứ 44 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 10 phái Liễu Quán.

Buổi chiều cùng ngày, tăng thân đã có một buổi ngồi chơi (Be-In) để đón mừng các vị tân xuất sĩ. Sau khi xuống tóc, khoác lên tấm áo nhật bình của người xuất gia, hình tướng đã khác, mà nơi các sư cô sư chú, năng lượng của tâm ban đầu cũng tỏa rạng trong bước đi, dáng ngồi, nụ cười ánh mắt sáng ngời và những chia sẻ thấm đượm lòng tri ân đối với Tam Bảo, Sư Ông, tăng thân, và gia đình huyết thống.
Gia đình của các vị tân xuất sĩ cũng chia sẻ niềm tri ân và sự yểm trợ đối với con đường mà con trai, con gái của họ đã chọn. Nhiều cha mẹ đã chia sẻ là “thấy con của mình thật hạnh phúc và mãn ý” (a sense of happiness and fulfilment.)
Gia đình xuất gia mới có tên là Cây Liễu (Willow Tree). Ở các nước châu Âu nói chung và miền Nam nước Pháp nói riêng, nơi tọa lạc của Làng Mai, cây liễu là một loại cây rất phổ biến. Cành liễu rất dẻo dai và bền nên thường được sử dụng để làm nguyên liệu trong thiết kế nội thất. Ngoài ra, cây liễu còn có tính năng thanh lọc sinh học, hỗ trợ trồng rừng, tái tạo đất cũng như trong y học, các thành phần của cây liễu có tác dụng điều chế thành các phương thuốc chữa bệnh.
Mong rằng quý sư cô, sư chú mới nuôi dưỡng Tâm Bồ Đề kiên cố dẻo dai như cành liễu, chí tu tập vững bền, chuyển hóa nội tâm, chế tác an vui, hạnh phúc để trở thành các pháp khí trong sự nghiệp tự lợi, lợi tha.
Kính mời Đại chúng cùng thưởng thức và hoà vào không khí trang nghiêm mà hân hoan đón chào những vị xuất trần thượng sĩ trẻ mới.
Hình ảnh lễ xuất gia gia đình Cây Liễu