XIII. Đạo Bụt không biên giới

1. Phi tôn giáo

Biết rằng những người mất gốc là những người đau khổ, Thầy không bao giờ khuyến khích ai bỏ đạo gốc, trái lại phải trở về với gốc rễ của mình để kết nối và bồi đắp. Từ những khóa tu đầu trong thập niên 80, các thiền sinh đến từ nhiều truyền thống như thiền Nhật Bản, Tây Tạng, Nam tông, và cả truyền thống Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo và Do Thái giáo. Tất cả đều cảm thấy thoải mái với cách hướng dẫn của Thầy. Thầy đã mang giáo lý và sự thực tập đạo Bụt ra khỏi bối cảnh của tôn giáo để phụng sự một cách rộng rãi trong các trường học, cơ quan y tế, nơi làm việc và khắp nơi trên thế giới.

Nhiều thiền sinh sau này đã trở thành những người thầy dạy chánh niệm hàng đầu ở phương Tây, trong đó có Joan Halifax, Jack Kornfield, Joanna Macy và Sharon Salzberg. Bác sĩ Jon Kabat-Zinn dự khóa tu với Thầy tại Hội Thiền Minh Sát (Insight Meditation Society) ở Massachusetts năm 1987. Vị bác sĩ này vẫn đang tiếp tục sử dụng chánh niệm trong việc trị liệu. Đến nay, ông vẫn tìm mọi cách để áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống bằng cách vượt thoát ý niệm tôn giáo. Ông trở thành sáng lập viên cũng như giám đốc của bệnh viện Giảm căng thẳng tại trung tâm Y khoa Massachusetts.

Những cách thức mới mẻ, đầy sáng tạo và vô cùng hiệu quả trong thiền tập do Thầy giảng diễn đã được hàng ngàn người dạy thiền tiếp nhận và chia sẻ lại với hàng triệu người trên toàn thế giới.

Trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, Thầy đã mang giáo lý và sự thực tập đạo Bụt ra khỏi bối cảnh của tôn giáo để phụng sự cho thế giới. Thầy đã hướng dẫn các khóa tu đặc biệt cho các nhà tâm lý trị liệu, thầy cô giáo, giới lãnh đạo doanh nghiệp, chính trị gia, khoa học gia, những nhà sinh môi, nghệ sĩ, nhân viên cảnh sát và thậm chí cả cho người Do Thái và người Palestine[311]. Có những giáo viên thỉnh chuông cho học sinh thở, và thậm chí có những linh mục tổ chức thiền trà cho giáo dân trong giáo phận của mình. Ngày nay tại Quốc hội Hoa Kỳ, có những nghị sĩ đã áp dụng thiền hành trong khi đi đến phòng bỏ phiếu. Thầy đã cống hiến một chiều hướng tâm linh bằng cách đưa chánh niệm vào trong sinh hoạt hằng ngày, không phân biệt tôn giáo. Tại Hoa Kỳ, Thầy đã hướng dẫn các khóa tu cho cựu chiến binh Mỹ, những người đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh trên quê hương của Thầy, giúp mang lại sự hòa giải sâu sắc.

Mỗi năm, số người từ khắp nơi trên thế giới tìm tới Làng Mai để tu học ngày càng đông. Thầy nói: “Đạo Bụt của chúng tôi là một đạo Bụt không biên giới”[312]. Với Thầy, ai cũng có thể thực tập và hưởng được lợi lạc từ giáo lý đạo Bụt. Đạo Bụt là một gia tài của cả nhân loại chứ không chỉ dành riêng cho những người Phật tử, bởi đạo Bụt được làm bằng những yếu tố không phải là đạo Bụt. Không những Thầy đã làm mới lại đạo Bụt mà Thầy còn giúp các bạn phương Tây làm mới lại truyền thống của họ.

Giáo lý của Thầy về “chánh niệm trong đời sống hàng ngày” và phương pháp thiền hành do Thầy khởi xướng giờ đây đã được phổ biến rộng rãi bởi phong trào chánh niệm và đã đem đến sự trị liệu cho hàng trăm ngàn người ở khắp nơi trên thế giới.

 

2. Quy tắc của một nền đạo đức toàn cầu

Những năm Thầy ở Việt Nam, trong bối cảnh đất nước bị thực dân đô hộ và chiến tranh kéo dài với ý thức hệ và vũ khí của ngoại bang, Thầy đã đào sâu vào gia tài của Phật giáo Việt Nam để tìm một hướng đi cho dân tộc. Thầy cũng đã đào sâu vào gia tài tâm linh của đạo Bụt để cống hiến những quy tắc đạo đức có thể vượt ra khỏi biên giới của văn hóa và tôn giáo, gieo trồng hạt giống của một sự giác ngộ tập thể.

Thầy đã trình bày cái thấy của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu qua Năm giới tân tu tại Hội nghị thượng đỉnh về AIDS được tổ chức tại Nhà Trắng; với Phó tổng thống Ấn độ K.R. Narayanan (kết quả là ông đã thành lập một Ủy ban Đạo đức ở Quốc hội), và tại Hội nghị Kinh tế Thế giới ở Davos, Thụy Sĩ[314]. Ước tính  từ thập niên 1980, trong các buổi lễ truyền giới do Thầy và tăng thân chủ trì, có hàng trăm ngàn người đã chính thức cam kết đem những nguyên tắc đạo đức này áp dụng vào đời sống hàng ngày. Năm 1999, UNESCO mời Thầy cùng với các ứng cử viên cho giải Nobel hòa bình khởi thảo bản “Tuyên cáo về một nền hòa bình và bất bạo động năm 2000” (“Manifesto 2000”) cho thiên niên kỷ mới[315]. Bản Tuyên cáo đó là một cam kết thực hành 6 điểm đạo đức cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng dựa trên Năm giới tân tu của Thầy. Bản tuyên cáo đã lấy được trên 70 triệu chữ ký khắp  thế giới, trong đó có chữ ký của nhiều nguyên thủ quốc gia.

Rất nhiều năm trước khi Thầy được phép trở về Việt Nam, Thầy đã được mời đem giáo pháp đạo đức ứng dụng sang Trung Quốc: lần đầu tiên là vào  năm 1995. Sau đó, ba chuyến hoằng pháp liên tiếp dưới sự bảo trợ chính thức của Hiệp Hội Phật giáo Trung Quốc vào các năm 1999, 2001 và 2002[316]. Thầy đã có cơ hội tham bái tổ đình của dòng thiền Lâm Tế, được mời cho pháp thoại, hướng dẫn khóa tu và lần đầu tiên giới thiệu về bản Năm giới tân tu bằng chữ Hán. Thầy đã gặp gỡ Thứ trưởng về Tôn giáo và tặng ông câu thư pháp bằng tiếng Anh với dòng chữ “Spiritual Dimension” (Chiều hướng tâm linh). Thầy giải thích rằng “Hiện trong mọi lĩnh vực của sự sống xã hội và con người, như chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, v.v. yếu tố tâm linh đã trở nên rất cần thiết, vì vậy Thầy mong rằng Tôn Giáo Sự Vụ có thể nâng đỡ cho Phật giáo để Phật giáo có thể cống hiến được tuệ giác và kinh nghiệm cho xã hội, để làm giảm bớt bạo động, lo lắng và khổ đau trong những lĩnh vực của sự sống”.

Ngày xưa, chư Tổ đem giáo lý đạo Bụt từ Trung Quốc sang Việt Nam. Giờ đây, Thầy đem về lại cho Trung Quốc một đạo Bụt mới, đầy sức sống, mang tính thực tiễn và dễ áp dụng vào đời sống. Những cuốn sách của Thầy như Giận, Phép lạ của sự tỉnh thứcĐường xưa mây trắng được rất nhiều người Trung Quốc, đặc biệt là giới trẻ yêu thích. Thầy rất vui khi bản dịch quyển Bước tới thảnh thơi – cẩm nang dành cho sa di và sa di ni từ chữ Hán cổ sang chữ Hán hiện đại của Thầy có thể được xuất bản ở Trung Quốc và được sử dụng rộng rãi tại các Viện Phật học. 

3. Sinh thái học bề sâu

Đầu những năm 2000, Thầy trở thành một phát ngôn viên hàng đầu về “sinh thái học bề sâu”, phát triển giáo lý về môi trường mà Thầy đã bắt đầu từ hội nghị Đại Đồng vào những năm đầu của thập niên 1972. Tuệ giác về tương tức trở thành kim chỉ nam cho hoạt động dấn thân của Thầy. Trong tác phẩm The World We Have (Hướng đi của đạo Bụt cho hòa bình và môi sinh) được xuất bản năm 2008, Thầy không ngần ngại nói ra sự thật về sự khủng hoảng sinh môi ngày càng trầm trọng và đề ra hướng đi của đạo Bụt để đối trị với tình trạng ấy. “Nếu loài người chúng ta vẫn tiếp tục sống như hiện nay thì nền văn minh của chúng ta sẽ sớm bị diệt vong”. Năm 2007, theo sự chỉ dạy của Thầy, tất cả các trung tâm tu học của Làng Mai đã bắt đầu ngưng dùng những sản phẩm làm từ sữa như bơ, phô mai… nhằm gửi một thông điệp mạnh mẽ đến mọi người rằng một chế độ ăn chay không dùng các sản phẩm làm từ sữa, dựa trên rau củ quả có thể làm giảm thiểu khổ đau và bảo hộ trái đất[318]. Tuệ giác sâu sắc nhất của Thầy dành cho các nhà hoạt động môi trường, được ghi lại trong quyển sách Tâm tình với đất Mẹ, là một lời mời gọi “hãy yêu thương đất Mẹ”. Chính tình thương đối với đất Mẹ sẽ là nguồn năng lượng thực sự bền vững gây cảm hứng cho các nhà hoạt động môi trường trong hành động và sự dấn thân của họ.

4. Nền tảng đạo đức để xây dựng hòa bình

Tháng 09 năm 2001, trong lúc Thầy đang ở Hoa Kỳ để hướng dẫn các khóa tu, cho pháp thoại công cộng và trả lời các buổi phỏng vấn về quyển sách Giận vừa mới xuất bản thì tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) ở New York bị tấn công. Thầy đã dẫn đầu đoàn thiền hành với hàng trăm người đi chung quanh khu Ground Zero – nơi tưởng niệm các nạn nhân thiệt mạng trong vụ khủng bố nói trên. Thầy đã đề cập tới vấn đề bất bạo động và sự tha thứ trong bài phát biểu trước một thính chúng hơn 2000 người tại nhà thờ Riverside, nơi mà 35 năm về trước Mục sư King đã lên tiếng chống chiến tranh Việt Nam. Rất nhiều người đã cố gắng thuyết phục Thầy đừng lên tiếng vì e rằng có thể Thầy sẽ gặp nguy hiểm khi kêu gọi người dân Mỹ bình tĩnh, thực tập từ bi và bao dung trong lúc sự căng thẳng đang lên đến đỉnh điểm. Thầy nói: “Cho dù thầy có bị bắn khi thầy lên tiếng thì thầy  vẫn còn là thầy của quí vị. Nhưng nếu vì sợ hãi mà thầy giữ im lặng thì thầy sẽ không còn xứng đáng là thầy của quí vị nữa, và sự mất mát ấy còn to lớn hơn nhiều”.Hai năm sau, lúc tình hình căng thẳng giữa Nam – Bắc Triều Tiên lên cao điểm, trong một bài phát biểu tại Hàn Quốc, Thầy nhận xét rằng “Các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta được huấn luyện về khoa học chính trị nhưng không được đào tạo về cách thức xây dựng hòa bình, trong nội tâm cũng như bên ngoài. Chúng ta cần giúp họ đem lại một chiều hướng tâm linh cho đời sống chính trị của đất nước”[319]. Năm 2003, sáu tháng sau khi Hoa Kỳ chiếm đóng Iraq, Thầy đã mạnh dạn kêu gọi hòa bình tại Thư viện Quốc hội (Library of Congress) của Hoa Kỳ, gặp gỡ Thượng nghị sĩ John McCain để nói lên mối quan ngại của mình. Cũng trong dịp này, Thầy đã hướng dẫn hai ngày tu chánh niệm cho các nghị sĩ Hoa Kỳ. Một lần nữa, Thầy khẳng định điều quan trọng là đừng cho kẻ thù của mình là quỷ dữ, như Thầy đã từng khẳng định trong chiến tranh Việt Nam, mà nên nhìn họ với con mắt từ bi, đó mới là cách hay nhất để bảo đảm sự an ninh và hòa bình đích thực. Theo Thầy, từ bi là biểu hiện của sức mạnh và lòng can đảm vô cùng to lớn, chứ không phải là sự yếu đuối như ta thường nghĩ.