Thử tìm dấu chân trên cát

Tôi thấy em nơi sân nghèo cô nhi viện

hai mắt của em buồn

chứa đầy tủi hận 

khi thấy tôi

em quay mặt nhìn nơi khác

bàn tay em vẽ những vòng tròn

loanh quanh trên mặt đất

tôi nào dám hỏi ba má em đâu

tôi nào dám khơi động nguồn mạch thương đau

tôi chỉ muốn chuyện trò chốc lát

cười nói đôi câu

ngi với em một phút

cho em i chút u su

đt nưc đau cùng s phn

em hãy m ming i

đ cho nhau hy vng

thế h các em

chưa đy năm tui trên đu

đã thy tan tành hoa mng

cuc đi xô v hung hãn cung bo

kh ly vì đâu

thế h chúng tôi kém hèn gây nên ng ni

lát na ri tôi đi

đ em li sân nghèo cô nhi vin

hai mt ca em bun

tôi đi

em tr v góc sân quen thuc

và ngón tay em li v nhng vòng

thương đau trên mt đt.

Mỗi khi đọc bài này tôi lại nhớ đến những năm 1957 – 1958 tôi hay đi thăm các em trong Cô nhi viện Thị Nghè. Tôi rất thương các em cô nhi nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy như nghẹt thở mỗi khi đến cô nhi viện. Nếu một bà mẹ không thể nào thương yêu và chăm sóc chu đáo cho hai mươi đứa con của mình thì một nữ tu sĩ cũng khó mà có thể thương yêu chăm sóc bảy chục hay một trăm em cô nhi. Lần nào đi cô nhi viện về tôi cũng bâng khuâng buồn bã. Sau đó tôi bỏ cô nhi viện, đi làm việc tại các xóm ổ chuột tại thành phố, rồi đi làm Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Mãi đến năm 1973, sau khi hòa ước được ký kết tại Paris tôi mới có nhiều thì giờ lo cho các em. Càng suy nghĩ nhiều về vấn đề cô nhi, tôi càng hiểu rõ vì sao tôi vẫn có cảm giác khó thở khi vào các cô nhi viện. Cô nhi viện chỉ là sản phẩm của người Tây phương. Ngày xưa Việt Nam không có cô nhi viện và con mồ côi vẫn sống bên ông bà hay cô chú của chúng. Nếu mỗi cô nhi có được một số tiền trợ cấp hằng tháng để không là gánh nặng cho gia đình người bà con nuôi em thì em sẽ hạnh phúc khi ở với ông bà cô chú hơn là sống trong cô nhi viện. Tôi soạn thảo một dự án tìm người bảo trợ cô nhi, chịu cấp dưỡng tiền hằng tháng cho gia đình nuôi các em mà quá nghèo. Sau khi bổ túc và chấp thuận, Phái đoàn Phật giáo tại hải ngoại đã gửi dự án này về trình lên Ủy ban Tái thiết và Phát triển của Giáo hội. Trong dự án này, ngoài việc tạo điều kiện giữ các em lại dưới mái gia đình êm ấm của ông bà hay cô dì các em, chúng tôi còn đề nghị chẻ những cô nhi viện quá đông trẻ em ra thành nhiều tiểu gia đình để các em sống lại không khí ấm cúng của một gia đình nhỏ. Chúng tôi lập tại mỗi nước một tiểu ban để lo cho chương trình này. Nhiều người bạn trẻ người ngoại quốc quen thân với phái đoàn được mời vào các tiểu ban này để kêu gọi sự ủng hộ của người địa phương nước ấy. Bài thơ Tôi thy em nơi sân nghèo cô nhi vin vì vậy đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các tiểu ban nói trên ấn hành rộng rãi. Cứ nước nào vừa lập xong tiểu ban lo cho cô nhi Việt Nam thì bài thơ này lại được ấn hành hàng ngàn bản bằng tiếng nước đó để gửi đi kêu gọi. Vào tháng 6 năm 1973, chúng tôi chỉ mới tìm ra bốn mươi gia đình bảo trợ cho bốn mươi cô nhi tại gia Việt Nam; vậy mà đến tháng hai năm 1975 chúng tôi đã tìm được 9.670 người để bảo trợ cho 9.670 cô nhi. Các ca sĩ như Joan Baez, Nana Mouskouri đã nhiều lần tặng tiền cho dự án này. Tại Paris và các tỉnh lớn ở Pháp, chúng tôi thường mời các nhạc sĩ danh tiếng như Graeme Allwright, Maxime Le Forestier, Claude Nougaro, Dick Annegan,… đến hát. Lần nào Pierre cũng năn nỉ thầy Nhất Hạnh lên đọc dùm bài thơ này trước khi nhạc hội mở đầu. Tôi và Pierre vẫn thường hay đi dán bích chương cổ động các nhạc hội vào khoảng tám giờ tối đến hai giờ khuya. Đêm nào về, tay chân của hai chị em cũng lạnh cóng vì băng giá. Thầy có nhắc tới chuyện này trong một bài thơ trong đó có những câu:

thương vơ a lon lc

Sen Vàng m gi khp tri Tây

t hoa nhc hi bng chiêng trng

xóm i thôn trên dán cht đy

gng mc đưng dây trăm x l

ân nghĩa bên tri mãi dng xây

Sen Vàng tức là báo Le Lotus của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Paris ấn hành trên giấy màu vàng bằng Anh ngữ và Pháp ngữ. T hoa đây là những tờ quảng cáo đại nhạc hội. Bé đây là các cô nhi.

Người trẻ làm việc cho chương trình này cũng khá đông. Pierre, Neige, Mobi, Hương và tôi làm việc toàn thời gian tại văn phòng phái đoàn. Thoa, Lội, Hoàng Anh, Hằng, Hải, Tính, Nga, anh Trương, anh Cao Thái giúp dịch hồ sơ tại nhà mỗi đêm vài giờ. Một số sinh viên khác đến giúp bất định kỳ, tùy theo khả năng. Huệ Châu và anh Hướng cũng lãnh về nhà hàng chồng hồ sơ cô nhi. Anh Hướng tuy là khoa học gia nhưng cũng là thi sĩ. Thơ anh đã được in thành hai tập từ hồi còn là sinh viên, và Lá Bối 1978 có ấn hành tập Ngày m v của anh, ký tên là Hoài Việt. Điều mà tôi ghi mãi trong lòng về hai người bạn này là anh chị luôn đặt mình vào thế đứng tôn trọng sự sống của con người và chống đối những bất công từ bất cứ hướng nào. Trong những ngày mà tiếng nói của lập trường này bị bóp chẹt nhất, Hướng và Huệ Châu lúc nào cũng sẵn sàng nói: “Có chúng tôi đây!”