Dòng Tiếp Hiện và những hoạt động dấn thân

52 năm theo thầy học đạo và phụng sự – Hồi kí của Sư cô Chân Không



Sáu người đầu tiên thọ mười bốn giới Tiếp Hiện

6 người đầu tiên thọ giới Tiếp Hiện

Từ trái sang phải: Phạm Thúy Uyên, Cao Ngọc Phượng, Nhất Chi Mai, Nguyễn Văn Phúc, Bùi Văn Thanh, Đỗ Văn Khôn

 

Khi Chùa Lá Pháp Vân vừa xây xong thầy quyết định cho sáu anh chị em chúng tôi làm lễ thọ 14 Giới Tiếp Hiện để chúng tôi, khi chưa xuất gia được thì vì giữ giới Tiếp Hiện tại gia nên vẫn phải giữ ít nhất là một ngày tu học chánh niệm 24 giờ hằng tuần. Người Tiếp Hiện phải tập bỏ hết mọi hoạt động sang bên, sống như người xuất gia vô sự ít nhất là một ngày mỗi tuần và 60 ngày tất cả trong một năm 365 ngày. Sáu người sung sướng nhất đời ngày hôm đó

Cao Ngọc Phượng - Áo Tiếp Hiệnlà: Diệu Huỳnh Phan Thị Mai, Diệu Không Cao Ngọc Phượng, Diệu Thiện Phạm Thúy Uyên, anh Tuệ Linh Đỗ Văn Khôn, anh Minh Tịnh Bùi Văn Thanh và anh Tâm Thông Nguyễn Văn Phúc. Sáu người chính thức thuộc chúng chủ trì dòng tu Tiếp Hiện. Hôm đó có cả trăm người rất mong được thầy chấp nhận cho thọ giới chính thức như chúng tôi nhưng thầy khuyên nên làm chúng đồng sự trước. Khi sự tu học vững chãi, thầy sẽ làm lễ đưa vào chúng chủ trì như sáu anh chị hôm nay. Các bạn như chị Đỗ Thị Nga, Nghiêm Kim Chi, Nghiêm Thị Bạch Tuyết, Vũ Thị Tố Nga, Trịnh Ngọc Sương… và tất cả các anh em trong Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đều là chúng đồng sự của dòng Tiếp Hiện từ ngày hôm đó. Nhiều người tu học và dấn thân còn giỏi hơn các vị trong chúng chủ trì nữa. Chúng tôi rất có phước được thầy truyền giới vào một ngày trăng tròn tháng 01 năm Bính Ngọ (nhằm ngày 05 tháng 02 năm 1966).

Ai cũng nghĩ rằng lần lượt rồi ai cũng vào chúng chủ trì như thầy hứa. Không ngờ hai tháng sau, thầy được trường Đại Học Cornell ở Ithaca, New York mời đi trình bày về nguyện vọng người Phật Tử Việt Nam trong chiến tranh hiện tại. Thầy rời nước ngày 02 tháng 05 năm 1966. Ngày 01 tháng 06 năm 1966 thầy gửi đến thế giới Lời kêu gọi Hòa Bình với năm điểm đề nghị (nguyên văn trong cuốn sách Hoa Sen Trong Biển Lửa). Chính quyền Sài Gòn vô hiệu hóa ngay hộ chiếu của thầy và thầy bị lưu đày từ hôm ấy. Thầy ngỡ là đi vài tuần nhưng bốn chục năm sau mới được trở về. Trong thời gian đó dòng Tiếp Hiện của thầy có cả ngàn nhánh thuộc chúng chủ trì thuộc 42 quốc tịch khác nhau. Nhánh Việt Nam có những người là học trò cũ, trung kiên với lý tưởng dấn thân của thầy, nhưng phải chờ hơn 30 năm sau thầy mới gửi các đệ tử xuất gia của thầy về truyền 14 giới cho tất cả những anh em TNPSXH cư sĩ mà vẫn còn trung kiên với lý tưởng. Khá muộn màng nhưng có còn hơn không.

 

Ngày Chánh Niệm trong tuần

Trưa thứ bảy, sau khi dùng cơm với gia đình, chúng tôi đem theo đồ dùng cá nhân để đến chùa Pháp Vân tu tập Ngày Chánh Niệm. Ở đấy và tập định tâm an trú trong phút giây hiện tại suốt 24 giờ cho đến trưa chủ nhật mới về lại nhà. Bên nam thì ba anh Tiếp Hiện có được hành lang bên trái chánh điện chùa Lá, chia ra làm ba bởi hai tấm màn vải. Ba chị Tiếp Hiện thì chia nhau cái phòng dài, nóc là fibro xi măng và vách gạch kế bên Chùa. Chúng tôi cũng may màn để chia ra làm ba phòng. Mỗi chị một “phòng” rất là khiêm tốn nhưng chúng tôi quá hạnh phúc vì như thế mới thật là tu. Vào chùa, tôi xếp xắp áo quần và vật dùng cá nhân vào một góc, rồi lên chùa lạy Phật và về phòng chuẩn bị nấu nước, tắm, dọn phòng… tất cả từng hành động tôi đều gắng quay về an trú, không để tâm chạy lông bông nữa. Bỏ hết những lo lắng, muộn phiền, bỏ cái lăng xăng phải lo gấp việc này, làm cho kịp việc nọ. Tôi tập nghĩ: “Nếu mình chết chiều nay thì ai lo? Thôi, nhẹ buông cho khỏe, cho bình tĩnh lại, rồi tỉnh ra, sáng suốt hơn thì từ từ mà giải quyết. Từng gáo nước ấm dội lên mình, tôi gột hết những lăng xăng ưu phiền trong thân và trong tâm. Mặc áo mới vào, tôi đi từng bước thảnh thơi ra bìa rừng gần đó, tìm cắt một cành tre hay một cành cây khô. Rồi với vài chiếc lá xanh, vài bông hoa nhỏ bên đường tôi cắm một bình hoa lớn để lên bàn thờ Bụt và một bình hoa nhỏ cho góc phòng của tôi. Khi ba anh và hai chị khác về đầy đủ, lúc ấy cũng hai giờ rưỡi trưa, chúng tôi tập họp trên chính điện, ngồi thiền 15 phút rồi đứng dậy lạy Phật, tụng kinh và thuyết giới. Thuyết 14 giới xong, chúng tôi lạy Phật rồi ngồi thành vòng tròn để pháp đàm về một vài giới trong 14 giới.

Lòng nhẹ tênh sau mấy tiếng đồng hồ làm lắng lòng, định tâm, tụng kinh và tụng giới rồi, chúng tôi trở về lại “phòng riêng của từng người” và tùy ý ngồi thiền thêm hay đọc kinh sách hay vào bếp làm thức ăn trong chánh niệm. Vì có nhiều trách nhiệm, nhiều công việc gấp nên sau năm sáu giờ tĩnh tâm như trên, tôi bắt đầu đem các việc cấp bách ra mà thư thả giải quyết trong chánh niệm và nhẹ nhàng. Có thể nhờ thế mà dù hoàn cảnh cấp bách bức xúc mấy, chúng tôi nhờ chạm được với lòng bình an của mình mỗi tuần trong ngày tĩnh tu này mà hành xử khả dĩ đẹp hơn, từ bi hơn.

Thầy đã ra đi và chờ mãi vẫn không thấy thầy về. Chiến tranh thì càng ngày càng lan rộng. Các báo cho biết sẽ có thêm 50.000 quân Mỹ nữa tới Việt Nam để phụ với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và 100.000 binh sĩ Hoa Kỳ đã có mặt ở nơi đây. Báo chí nói rằng hy vọng như thế mới đẩy lui được quân đội cộng sản ngày càng đông. Quân đội chính quy miền Bắc cũng đã tiến vào. Chúng tôi muốn điên đầu vì thấy xuất hiện nhiều lính Hoa Kỳ trên đường phố quá. Nhà cửa trở nên khan hiếm cho người Việt vì các vị cố vấn Hoa Kỳ dân sự mướn nhà giá quá cao, người công nhân viên trung bình không thể nào tranh kịp những căn nhà thanh lịch. Sư chú Nhất Trí bị một binh sĩ Hoa Kỳ nhổ nước bọt xuống đầu từ trên xe nhà binh vận tải chở lính Mỹ. Chú giận quá, về thuật cho tôi nghe mà khóc và muốn đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tôi an ủi sư chú nói rằng có thể anh lính ấy mới mất một người bạn trong trận chiến nào đó nên nghĩ rằng mình là cộng sản nên “trả thù” cho bạn một cách vô lý như vậy. Tôi thấy rõ là người Mỹ vào Việt Nam không phải để cướp nước đô hộ ta như người Pháp, nhưng truyền thống của Việt Nam là không bao giờ cho quân đội ngoại quốc vào đất nước mình. Như thế là hỏng mất rồi, Việt Nam Cộng Hòa đã mất chính nghĩa từ ngày cho phép đưa 50 rồi 100 rồi 150 ngàn quân Hoa Kỳ vào Việt Nam đánh Cộng Sản Việt Nam. Làm sao? Làm sao đây?

Tôi có nhiều việc phải lo quá, nào là vẫn phải tiếp tục dạy Sinh Vật Học ở Sài Gòn và Huế, nào là phải tiếp tục lo lạc quyên gạo, thực phẩm và thuốc men để gửi ra Đà Nẵng, Quảng Nam hầu tiếp tục đi cứu trợ sau mỗi chuyến đi dạy ở Huế, nào phải điều động Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh mà tôi đã bị bầu làm chủ tịch. Phải ra nội san, phải có chương trình xã hội, hội thảo để kêu gọi hòa bình và cũng làm việc gần như 2/3 thời gian cho Trường TNPSXH, phải đi thu tiền giúp TNPSXH ở các chợ. Nhưng có được 24 giờ, từ trưa thứ bảy đến trưa chủ nhật, là chiếc phao cứu sống tôi, không lạc đường, không bị bức xúc, nhờ tập bỏ hết công việc từ thân đến tâm, bỏ hết những tính toán lo âu, ưu tư trong tâm, ít nhất là trong năm sáu giờ đầu.

 

Lá Bối chui

Song song với việc làm ở Làng Tình Thương, tôi cũng phải làm đúng vai trò Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh nên phải đi họp liên miên với các hội Sinh Viên Luật Khoa, Y Khoa, Khoa Học, Văn Khoa của Viện Đại Học Sài Gòn để cùng với các ban ngành tổ chức hội thảo trong giới sinh viên. Các đề tài hội thảo xoay quanh sự chia sẻ ưu tư làm thế nào để chấm dứt việc cốt nhục tương tàn bởi vũ khí ngoại bang, làm thế nào để mình chống cộng sản mà không cần mời quân đội nước ngoài vào giúp. Quyển sách chui đầu tiên là Chắp Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện của thầy Nhất Hạnh. Đó là một tập thơ viết tay rất đẹp của thầy, nhà xuất bản Lá Bối xin phép in. Vừa in ra thì thiên hạ thích quá mua hết ngay, phải tái bản. Mấy anh chị em thân bên Mặt Trận Giải Phóng cũng mua rất nhiều. Công an quốc gia cũng mua nhưng căn dặn các cô bán sách dấu bên dưới, có ai hỏi thì hãy bán. Ai ngờ một hôm chúng tôi được nghe báo cáo là Đài Phát Thanh Hà Nội và Đài Phát Thanh ở Bắc Kinh “tiếng nói Việt Nam” cùng lên án dữ dội những bài thơ “phản động” này.

Sau khi thầy đã đi kêu gọi hòa bình ở hải ngoại thì chúng tôi tiếp tục in Đối Thoại: Cánh Cửa Hòa Bình, rồi cuốn Hoa Sen Trong Biển lửa, cuốn Đừng Quên, Xin Đừng Vội Quên, (bài mới, không phải là bài đăng ở Tuần san Hải Triều Âm về nạn lụt trên sông Thu Bồn) nói về chiến tranh đang xảy ra và anh em giết nhau từng ngày, từng giờ và Nhìn Kỹ Quê Hương. Tập thơ thứ hai in chui của thầy là Tiếng Đập Cánh Loài Chim Lớn. Tất cả sách in chui đều là của thầy. Chúng tôi rất ý thức là hôm nào mà công an cảnh sát bắt được ai lưu hành tài tiệu phản chiến này thì người đó phải tù ngay.

Hôm đó tôi chở trên xe gắn máy mobylette của tôi 300 cuốn sách mỏng “Đừng quên, xin đừng vội quên” của thầy Nhất Hạnh. Đến giữa cầu Trương Minh Giảng tôi bị chặn lại. Tôi thật hối hận, xưa nay đem phân phát những tài liệu phản chiến tôi đều lái chiếc xe hơi Morris nhỏ xíu của tôi, để sau thùng rất gọn và cảnh sát không bao giờ chặn chiếc ô tô bóng nhoáng lái bởi một cô gái yểu điệu tóc dài. Hôm nay tôi hấp tấp đi lấy tài liệu này vì ngày mai sẽ có buổi họp với sinh viên Luật Khoa. Bức thư thầy viết nhắc những ai đang sống yên lành ở thành phố nên đừng quên, xin đừng vội quên bao nhiêu đồng bào đang chạy dưới đạn bom, chết và đói ở những vùng xa xôi của đất nước. Tôi đã tự nhủ, thôi chuyến này vậy là bị bắt rồi, không cách gì thoát khỏi. Tôi niệm Bồ Tát Quán Thế Âm và “phân bua” với Ngài: Con làm việc này là vì lòng thương thôi, đâu vì danh vì lợi. Thôi nếu bồ tát nghĩ là con cũng nên bị bắt một phen thì con cũng đành thôi. Đi vô tù một lần cho biết. Nghĩ thế tôi bỗng nở một nụ cười thật hiền. Anh cảnh sát hỏi: “Sách gì vậy?” Mở một cuốn sách mỏng ấy ra, tôi đọc lớn: Em, Bây giờ là mấy giờ rồi. Thầy lúc nào cũng bắt đầu dạy hay viết những vấn đề rắc rối khó khăn bằng lối trình bày thật đơn giản nhưng từ từ đưa người nghe hay người đọc vào những tình huống rất sâu. Anh Cảnh Sát nói: “Thư tình hả?” Tôi lại mỉm cười thật tươi và tự nhủ thầm: Thì thư tình chứ gì nữa, tình thương những người chạy dưới đạn bom. Anh ta xếp sách lại và khoát tay bảo đi. Tôi thoát nạn!

Nhưng cuốn sách in chui mà bán chạy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa thầy viết ở Paris và gửi về cho tôi in. Lần đầu tôi in hai nghìn quyển và chiếc xe hơi của tôi cứ chở tới anh HT Chánh một thùng, rồi thầy Thông Bửu hai thùng, rồi em Dương Văn Đầy một thùng, rồi cha Nguyễn Ngọc Lan một thùng, rồi cho chị Nga, rồi chị Uyên, chị Mai, v.v.. Tháng Chín 1966 tôi đi dạy ở Huế mang nguyên hai thùng sách 200 quyển Hoa Sen Trong Biển Lửa, nhờ xe viện đại học chở dùm tới nhà của các em người Huế mà cộng tác với tôi. Tôi không đem quyển sách nào về chùa Từ Hiếu cả dù đêm nào tôi cũng về chùa ngủ vì không thích ở khách sạn Morin mà viện đại học dành cho tôi một phòng khá khang trang.

Nhưng sau đó có lẽ công an thấy Huế tràn ngập sách phản chiến của thầy Nhất Hạnh nên vào tháng 11 năm 1966, khi vào Huế dạy chuyến thứ hai của năm học, tôi bị chặn soát ngay từ phi trường. Tôi có mang theo bản thảo Lời Kêu gọi các giáo sư ký tên đề nghị kéo dài Đình Chiến Tết để đưa tới thương thuyết hòa bình giữa hai miền Việt Nam. Tôi cẩn thận không mang quyển sách in chui nào hết vì biết nơi nào xa xôi thì thiên hạ có thể tự in lại mà phát hành, tôi không cần phải đem nhiều lần. Nhưng rủi cho tôi là hôm đó chị Lê Khắc Phương Thảo là con của ông Lê Khắc Duyệt, cựu trưởng ty Cảnh Sát Công An Thừa Thiên có gửi cho mẹ một gói quà trong đó có nhiều tiền và hai cuốn sách Hoa Sen Trong Biển Lửa. Tôi bị bắt quả tang có mang theo tài liệu phản chiến Hoa Sen Trong Biển Lửa nằm trong gói quà của Phương Thảo gửi cho mẹ, dù có ký tên là Lê Phương Thảo. Cảnh sát đem tới cho bà Duyệt tiền con gái gửi nhưng vẫn giữ hai cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa, xem như tài liệu phản chiến do tôi mang đi! Tôi hoàn toàn không biết sự có mặt của hai cuốn sách ấy nhưng tình ngay lý gian thì cũng chịu thôi. Khi năm anh cảnh sát chia nhau đọc từng trang sách tài liệu tôi mang ra dạy, tôi biết rất rõ xấp giấy nào tôi nhét tài liệu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Tôi im lặng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát và nói thầm với Ngài: Nếu Bồ Tát muốn con làm việc này thay cho Ngài thì xin Ngài lo cho con. Anh cảnh sát khoảng 23 tuổi cầm lên đọc tờ Kêu Gọi Hòa Bình của tôi. Tôi thấy tay anh hơi run. Anh liếc nhìn tôi rất nhanh và xếp tờ giấy xuống bên kia, phía tài liệu đã soát xong, và anh chồng tiếp lên đó những tài liệu khác. Có lẽ ánh mắt tôi lúc đó là ánh mắt mà bồ tát Quan Âm mượn đỡ để rót cái nhìn dịu hiền vào tấm lòng trung hậu của người cảnh sát cũng yêu nước thương đồng bào như tôi.

Vì không có chi ngoài hai cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa của con gái gửi bà Lê Khắc Duyệt, người cảnh sát trưởng cho phép tôi lên xe của trường Đại Học Khoa Học Huế trên đường từ phi trường về Tổng nha, ông ấy ngồi kế bên bác tài còn tôi ngồi một mình phía sau. Trên xe, tôi khe khẽ rút nhẹ tờ tài liệu phản chiến và xếp lại làm ba bốn năm sáu lần. Tuy nó đã nhỏ lắm nhưng bỏ nó đâu bây giờ? Thôi thì… tôi bỏ vào miệng nhai cho nát và… nuốt luôn. Họ đưa tôi về Văn Phòng Cảnh Sát và soát lại lần thứ hai. Tài liệu cũng chỉ là môn Tảo Học mà tôi đang dạy. Tuy thế họ vẫn giữ tôi tại văn phòng Nha Cảnh Sát Thừa Thiên hai ngày và hai đêm, cho người đi mua thức ăn cho tôi, và cuối cùng cho người dẫn độ tôi về Sài Gòn. Tại đây tôi thật sự bị bỏ vào nhà tù bảy ngày. Họ đưa tôi vào thay áo tù (không được mặc áo quần của tôi như tôi tưởng, cũng không được giữ đồng hồ, tiền bạc giấy tờ chi cả). Nhưng tôi lén dấu được vào áo tù một tấm post card của thầy Nhất Hạnh gửi cho tôi trong đó thầy có ghi bài thơ:

Rùng mình,
sóng gợn mặt hồ
sương sớm lạnh.
dấu chân em
buổi sáng
trinh tuyền lối cỏ,
không lá ngô đồng xa,
nhưng hồn mùa ấm áp,
hoang sơ đi rồi
thuyền chở mái trăng về bến cũ.

Tôi chẳng hiểu hết bài thơ nhưng hình ảnh mặt hồ buổi sáng trong hình rất đẹp, và vào tù thỉnh thoảng tôi mở ra để nhìn hình ảnh đó, đọc dòng chữ thân thương của thầy để nghe hồn mùa ấm áp. Chúng tôi chín nữ tù mà chỉ có một phòng 2mét x 1,80mét. Bảy người ngồi sát nhau thì hai người có thể nằm. Ở một góc phía trong có một thùng để ai cần “vệ sinh” thì tiêu tiểu. Tôi ngồi lắng nghe nhiều người, nghe kể đều là oan ức, chờ ngày thẩm vấn, nhưng nhờ có chú của chị Uyên là bạn đánh cờ của ông Nguyễn Ngọc Loan tổng giám đốc Tổng Nha Cảnh Sát nơi tôi bị giam nên chú liên lạc xin thả. Chú nói với ông Loan là “cô ấy em cháu trong nhà mình, nếu cần thì để theo dõi” nên tôi được thả nhanh sau một tuần mà khỏi bị điều tra phỏng vấn tra khảo chi cả.

Thương một em bé gái chín tuổi bị hàm oan (em nói thế), tôi xin ông ưu ái cho một em bé được tha vì – tôi nói – nhà tù không phải chỗ của một bé chín tuổi cứ nghe toàn chuyện không vui. Tôi không rõ họ có tha cho em bé không, nhưng chuyện oan trước nhất của tôi là ông Tổng Nha có la mấy người cai tù sao để cho tù nhân nói chuyện. Cai tù nổi cáu la lại tù nhân. Tôi thật buồn vì muốn giúp mà thành làm cho người ta oán mình. Mấy người trong tù nhắn ra nói tôi phản động, báo cáo làm sao mà cả cai tù cũng như người tù bị cảnh cáo phạt nặng!

 

NHẤT CHI MAI
Lời kêu gọi hòa bình của thầy

Diệu Huỳnh Phan Thị Mai là tên thật của chị đầu trong sáu người thọ giới Tiếp Hiện với tôi tại Chùa Lá Pháp Vân ở Phú Thọ Hòa. Mai là cô giáo tiểu học ở trường Tân Định, chị hay lái chiếc xe hơi Wolkswagen trắng. Hôm đó tôi ghé lại nhà chị trên con đường đi chợ Tân Định số 60/50 đường Huỳnh Tịnh Của. Thấy chiếc xe hơi trắng, tôi biết có chị ở nhà nên mừng rỡ tin rằng thế nào cũng được uống một chầu nước mát lạnh trong nhà chị. Tôi chưa kịp dựng chiếc xe mobylette bên lề thì đã nghe tiếng các cháu của chị gọi chị vang lên: Út ơi, Út có khách!

– Khách nào đó cưng? Ô Phượng! Đi đâu mà mồ  hôi mồ kê nhễ nhại vậy cưng?

Lông mày chị nhíu lại, môi chu chu như người lớn nói nựng với trẻ con khiến tôi bật cười:

– Cực gì đâu chị ! Em mới ghé qua chợ Tân Định thu tiền học bổng cho TNPSXH mà. Chị Mai làm như em giãi nắng dầm mưa lắm vậy đó!

Nhất Chi Mai (tóc dài bên phải)

Nhất Chi Mai (tóc dài bên phải)


Chị Mai cũng cười kéo tôi vào ngồi ghế sa lông và cho tôi nguyên một chai nước để trong tủ lạnh, đúng như điều tôi mong ước! Sau khi nói đủ thứ chuyện, tôi hỏi chị nghĩ gì về lời tuyên bố của thầy chúng tôi, thầy Nhất Hạnh tại Hoa Thịnh Đốn đòi Hoa Kỳ phải ngưng oanh tạc Bắc và Nam Việt Nam và yêu cầu Hoa Kỳ cho một lịch trình Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Chị Mai nhìn tôi do dự một chút rồi vuốt tóc tôi và nói:

– Phượng nè, chị Mai thương và phục thầy lắm. Thương lý tưởng Phụng Sự Xã Hội của thầy và vì vậy mà quyết định theo thầy giúp phụng sự xã hội. Tuy nhiên, chị Mai rất ngại về thái độ chính trị của thầy.

Tôi rất hiểu vì sao chị lo lắng thế! Lời kêu gọi hòa bình của thầy lúc đó “quá sớm” với những người đang sống bình an trong thành phố. Một người “quốc gia” chưa ai dám đòi Mỹ rút quân và không những chính phủ Sài Gòn và các báo chí Sài Gòn đã tấn công thầy như mưa bão mà các giới công chức suy nghĩ cạn cũng hoảng hốt cho thầy là cộng sản. Chị Mai là con gái út một gia đình giàu có, chị được cha mẹ nuông chiều, chưa bao giờ đi đến những làng mạc xa xôi như thầy và chúng tôi đã từng đi thăm ở hai bên bờ thượng nguồn sông Thu Bồn, làng mạc và đồng bào đang bị cày xới bởi đạn bom. Chị không nao núng sao được khi thấy hết Đài Phát Thanh Sài Gòn đả kích đến các nhật báo như Chính Luận, Tự Do, v.v.. Tôi rưng rưng nước mắt nói:

– Chứ chị Mai nghĩ coi, Phật dạy mình nhìn sâu để thấy nỗi đau khổ và sợ hãi của con muỗi, con ruồi, con gà, con heo, con bò khi bị giết và vì thương mà mình không nỡ giết. Vậy thì khi thấy con người giết nhau, anh em cùng con Mẹ Việt Nam mà cầm vũ khí ngoại bang để giết nhau thì chẳng lẽ mình khoanh tay ngồi nhìn sao? Còn chuyện Mỹ rút quân, lịch sử Việt Nam xưa nay có nhờ người Mỹ qua Việt Nam đánh Tàu cho mình đâu nhưng mình vẫn đuổi được Tàu về nước. Chị Mai biết không? Khi bài Lời Khấn Nguyện Đau Thương Của Dân Tộc được đăng trên tuần báo Hải Triều Âm, có tám Phật Tử Việt Nam đến thỉnh cầu được nhịn ăn đến chết để cầu nguyện hòa bình nếu Viện Hóa Đạo chịu đứng ra bảo trợ. Em cũng có xin tình nguyện theo trong số tám người tình nguyện nữa đó chị Mai, nhưng thầy Tâm Châu la quá, và nếu Viện Hóa Đạo không chịu làm thì làm sao thành. Làm lẻ loi không ai biết mà ủng hộ thì sẽ không đi đến đâu.

Chị Mai bèn nói:

– Đâu được! Dù thầy viện trưởng có đồng ý Phượng cũng không được làm vì Phượng còn mẹ phải trông nom.”

Tôi lý luận:

– Em biết, em sẽ mang tội bất hiếu với mẹ nếu em chết, nhưng nếu cái chết của mình làm ngắn được chiến tranh một vài năm, cứu không biết bao nhiêu là mạng sống thì tội bất hiếu em sẽ đền sau.

Tôi “nói” thì bao giờ cũng cảm động và chân thành, chỉ khổ là tôi chưa làm được như tôi nói. Nhưng điều đó đã khiến chị Mai ngồi im lặng rất lâu, cúi mặt xuống một chút. Một lát sau chị Mai ngửng lên và nắm chặt hai tay tôi, giọng cương quyết:

– Phượng nói phải lắm. Rất phải!

Chị Mai lại nhìn tôi và hơi do dự. Cuối cùng chị Mai nói:

– Vậy thì chị Mai cũng muốn tình nguyện như Phượng nữa. Rủi là Viện Hóa Đạo đã bác bỏ ý nguyện đó. Vậy sau có làm gì Phượng nhớ rủ chị Mai với nghe?

Chị Mai đã khiến tôi muốn khóc vì cảm động. Chị Mai không phải thuộc về loại Phật tử “đợt sóng mới” như chúng tôi, tâm trí không rắc rối như bọn trẻ chúng tôi, nhưng ưu điểm của chị là dám thẳng thắn chê chúng tôi, rồi khi chúng tôi lý luận bẻ lại thì chị lắng nghe và nếu nghe mà “lọt” được vào tai thì chị Mai thực hiện cho bằng được chứ không cò kè bớt một thêm hai như chúng tôi, rồi cuối cùng chẳng làm gì hết!

Mấy tháng sau đó chị Mai trở nên vô cùng tích cực trong việc tranh đấu cho hòa bình của Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh mà trước đó chị chỉ chịu làm một thủ quỹ thuần túy. Cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa ra đời khiến chị Mai thêm hăng hái. Với chiếc xe hơi Volkswagen trắng chị Mai chở 10 cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa tới trường học này, 20 cuốn đến công sở kia. Sách được đưa vào tay từng giáo chức, công chức, sinh viên, sĩ quan quanh chị Mai. Tôi rất thương chị Mai trong công tác ấy, vì sinh trong gia đình nhà giáo, chị không bao giờ làm chuyện lén lút như khi đi phổ biến tài liệu hòa bình như vầy. Cuối năm 1966, sau giờ tụng giới chị Mai rủ tôi vào phòng của chị tại chùa. Chị nắm tay tôi và nói:

– Chị Mai có sáng kiến này, Phượng nghe xem có được không nhé? Tám người bạn mà Phượng nói chịu tình nguyện tuyệt thực đến chết cho hòa bình hồi năm 1964 đó, cộng với chị Mai là chín và chị sẽ tìm thêm một người nữa là mười. Mười người đi mười thành phố khác nhau và cùng mổ bụng một ngày, cùng viết thư kêu gọi hòa bình, làm rúng động mười điểm quan trọng của đất nước và do đó sẽ làm rúng động lòng người khắp mọi nơi, Tuyệt thực và tự thiêu, giờ thiên hạ đã lờn rồi, không còn gây xúc động nữa và vì thế không tác động tình thế như xưa.

Tôi hứa với chị Mai là em sẽ đi tìm lại các bạn cũ và thưa về chuyện này nhưng tôi cũng biết trước là khó thực hiện. Hồi đó 1964, các bạn chưa có gia đình. Bây giờ trong số ấy có người đã có vợ có chồng, người thì đi làm việc ở vùng xa. Nếu được hay không là chỉ có một mình tôi và chị Mai mà thôi.

Bốn ngày tôi đóng cửa phòng suy tư. Cuối cùng tôi đã bác bỏ ý định của chị Mai một cách “hữu lý” như vầy:

– Chị Mai nghĩ coi, mình mà cùng làm với Giáo Hội thì mình như nhịp cầu nằm xuống cho mọi người, cho cả khối đông đảo quần chúng Phật tử tiến tới. Chớ nếu mình làm riêng rẽ như vầy thì rất khó. Ý thức tranh đấu cho hòa bình trong nhóm sinh viên còn rất yếu. Ngoài Viện Đại Học Sài Gòn chỉ có vài ba anh em tha thiết với hòa bình được đắc cử vào vài phân khoa. Viện Đại Học Vạn Hạnh tuy cả ê kíp mình được đắc cử nhưng Ban Giám Đốc và Ban Quản Trị viện còn đang gây khó dễ muôn bề. Giới Phật tử hiểu đạo theo lối mình cũng còn ít (em bi thảm hóa sự kiện chứ có thể số Phật tử trẻ dấn thân khá đông. Chỉ tại Giáo Hội chưa chính thức đứng ra nên ai cũng thấy lẻ loi). Mình mà xúm nhau chết hết thì hòa bình có đến hay không chưa lường được, chỉ có một điều rất rõ là anh em tranh đấu cho hòa bình thiếu chị và thiếu em, hai hoạt đông viên đắc lực. Ngoài chuyện hòa bình ra, còn công tác xã hội mình cũng đắc tội với thầy Thanh Văn. Thầy Nhất Hạnh đã giao chức giám đốc điều hành cho thầy Thanh Văn, mình có hứa sẽ giúp thầy Thanh Văn trong thời gian đầu, ít nhất là phải xong khóa 1. Hiện trường TNPSXH rất nghèo vì ảnh hưởng kêu gọi hòa bình của thầy Nhất Hạnh đã gây cho trường đủ thứ khó khăn, 300 anh em chỉ ăn cơm với xì dầu và rau luộc mà bữa đủ bữa thiếu. Em với chị Mai và chị Nga là ba người lạc quyên cho Trường nhiều nhất, nếu mình chết hết thì đúng là mình giết thầy Thanh Văn và các bạn v.v…

Tôi lý luận về sự ”chết” của tôi hôm trước rất say sưa và chân thành. Hôm nay tôi lại lý luận về cái phải “sống”của chị Mai và của tôi cũng rất chân thành khiến chị Mai bỏ ngay ý định hy sinh thân mạng cho hòa bình một cách vui vẻ với điều kiện là chờ ý kiến cuối cùng của thầy Nhất Hạnh (chị nói đã gửi thư xin phép thầy nhưng chưa có hồi âm).

– Thôi thì mình ráng làm việc nhiều nhiều hơn nữa há Phượng, mà Phượng phải bắt chị Mai làm việc nhiều hơn nghen? Sao Phượng hay quá hà, giỏi quá hà, việc gì cũng làm được, cũng quá hay. Chị Mai rất mắc cỡ sao mình không làm được như Phượng.

Tôi lại nhăn nhăn cái mặt dễ ghét của tôi:

– Lại “như” Phượng nữa. Em rầu chị Mai quá. Em đâu có làm được “như” chị Mai thì chị cũng đâu có làm được như em. Mỗi đứa làm một cách, bổ túc cho nhau. Như ngón cái bổ túc cho ngón trỏ. Nếu bàn tay chỉ có năm ngón cái giống y nhau thì đâu làm gì được. Nếu chị Mai cứ tiếp tục so sánh em với chị thì em nghỉ chơi chị à?

Chị Mai cười túm miệng lại, rất hiền vừa vuốt tay tôi nói:

– Phượng thiệt à!

Giọng chị thật nhõng nhẽo. Sau đó một tuần chị cũng vui vẻ cho hay là thầy Nhất Hạnh không đồng ý và tuyệt đối cấm ý định đó.

 

Khó khăn của Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội

Tháng Mười 1966 là giai đoạn Trường TNPSXH gặp khó khăn nhiều nhất. Đáng lý cuối tháng 08 năm 1966 là tháng nhập học nhưng chúng tôi chưa đủ tiền xây cho xong cư xá 20 phòng ngủ và giảng đường cho TNPSXH, xây bên kia chùa Lá Pháp Vân. Thế nên chúng tôi thông báo cho sinh viên là phải dời sang tháng Mười với hy vọng là Trường sẽ xây xong. Trước khi ra đi, thầy đã viết trước một bức thư tâm huyết về sự cần thiết của phong trào TNPSXH và trường đào tạo tác viên TNPSXH và dặn chúng tôi đi gõ cửa từng nhà xin lạc quyên sự đóng góp của họ. Chúng tôi chưa kịp đi gõ cửa từng nhà thì có lời kêu gọi chấm dứt chiến tranh với năm điểm của thầy, trong đó quan trọng nhất là ngưng oanh tạc tức khắc toàn lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ thông báo một lịch trình rút quân ra khỏi Việt Nam trong thời gian rõ rệt và Hoa Kỳ phải thực sự giúp miền Nam đủ mạnh để thương thuyết với miền Bắc chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Đài Phát Thanh và báo chí Sài Gòn chửi thầy ra rả thì chúng tôi đâu dám đi gõ cửa từng nhà mà xin ủng hộ tài chính cho trường.

Đầu tháng Mười, 300 sinh viên Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sắp nhập học, thầy Thanh Văn nhắc ba chị em Tiếp Hiện là chị Uyên, chị Mai và chị Phượng làm ơn lên Chùa Lá thầy nhờ ít việc. Có một cơ quan văn hóa tư nhân Hoa Kỳ tên là Asia Foundation sẽ ghé trường thăm và đã bắn tiếng có thể hỗ trợ một số tiền lớn (80.000 dollars) để hoàn tất việc xây cất cư xá cho TNPSXH. Hồi đó tôi ở trong phong trào kêu gọi hòa bình nên rất “dị ứng” với các cơ quan Hoa Kỳ. Tôi hỏi bác Sâm:

– Có thiệt họ là cơ quan tư nhân không bác?

– Sao lại không thật! Cái cô này!

Thế là ba chị em ôm nhau mừng quá đi. Nhớ mới tuần rồi, cuối tháng Chín, thầy Thanh Văn nói: “Chắc phải nhập học thôi, không chần chừ được nữa, nhưng tiền đâu mà nuôi ba trăm người trẻ đây? Tất cả học bổng người ta đóng góp cho các sinh viên này đã bị ban xây cất xin để trả nợ gấp công thợ hồ, tiền xi măng v.v… Lấy tiền đâu mua gạo và thức ăn?” Tôi đề nghị mỗi chị em chúng tôi, từng người, gắng đi xin các ân nhân khá giả của trường, cố thuyết phục họ cho mỗi tháng một bao gạo 100 kí, và chỉ cho như thế trong ba tháng thôi. Ba tháng sau chắc tình trạng sẽ khá hơn. Tôi xin được 17 bao, chị Đỗ Thị Nga tám bao, chị Mai được năm bao và chị Uyên ba bao mà thôi. Nhưng chị Uyên không có mặc cảm gì hết còn chị Mai thì quá rầu:

– Sao mà Phượng hay quá hà, chị Mai không bằng Phượng.

Tôi ôm vai chị và nói:

– Chị là số một rồi, tụi em không ai bằng chị đâu, chị biết lân mẫn với quý ni sư chùa Từ Nghiêm nè, biết chăm sóc quý ni sư nè, chị lên chùa Huệ Lâm giúp ni sư Giác Nhẫn nè… để ai cũng thương “Tiếp Hiện” hết, có đứa nào trong tụi em mà làm được như chị Mai đâu?

Chị nhoẻn miệng cười thật hiền. Trường chỉ có gạo và rau cải héo của cô Ba Tý chợ Cầu Ông Lãnh lạc quyên về cho chúng tôi, mỗi tuần ba xe cam nhông đầy rau cải bắp su hơi héo héo. Chúng tôi chọn ra, nếu bắp su nào còn tươi thì luộc, nếu cũ quá thì làm dưa ăn. Sáng thì cơm với xì dầu, trưa cơm với dưa cải chua kho, chiều ăn rau muống luộc chấm xì dầu. Các em tuổi trẻ mà ăn uống thiếu chất đạm thương quá đi thôi, chúng tôi hỏi thầy Thanh Văn: Mấy người Asia Foundation đã sắp cho tiền xây cất Trường TNPSXH chưa vậy thưa thầy? Thầy Thanh Văn cứ lắc đầu và nói lảng sang chuyện khác. Nhưng vì bị chúng tôi hỏi thăm hoài nên một hôm nọ thầy nói: Thôi, đừng trông cậy họ làm chi, các chị ạ.

Mãi tới một bữa chiều thứ bảy chị Mai đem về bản tin ngắn của Đại Học Vạn Hạnh bằng tiếng Anh có cái gì là Asia Foundation mà lại có tên thầy Nhất Hạnh, tôi đọc xong và bực tức dịch cho thầy Thanh Văn nghe một cột báo nhỏ ghi như vầy: “Trong cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa nhà xuất bản có giới thiệu tác giả Thích Nhất Hạnh như là sáng lập viên của Đại Học Vạn Hạnh, chúng tôi xin minh xác là thầy Nhất Hạnh tuyệt đối không còn dính dáng gì với chúng tôi hết! Ký tên Thích Minh Châu”. A thì ra vì thầy Nhất Hạnh đi kêu gọi hòa bình, kêu gọi hai bên ngưng chém giết nhau, nhân danh những người dân chạy dưới đạn bom và nhân danh đa số đồng bào, tiếng nói của thầy đang có ảnh hưởng lớn ở Hoa Kỳ nên cái cơ quan “văn hóa tư nhân” phải làm mọi cách để phá hoại uy tín đó. Chừng đó thầy Thanh Văn cũng giận và mới bật mí là chính họ cũng ra điều kiện một cách rất nhã nhặn rằng nếu thầy Thanh Văn chịu ký tên trên một tờ giấy nhỏ xác nhận thầy Nhất Hạnh không còn dính dáng gì với TNPSXH nữa thì họ sẽ cho TNPSXH ngay tám mươi ngàn đô la ấy. Chúng tôi thật cảm phục thầy Thanh Văn, còn trẻ mà thấy được mưu đồ của phe chủ chiến, lại còn muốn che chở cho tôi. Biết tính tôi hay nói ngay nói thẳng nên thầy không dám cho tôi biết. Nếu biết họ đòi hỏi như thế, thầy Thanh Văn e rằng tôi có thể tới mắng cho họ một phen thì chuyện gì có thể xảy ra? Thầy bảo chính thầy cũng không dám từ chối ngay, cũng sợ họ ám hại. Thầy chỉ nói: “Chúng tôi sẽ ký và đưa các ông sau.” Nhưng một tuần sau họ tới hỏi thầy cũng khất và khất cả chục lần thì họ hiểu và không hỏi nữa.

Ý nghĩ trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội phải có nguồn kinh tế tự túc đã nung nấu trong chị Mai và cứ mỗi tuần chị Mai lại có một số ý kiến xây dựng kinh tế tự túc. Tuần này chị đề nghị mấy chị em mình đi mua xà bông bột giặt, mua sỉ và chia ra từng bao nhỏ và khi đi thu tiền học bổng thì bán cho cô bác (bề gì họ cũng phải mua xà bông xài) để lấy lời cho trường. Tuần sau chị bảo mình mua gạo giá sỉ, từng bao 100 kí về chia ra bán lẻ cho các ân nhân cho tiền trường để lấy lời… Chị Uyên và chúng tôi không thích lắm nhưng vẫn chiều chị mà không vui. Rồi một hôm chị đề nghị:

– Chúng mình sẽ đi xin tiền thầy Quảng Liên, thầy giàu lắm, Phượng biết không?

Tôi dẫy nẩy nói:

– Không! Không! thưa chị của em. Em biết thầy giàu rồi, nhưng em đố chị xin được thầy.

Ai dè mấy tuần sau chị hớn hở báo tin thầy cho 20.000 đồng, hơn tiền 30 học bổng toàn phần (600đ/tháng). Chừng đó chúng tôi mới phục chị thật lòng và rất áy náy sám hối trong lòng về ý nghĩ sai và nông cạn của mình về thầy Quảng Liên chứ không phải vì được 20.000 đồng. Xưa nay thầy Quảng Liên không thích thầy của chúng tôi lắm. Như hồi ở chùa Ấn Quang năm 1961, chúng tôi chạy sát theo thầy Nhất Hạnh học hết lớp này tới lớp khác, mà không đứa nào chịu đi học với thầy thì thỉnh thoảng thầy có trách! Giờ đi xin tiền, chắc thầy không cho đâu. Thầy Quảng Liên quả thật là người ân lớn của chúng tôi lúc ấy, và với số tiền đó, các em TNPSXH làm rất nhiều chương trình kinh tế tự túc như trồng nấm rơm, trồng cải dưa bán Tết – mỗi lần hái mấy chục ký luôn. Đó là nhờ “Tổ” kinh tế tự túc là chị Mai!

Ngày nhập học, các em nam TNPSXH chiếm hết chánh điện Chùa Lá, nằm đầy cả hành lang vì trong cư xá mới chỉ xây xong có năm phòng của 40 phòng cần hoàn tất. Bên nữ thì chiếm hết dãy nhà lợp tôle của ba chị em nữ Tiếp Hiện chúng tôi. Chiều thứ bảy, như thường lệ, tôi ôm túi vải đựng các thứ cá nhân về Chùa Lá tu tập 24 giờ chánh niệm như mọi hôm thì không còn chỗ để ngả lưng. Nghe tiếng các em tíu tít, nằm đầy cả phòng nghỉ và ngủ của ba chị em, chúng tôi chỉ tập họp lại tụng kinh và thuyết 14 giới. Xong, anh chị em ăn chiều rồi ngồi pháp đàm với thầy Thanh Văn và chờ đến tối, đến giờ mọi người lên ngồi thiền tụng kinh chung với các em rồi các anh chị Tiếp Hiện ai về nhà nấy.

Chúng tôi quyết định mỗi người về xin tiền gia đình để chung lại, cất một chỗ tĩnh tu cho riêng chúng Tiếp Hiện chủ trì để có đủ năng lượng lo cho TNPSXH. Chị Mai ngồi im không đồng ý, chị nói nếu xin được tiền chị sẽ cho Trường TNPSXH chứ không xây chỗ tĩnh tu cho mình. Đạo Phật đi vào cuộc đời thì hành động nào cũng là vừa làm vừa tu. Chị Mai thì chắc lúc nào cũng có đủ nội lực, đủ bình an bên trong nên chị chỉ lo bên ngoài. Riêng tôi và chị Uyên thì rất đồng ý là mình phải có chỗ tĩnh tu. Mỗi tuần phải luyện NGƯNG hết những hoạt động bên ngoài để có dịp tiếp xúc với chút bình an, chút vững chãi, chút sáng suốt của mình mà tiếp tục bao nhiêu hoạt động bức xúc khác. Giải thích mấy chị cũng khó chấp nhận. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng có được dãy nhà lá, vách cây, chia ra làm 7 phòng 2,2mét x 3mét và 1 mét hành lang phía trước. Sáu phòng cho 6 người Tiếp Hiện đầu tiên và 1 phòng dành cho khách. Mỗi phòng có cửa sổ rộng mở ra bìa rừng tre làng Phú Lộc. Pphòng của chị Uyên và tôi thì lúc nào cũng có những bó hoa dại nhỏ xíu hái ngoài đồng với vài lá tre. Phòng chị Mai thì lúc nào cũng rất cổ điển: bàn thờ có hình Phật bằng giấy kim tuyến vàng bạc lấp lánh, có hào quang màu vàng màu cam màu đỏ thật vui mắt. Trên tường là hình hòa thượng Quảng Đức, trọn bộ tám hình. Trên bàn Phật là bình hoa đỏ chói bằng nhựa có lá xanh cũng làm bằng nhựa nylon. Trên tường treo nhiều bức tranh và trên giường mền gối nào cũng có áo gối bọc bằng satin hồng và được phủ lên bằng chiếc khăn lông vàng theo lối các ni sư. Chị Mai rất hài lòng phòng của chị, còn chị Uyên và tôi cũng rất hài lòng phòng của chúng tôi. Trong phòng tôi ngoài cái bàn viết và một vài cuốn kinh, tôi chỉ có một chiếc giường tre đơn giản, trên trải một manh chiếu trắng mỏng; không có gối, không nệm chỉ có chiếc mền thật nhẹ màu rừng tre.

Bữa nọ vào phòng tôi chơi chị Mai trách phòng gì mà buồn quá, không có tranh ảnh gì hết. Nhưng nhìn kỹ, chị Mai mới thấy được một chiếc ảnh nhỏ xíu, phong cảnh một cái hồ bên rừng cây đính trên vách ván. Hình cách mặt đất chỉ có ba tấc. Và trên góc sát tường gần kề bên giường vừa tầm mắt tôi là ba cái bưu họa đều là hình trẻ thơ đang rưng rưng khóc. Chị ngạc nhiên: Phượng trưng bày gì mà kỳ vậy? Hình trưng bày lại dán tuốt dưới đất hoặc ở sát góc giường, không cho ai được thấy chi cả. Tôi chỉ mỉm cười im lặng. Tôi muốn được hoàn toàn trở về với thế giới bình an nhất của tôi, chỗ này đâu phải chỗ tôi tiếp khách. Nhưng biết nói chị cũng không hiểu nên tôi im lặng và chỉ cười.

 

TNPSXH bị mưu sát hay thầy Nhất Hạnh bị mưu sát

Thầy Nhất Hạnh được trường Đại Học Cornell ở Ithaca, New York, Hoa Kỳ mời đi hội thảo và xin thầy góp ý về chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Thầy đi ngày 11 tháng 05 năm 1966 thì đêm 16 tháng 05 năm 1966 có ba người lạ mặt vào chính điện Chùa Lá, thảy ba trái lựu đạn và bắn một tràng tiểu liên. Em Lê Văn Vinh bị vỡ sọ, óc rớt ra ngoài. Nhờ đem vào bệnh viện cứu sống kịp thời, em không chết nhưng vẫn phải bị liệt hai chân. Một trái lựu đạn khác bị người lạ mặt chọi vào phòng mà trước đó thầy Nhất Hạnh vẫn nghỉ và ngủ nơi đó. Nhờ phòng có màn nên trái lựu đạn bị bật ngược ra ngoài làm em Nguyễn Tôn bị thương ở mông nhưng không sao. Nhìn em Vinh thoi thóp trong bệnh viện không biết sống chết ra sao, tôi không khóc nổi! Đau đớn như bị ai xé từng tế bào cơ thể tôi. Tại sao con người lại có thể nhẫn tâm với nhau vậy? Nhất là các em tôi chỉ tình nguyện đi phụng sự đất nước bằng tình thương, trách nhiệm, và tự nguyện? Tôi thầm lạy Phật cho những người chủ tâm cầm lựu đạn ném vào người tay không vì thấy được thái độ không thù hận, không họp báo chửi mắng của chúng tôi mà tỉnh ngộ, không còn quấy nhiễu chúng tôi nữa. Hai tháng trôi qua, rồi năm tháng, bảy tháng và gần một năm trôi qua, chúng tôi sống bình yên. Tai nạn của Lê Văn Vinh khiến rất đông đồng bào thương mến. Họ tới cho gạo, cho dầu, cho tương chao rau cải và đóng góp tài chánh, tuy ít ỏi nhưng khá nhiều người đóng góp nên chúng tôi trả tạm bớt nợ xây cất cũ và hoàn tất được 15 phòng còn lại ở cư xá sinh viên. Giảng đường, thư viện của các em, giếng nước đóng cung cấp nước cho toàn trường hơn 300 người cũng được thực hiện hoàn mãn.

Gần một năm sau, khi phòng ốc Trường TNPSXH đã xây cất xong, anh chị em sinh viên vừa làm kinh tế tự túc trồng nấm rơm, trồng rau, dưa…, vừa vào thời khóa học tập rất hứng khởi, tuy sáng vẫn ăn cơm trắng với xì dầu, trưa vẫn chỉ ăn cơm với dưa cải kho và chiều cơm rau luộc cũng chấm xì dầu. Không khí học tập hào hứng, đầy tình đệ huynh. Chiều nào cũng có chương trình nhạc thơ phụng sự xã hội. Sáng từ sáu đến bảy giờ rưỡi là công tác kinh tế tự túc, trồng rau cải, ủ rơm và phân bò để lấy phân trồng đậu, trồng dưa để ăn và để bán. Các em biết ủ meo nấm rơm để nuôi nấm rơm rất nhiều hầu bán gây quỹ mua những thứ cần dùng khác. Từ tám giờ rưỡi đến mười một giờ rưỡi là học lý thuyết, chiều từ 14 giờ đến 16 giờ thì đem những bài học ra ứng dụng trong đời sống hằng ngày và tối là văn nghệ tu học trước khi tham thiền tối và đi ngủ. Bác Nam Đình, chủ bút nhật báo Thần Chung đã được chị Mai mời tới thăm trường. Bác quá cảm động và đã viết một bài báo ca ngợi cho rằng “chỉ có Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội mới là một phong trào thật sự vì dân mà đứng lên, được hơn 3.000 gia đình Việt Nam đóng góp tài chính để nuôi dưỡng họ và đang đi về những thôn làng nghèo khổ mà giúp dân. Không cần phải có những khoản tài trợ khổng lồ của người nước ngoài”.

Bài của nhật báo Thần Chung được đăng chưa đầy một tuần thì ngày 24 tháng 4 năm 1967 vào lúc trời vừa tối, có những người lạ mặt đến thảy hơn mười trái lựu đạn vào cư xá nữ và phòng học sát Chùa Lá Pháp Vân khiến cho nữ tác viên Trần Thị Vui và giáo sư Trương Thị Phương Liên từ Quảng Ngãi vào thăm bị tử nạn, 16 nữ sinh viên bị thương và cô Bùi Thị Hương nát hết bàn chân, phải cưa mất chân trái gần đến gối. Các nữ sinh Diệu, Út, Mai, Minh Nguyện, Lành, Kỷ và Kê đều bị thương nặng nhưng may quá, trị thương một thời gian thì qua khỏi.

Thi hài của Trần Thị Vui và Trương Thị Phương Liên quàn ở Trường nên chúng tôi quyết định làm tang lễ truy điệu năm ngày sau. Chúng tôi định mời thật đông quan khách để có dịp trình bày lập trường của Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Thầy Thanh Văn bắt tôi viết dùm cho tăng thân bài diễn văn để đến ngày truy điệu thầy thay tăng thân đọc trong tang lễ. Tôi đã viết dùm cho tăng thân như sau: Chúng tôi không xem các anh, những người ném lựu đạn để giết các bạn chúng tôi, là kẻ thù. Bởi vì chúng tôi thấy rõ rằng kẻ thù chúng tôi không phải là con người, không phải là các anh, những vị đã sát hại anh chị em chúng tôi. Kẻ thù chúng tôi là cái thấy sai lệch của các anh về chúng tôi và các anh đã quyết tâm giết những cái hình ảnh ghê tởm trong đầu các anh về chúng tôi. Thật ra chúng tôi không ghê gớm như vậy, chúng tôi chỉ có một ước vọng rất bé nhỏ là giúp các cháu ở nhà quê có trường học, các bệnh truyền nhiễm được chặn đứng nhờ các bác nông dân biết phép vệ sinh. Với những hiểu biết về canh nông chăn nuôi chúng tôi chỉ mong giúp gà vịt ít chết toi, canh nông y tế được phát triển để người dân quê nghèo khó được nhờ. Nếu biết rõ chúng tôi chỉ có chừng ấy tham vọng chắc các anh cũng thương mà giúp đỡ chứ nỡ nào ném lựu đạn vào những thanh niên thiếu nữ không có một chút vũ khí trong tay? Chúng tôi lạy Phật cho tất cả mọi người thấy rõ rằng dù phải mất mát nhiều quá trước cái chết và thương tích của các bạn thân thương, chúng tôi xin tuyên bố không hờn trách các anh mà chỉ mong các anh hiểu được chúng tôi và giúp chúng tôi hoàn thành ước mơ khiêm tốn này. Bài diễn văn khiến quý thầy trong Hội Đồng Lưỡng Viện Hóa Đạo và Tăng Thống quá cảm động và hết lòng giúp đỡ. Hòa Thượng Thiện Hòa thương và khen: “Các con có thiệt tu, thầy quý lắm. Các con cần gì cứ đến nhờ thầy.”

Sau đó hai tháng, vào ngày 14 tháng 6 cũng năm 1967, tám người TNPSXH bị bắt đi mất tích ở Bình Quới Đông. Chiều hôm đó tôi có mặt tại đây. Thấy cảnh ngôi đình mát mẻ, cây cối quá xanh tươi, sư chú Nhất Trí, đệ tử xuất gia của thầy kèo nài tôi ở lại ủng hộ tinh thần phụng sự của anh em, tôi đã hơi xiêu lòng định ở ngủ lại đêm. Khi tôi đang chuẩn bị tìm chỗ nghỉ đêm thì linh tính báo tôi biết là má tôi sẽ rất lo, má sẽ không ngủ được nếu tối nay tôi không về. Nghĩ như thế nên tôi đã khất với chú Nhất Trí là sẽ tới ngủ lại đây đêm hôm sau vì tối nay phải về nhà xin phép má. Không ngờ tám anh chị em TNPSXH ngủ đêm trong đình Bình Quới Đông đã bị bắt đi mất tích ngay đêm ấy. Chúng tôi đi từng đồn lính quốc gia để hỏi thăm, từng nhà nông dân các khu lân cận để cố tìm nhưng không cách gì tìm ra tông tích.

Chưa đầy ba tuần sau, ngày 5 tháng 7 cũng năm 1967, tại xã Bình Phước, lại năm anh em TNPSXH bị một toán người lạ mặt đến uy hiếp, bắt trói tay và dẫn ra bờ sông. Họ bắn cả năm anh em ngã gục bên bờ sông, bốn người chết, còn một người sống sót là sư chú Hà Văn Đính. Sư chú bị bắn trước, máu ra nhiều quá nên họ tưởng đã chết, không bắn tiếp lần thứ hai như đã bắn bốn vị kia, nhờ thế mà chúng tôi được nghe rõ tỉ mỉ câu chuyện. Thái độ người bắt anh em TNPSXH rất hiền nên các anh em không nghĩ là sẽ bị giết. Thấy họ dẫn ra bờ sông anh em nghĩ là sẽ chờ thuyền đến chở đi. Ai ngờ bỗng nhiên anh trưởng đoàn đến sờ đầu em Võ Văn Thơ 18 tuổi và hỏi: Có phải các anh là Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không? Khi nghe anh em xác nhận là phải, thì họ lại sờ đầu thêm lần nữa và nói: Chúng tôi rất tiếc nhưng chúng tôi buộc lòng phải giết các anh. Và họ bắn tức khắc, bắn lần thứ hai rồi bỏ đi.

Sáng hôm đó tôi đi thăm anh em, chưa đến nơi đã thấy Diệp Lân Hải đi xe máy ngược lại và chặn đường báo tin bốn bạn đã chết, Hà Văn Đính đang nằm bệnh viện và xác Hy, Tuấn, Thơ và Lành đang nằm bên bờ sông Bình Phước. Chiếc xe mobylette đưa tôi đến tận bờ sông để nhìn xác bốn em nằm sõng soài, mắt vẫn còn trợn trừng, máu như còn trào ra ở khóe miệng, có vẻ thật đau đớn. Các em đau đớn là phải, vì không hiểu tại sao mình bị giết trong khi trái tim mình đầy ắp lòng yêu thương, tay không có một tấc sắt. Đầu tôi quay cuồng tự hỏi: Bất bạo động là gì? Thầy nói: “Là khi tâm mình tràn ngập yêu thương, muốn cho tất cả mọi người bớt khổ, không bao giờ muốn làm cho ai đau đớn dù người đó đang hãm hại mình. Trong ước mong lớn lao muốn chấm dứt khổ đau mà không hại người khác, người bất bạo động tự nhiên có sáng kiến nên làm như vầy, nên nhịn ăn tới chết, hay nên không hợp tác, hay nên tự thiêu cúng dường”. Các em TNPSXH của tôi đang “thiêu đốt” tuổi trẻ các em để cúng dường cho đồng bào bất hạnh, nhưng chưa làm được gì đã bị bắn chết oan ức như thế. Tuyệt vọng tràn ngập tận xương tủy tôi. Thà tôi nằm chết như các bạn, chắc có lẽ sẽ đỡ khổ hơn!

Cách đây hơn 2 tháng, khi Liên và Vui nằm xuống, chúng tôi đã tuyên bố rồi, trong bài diễn văn trước gần 10 ngàn người trong tang lễ của hai em, rằng kẻ thù chúng tôi chỉ là cái thấy sai lầm của các anh về chúng tôi, chúng tôi hy vọng trái tim thương yêu của chúng tôi bộc lộ trong lần chết của Liên – Vui đủ để những người sát hại thấy rõ mà hiểu và thương chúng tôi hơn. Nhưng họ vẫn bắt cóc tám người bạn thân yêu, vẫn sát hại bốn người con trai vô tội như vầy thì tôi chịu hết nổi! Chúng ta “nói” đến Từ Bi Hỷ Xả rất dễ, nhưng khi bạn có dịp đứng trước những xác chết của những người con trai con gái trong tuổi thanh xuân, không chạy theo những thú vui trần thế, trái tim thơm mùi yêu thương, tận tụy vào những thôn làng xa, giúp người dân quê nghèo đói nâng cao đời sống của họ mà vẫn bị thảm sát một cách tàn nhẫn như thế thì chúng tôi mới thấm thía: Tu thật là khó, thương được những người như vầy, thương được người chủ tâm sát hại mình, thật là khó. Tôi chỉ biết trở về hơi thở và cố gắng không bi lụy để gánh gồng phụ với thầy Thanh Văn. Thầy lại nhờ tôi: Chị viết dùm diễn văn trong tang lễ truy điệu nhé. Trong tôi như có sự phản kháng lớn, tôi chỉ muốn thét lên: Không, không, không! Tôi không viết được đâu. Chúng ta đã nói rồi, chúng ta tập không thù hận những người sát hại Liên, Vui; chúng ta đã chỉ mong họ thấy rõ chúng ta không tệ như họ tưởng bằng thái độ hiểu biết của chúng ta. Càng suy nghĩ tôi lại càng rối rắm thêm. Chỉ còn một cách làm như chúng tôi vẫn làm trong ngày chánh niệm là bỏ hết những suy tư khổ đau rối rắm đó sang một bên và theo lời Phật dạy chỉ trở về với hơi thở, bám lấy hơi thở, sống trọn vẹn với những việc làm trong phút giây hiện tại. Đi thì chỉ để tâm tới bước chân, ăn thì chỉ nhìn sâu và thấy kỹ những gì tích cực trong chén cơm ấy, bỏ hết những tâm nghĩ suy đi ra xa hơn cái không gian và thời gian của phút giây hiện tại và để tâm được bình an hơn. Khi tâm bình an hơn thì hy vọng mình sáng suốt hơn và biết phải làm gì, sẽ làm gì. Bốn ngày liên tiếp, tôi chỉ trở về sống với những công việc hiện tại mà tăng thân nhờ tôi làm. Chạy đi mua bì thư, đi quay ronéo thư mời, bỏ bì thư thơ mời quan khách, tâm chỉ bám vào chuyện bỏ thư vào bì thư mời dự tang lễ. Biên thư, mời bao nhiêu quan khách quen biết, chạy lên cầu cứu với thầy Thiện Hòa, Thiện Hoa, chạy lên các chợ Cầu Muối, chợ Tân Định nhờ cô bác lo giúp chuyện này và chuyện kia. Đêm về, khi mọi người tạm yên giấc ngủ, tôi vào chánh điện ngồi thiền một thời gian rồi đứng dậy đi chậm rãi quanh chùa. Tôi không biết vậy là đi thiền hành nhưng tâm tôi chỉ tùy tức nghĩa là bám lấy hơi thở ra, thở vào như là đang ngồi thiền định. Không dám suy nghĩ gì hết và cũng không biết sẽ viết gì cho thầy Thanh Văn đọc trong tang lễ sắp tới. Bốn đêm liên tiếp, đêm nào tôi cũng nghĩ là đêm nay, có thể tôi sẽ có sáng kiến, nhưng cũng không có. Rồi đêm mai, rồi đêm mai nữa cũng không có ý gì cả, tôi cũng vẫn đi im lặng quanh chùa cho đến mệt nhoài thì mới ngả ra chợp mắt được chút ít.

Đêm thứ tư, trong khi ngồi thiền chợt trong tôi loé lên câu nói của chú Hà Văn Đính. Chú thuật rằng, họ sờ đầu anh em hai lần và lần thứ hai thì nói rất nhanh: “Tôi rất tiếc, nhưng tôi buộc lòng phải giết các anh!” Tại sao giết người ta mà nói rất tiếc? Thế có nghĩa là họ không muốn giết, không nỡ giết? Thế có nghĩa là lời tuyên bố hai tháng trước đã chạm vào mối từ tâm trong lòng họ rồi. Nhưng thời buổi chiến tranh, nếu cấp chỉ huy ra lệnh mình phải đi thủ tiêu ai đó mà mình từ chối thì âm mưu cấp chỉ huy bại lộ. Chỉ huy phải thanh toán mình thôi. Nếu được lệnh giết người mà vì lòng từ bi, mình không nỡ giết những người con trai vô tội này thì mình sẽ bị thủ tiêu. Nếu không tuân lệnh, mình bị giết thì ai lo cho vợ con mình đây? Khi thấy được thế khó xử của những người sát hại bốn anh em bên bờ sông, tôi hiểu hơn và thương họ được. Tôi cầm bút lên viết bài diễn văn Truy Điệu trong tang lễ: Cám ơn các anh đã nói lời dễ thương là Chúng tôi rất tiếc, nhưng chúng tôi buộc lòng phải giết các anh. Những lời ấy chứng tỏ các anh BỊ BẮT BUỘC phải giết các bạn chúng tôi. Nếu không vâng lời cấp chỉ huy, các anh có thể bị giết. Rồi ai lo cho vợ con các anh? Chúng tôi hiểu và nhờ thế vẫn không thể thù hận các anh. Kẻ thù chúng tôi vẫn là cái thấy sai lạc của cấp chỉ huy của các anh về chúng tôi. Chúng tôi lạy Phật cho lần này cấp chỉ huy của các anh sẽ hiểu hoặc ít nhất các anh sẽ hiểu và chúng tôi tin là bằng mọi cách, các anh sẽ giúp chúng tôi vượt ra khỏi những khó khăn này. Quan khách ai cũng chảy nước mắt khi nghe bài diễn văn của thầy Thanh Văn đọc. Các vị linh mục, mục sư, các thầy trong Giáo Hội, quan khách thân hữu thân tả đều thương mến và quyết lòng che chở. Và kể từ ngày đó TNPSXH không còn bị sát hại nữa.

Xong tang lễ Hy – Tuấn – Thơ – Lành, thấy bà con thương Trường quá, đã về dự tang lễ quá đông và ủng hộ hết lòng nên lòng chúng tôi đã giảm bớt đau thương.

 

Lặng lẽ chuẩn bị cho sự hy sinh

Trưa đó là trưa thứ bảy, chúng tôi về Chùa Lá Pháp Vân tu tập chánh niệm như thường lệ. Trong buổi ăn trưa, thầy Thanh Văn nói: Được thương cũng khổ và bị ghét cũng khổ. Chắc tại lúc sau này báo chí khen mình quá, người ta ganh tị, người ta giết mình chứ gì. Chợt một em TNPSXH nói đùa chọc chị Mai: Thôi chắc tại chị Mai viết mấy bài báo trên nhật báo Thần Chung, ký tên là Nhất Chi hay quá, khen TNPSXH quá, mà họ ghét chứ gì. Ai nấy đều cười, chỉ có chị Mai là buồn. Chiều đó có Mai Sa và Tài tụng giới chung với mình. Tuần này đến phiên chị Mai thuyết giới. Khi đọc đến giới thứ 12: “Ý thức rằng giết chóc đem đến khổ đau, con quyết tâm không giết hại, con không tán thành sự chém giết, con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ nhân mạng”. Giọng chị Mai lạc hẳn đi. Và từ đó đến giới thứ mười bốn chị Mai không đọc được đĩnh đạc như trước đó nữa. Giọng chị khúc mắc khó nghe. Sau này Mai Sa nhắc lại và tôi cũng nhớ những sự kiện đó và mới nghĩ rằng: Có thể chị Mai quyết định hy sinh cho hòa bình từ lúc ấy. Tôi cũng còn nhớ thuyết giới xong, chị xếp kinh lại thì chị Uyên nói:

– Chị Mai bữa nay làm “xao“ ấy!

Tôi cũng hỏi:

– Hình như bữa nay chị Mai không bình tĩnh lắm, chị Mai có sao không?

Chị chỉ cười và xin về phòng sớm. Suốt hai tuần lễ kế tiếp, chị Mai không về chùa tu. Mẹ chị Uyên và má của tôi cũng không muốn chúng tôi về chùa vì sợ “ăn lựu đạn”. Nhưng các anh chị Tiếp Hiện đều nhỏ nhẹ nhưng cương quyết giải thích cho gia đình nên năm anh chị em Tiếp Hiện vẫn về chùa đầy đủ để tĩnh tu, trừ chị Mai. Tôi vẫn nghĩ: Chắc là hai bác ba má chị Mai cũng sợ như má tôi, mẹ chị Uyên hay một số cha mẹ các em TNPSXH khác nên có một số nhỏ, không dám cho con đi con đường này nữa. Ít có ai mà như ba của em Hy. Khi thấy quan tài bốn em nằm bốn cái song song, tôi rất khổ tâm, tự hỏi nếu mà gia đình các em Hy, Tuấn, Thơ, Lành vào thăm và bắt đền mình vì sao mà để cho con họ bị ám sát như vầy thì tôi biết ăn nói làm sao. Khi ba của em Hy từ Quảng Nam vào Sài Gòn thăm xác con, bác ôm quan tài mà khóc: “Ôi con ơi, con chết đi thì lấy ai đi phụng sự xã hội? Ba rất tiếc, ba không còn một đứa con trai nào hết để tiếp tục đi phụng sự xã hội thay cho con!” Tôi sững sờ chảy nước mắt muốn sụp lạy bác, ôi lý tưởng của chúng tôi nếu có một người như bác thôi cũng đủ đem nắng ấm và mây hồng cho mùa đông lạnh lẽo tình người này, tất cả chúng tôi thật ấm lòng và thêm lớn niềm tin. Còn má tôi hay mẹ chị Uyên thì chưa được như thế. Thấy chị Mai bỏ ngày tu hằng tuần, tuy không nói ra, nhưng trong lòng tôi không vui. Tôi nghĩ ba má chị Mai không cho chị về tu thì ít nhất chị cũng cho chúng tôi biết chứ. Ngày 13 tháng 05 năm 1967 là thứ bảy. Khi tôi đang ngồi yên trước cửa sổ phòng tĩnh tu, nhìn ra rừng – tôi đang thở thì chị Uyên gõ nhẹ vào cửa, báo tin chị Mai mới tới, chị Uyên reo to:

– Ui chao, chị Mai mặc áo tím có kim tuyến trông rất đẹp, tóc bới cao cài trâm như sắp đi dự lễ hội. Chị lại đem theo một mâm bánh chuối rất lớn để đãi mọi người.

Tôi bước ra khỏi phòng, cười liến thoắng:

– Lý do gì mà chị Mai bỏ đi tu ngày chánh niệm hai tuần liên tiếp, ý gì mà mặc áo đẹp, mà vấn tóc cao, mà đem bánh vào đãi mọi người? Chị Mai sắp báo tin có ai “chạm ngõ” phải không?

Các em TNPSXH ồ lên:

– Có thể lắm, có thể lắm.

Chị Mai chỉ im lặng và cười. Chị mời mọi người ăn bánh rồi hối hả đi thăm Lê Văn Vinh, xuống bếp thăm dì Tư, thăm từng em sinh viên. Xong, trước khi lên xe chị đến nắm tay tôi và nói:

– Thứ ba, Phật Đản, Phượng đến chùa Từ Nghiêm lúc bảy giờ nhé để dự lễ với chị Mai.

Tôi lại nhăn mặt hỏi:

– Lễ chi mà sớm vậy chị Mai? Với lại mình tu mỗi tuần một ngày tại Chùa Lá của mình là đủ rồi, em đâu có thì giờ để đi những lễ lượt Phật Đản đông đúc người ở chùa Từ Nghiêm.

Chị vẫn năn nỉ:

– Thôi mà, đi một chút với chị Mai mà, vui lắm, Phượng nhớ đi nghen!

Tôi lại bực, nghĩ tánh cũ của chị Mai vẫn thế, chị ưa làm gì, dù chúng tôi chẳng thích, cũng cứ kèo nài bắt làm theo cho bằng được, giống như việc bán gạo và bán xà bông. Tôi càu nhàu ra mặt:

– Thôi mà! Chị Mai đi chùa Từ Nghiêm dùm em, đừng bắt em đi, em đâu có thì giờ dự các lễ lượt đông đảo đó.

Chị nhìn em thật buồn và nói:

– Phượng không đi thì thôi, đừng quạu thế.

Và chị ra về. Tôi hơi mắc cỡ, định bụng thứ ba thế nào cũng gắng ghé qua chùa Từ Nghiêm cho chị vui, nhưng chiếc áo kim tuyến, chiếc bánh tặng mọi người khiến tôi hơi hờn nên sáng đó thứ ba ngày 16 tháng 5 năm 1967 là ngày Phật Đản tôi vẫn chưa muốn đi. Cho đến khi Ngọc, TNPSXH đến nhà tôi, báo tin chị Mai đã tự thiêu ở phía trước chánh điện chùa Từ Nghiêm, ở ngoài hành lang. Tôi sững sờ ngồi yên thật lâu, không nói được một lời. Bỗng tôi đứng dậy nói rất bình tĩnh: Chị Mai tự thiêu cho hòa bình rồi. Má tôi ngồi nghe im lặng rồi bỗng bật khóc thành tiếng: “Trời ơi sao nó bất hiếu vậy. Cha mẹ già còn đó mà nó làm như thế là nó giết mẹ giết cha“, má tôi vừa khóc vừa nhìn tôi. Tôi biết má tôi khóc và nói thế nhưng trong lòng không thật trách móc gì chị Mai đâu. Má tôi muốn nhắc khéo cô con gái nam nhi, chỉ biết ăn lý tưởng mà sống của má, có thể sẽ theo gót chị Mai. Tôi im lặng, mặc áo dài ra xe đi vì còn nhiều việc cần làm gấp. Nhưng tối hôm đó về nhà, tôi thuật cho má nghe chuyện chị Mai đề nghị mười đứa đi mười thành phố để mổ bụng và tôi đã bác bỏ như thế nào. Khi đó má tôi mới yên lòng.

Nhất Chi Mai tự thiêuThì ra sau cái chết của Thơ, Tuấn, Hy, Lành, khi tụng giới, chị đã quyết định thiêu thân cúng dường cho hòa bình và hai tuần liên tiếp là hai tuần chị muốn ở nhà chơi với ba má, dành cho cha mẹ những giờ phút êm đẹp nhất của người con hiếu thảo và cũng trong hai tuần chị lặng lẽ chuẩn bị cho sự hy sinh. Những bức thư để lại chị chép thành mười bộ, nhưng cảnh sát công an đã tịch thu hết. Bản duy nhất còn lại là bản của em Ngọc đem tới nhà cho tôi. Sau khi đọc xong tất cả những bức thư của chị, việc tôi làm đầu tiên là lấy xe hơi, lái đến nhà thăm hai bác ba má chị. Con đường vào nhà chị Mai thiên hạ đã nhốn nháo cả lên, nghe nói ai đó báo tin nên từ sáng đến giờ bác gái xỉu hai lần rồi. Khi tôi vừa bước vào nhà, hai bác đã ôm tôi và òa lên khóc to, tôi mời hai bác ra xe để chở đến chùa Từ Nghiêm. Đến nơi, hai bác vừa xuống xe, tôi nhờ các bạn đi tìm Mai Sa ra cho tôi gặp riêng, căn dặn bảo mật mấy bức thư của chị (hồi này ở Việt Nam chưa có máy photocopy) và nhờ em Mai Sa và Tài dịch ra Anh Văn. Xong tôi thấy cần phải đi ngay để báo tin sự hy sinh của chị cho hàng trăm hàng ngàn người được biết. Tôi đi thông tin cho các nhật báo lớn nhưng biết chắc là tất cả đều sẽ bị kiểm duyệt, tôi xin gặp cho được bác Nam Đình là chủ bút nhật báo Thần Chung để xin bác tìm mọi cách phổ biến.

Tôi không dám vào chùa. Tôi không dám đến gần để nhìn chị. Tôi tự nhủ là đáng lý xác tôi phải nằm kề bên chị mới phải. Tại sao tôi còn đây? Tôi đi tiếp xuống chợ Cầu Muối, tới tận sạp bán cau của cô Ba Tý, tới nắm tay cô Ba và nói: “Chị Mai của con tự thiêu cho hòa bình rồi cô Ba ơi, chị con chết rồi, ở chùa Từ Nghiêm”. Nói xong tôi mới oà ra khóc thành tiếng. Từ hồi sáng sớm đến bây giờ mắt tôi ráo hoảnh, như đông đá, khi bác gái má của chị xỉu, ba chị ôm tôi khóc, tôi cũng không có được một giọt nước mắt. Trong góc chợ tối tăm của sạp bán cau tôi oà ra khóc, ôm cô Ba Tý mà khóc như một đứa trẻ con. Cô Ba la hoảng lên: Trời ơi, thiệt không cháu? Cô Diệu Huỳnh đó hả cháu? Trời ơi (cô Ba khóc lớn). Thế là cả chợ xôn xao. Cô Ba Tý chỉ là một bạn tiểu thương bán cau nhưng cả chợ không ai là không kính nể cô Ba vì đức độ. Đêm hôm khuya khoắt, ai sốt, ai bị kinh phong, ai trúng gió, thiên hạ đều cầu cứu cô Ba. Cô có cái muỗng và chai dầu cạo gió để sẵn trong túi, cô không bao giờ từ chối giúp bất cứ ai. Ở chợ ai bị hoạn nạn, cô cũng kêu gọi chị em bạn hàng chung sức giúp. Vì thế khi cần gì chúng tôi chỉ cần đến thưa với cô Ba. Cô chỉ “hô “lên một tiếng là mọi người nghe theo. Trường TNPSXH cả năm nay sống sót là nhờ mỗi tuần nhận được hai xe cam nhông rau cải, su bắp, su hào, cải củ, khoai lang, dưa leo xà lách (loại bắt đầu héo, bán sỉ e khó ai chịu mua). Ba trăm anh em TNPSXH là khách hàng sử dụng đúng mức các thực phẩm không tốn tiền ấy. Cô Ba lau nước mắt và tiễn tôi ra đầu chợ, căn dặn: Con đi trước, cô Ba sẽ tới chùa liền. Cô đưa tay vẫy vài anh xe lam, xe ba bánh gắn máy đậu gần đó, nói nho nhỏ với họ vài tiếng là đã thấy họ nổ máy chở một số các vị anh chị của chợ Cầu Muối cùng với cô Ba lên đường đến chùa Từ Nghiêm thăm chị Mai. Mới đợt đầu mà đã có ít nhất năm chiếc xe lam, bảy chiếc xích lô máy sẵn sàng chở không công cho các vị có ảnh hưởng trong chợ. Mấy vị này vừa đi vừa khóc:

– Trời ơi ! Cô Út Diệu Huỳnh dễ thương lắm, tốt lắm! Tức quá!

– Trời ơi, sao đánh giặc làm chi mà đánh hoài cho cô Út cô phải tự thiêu để đòi hỏi hòa bình vậy nè!

Hàng nào trong chợ cũng đầy người quá cảm động khi nghe tin, họ thốt lên những câu tương tự như nhau :

– Trời ơi, con nhà giàu học giỏi như vậy mà người ta còn hy sinh cho hòa bình, mình là cá chốt lòng tong mà cũng sợ chết, sợ bị bắt không dám hy sinh sao?

Bác Thiếu Sơn, bác Nam Đình và vài người bạn lão thành đến thăm chị Mai lần chót trong chùa. Vừa thấy tôi, bác đến gần và chỉ kịp kêu: Cháu! Rồi hai giọt nước mắt lăn dài trên má. Bác lấy khăn lau rồi chẳng nói chi cả. Nhưng nhìn bác, nhìn những bậc đàn anh kỳ cựu yêu nước, cảm động trước cái chết của chị Mai tôi không lấy gì làm ngạc nhiên. Chuyện khiến tôi lạ lùng là cái bà chủ nhà in đã từ chối giúp tôi in những tài liệu chống chiến tranh cũng có tới lạy chị và khóc rồi đến nói nhỏ với tôi là từ đây khi cần in gì, cứ cho bà biết, bà sẽ lo! Có nhiều vị chức sắc trong chính quyền miền Nam cứ từ từ tìm cách liên lạc và muốn làm việc với mình, muốn giúp mình triệt để để chấm dứt chiến tranh huynh đệ tương tàn này. Chính các bạn đã ra đi biền biệt vào chiến khu cũng nhắn tin về, hỏi phải làm sao để họ tham gia việc thực hiện chấm dứt chiến tranh theo những điểm thầy mình kêu gọi và đề nghị ngưng chiến và Hoa Kỳ tuyên bố rút quân theo lịch trình có quốc tế chứng giám. Chừng đó tôi mới thấy rõ cái ”biện luận” của tôi “nếu chị Mai và tôi chết hết thì lấy ai mà lo cho cuộc vận động chấm dứt chiến tranh này” là sai. Thật ra nhờ sự hy sinh của chị Mai mà phong trào hòa bình lớn mạnh, không những trong nước mà ở cùng khắp thế giới. Tôi vẫn còn nhớ bài thơ mà chị Mai cứ đọc đi đọc lại mãi trong thời gian trước đó và chị cũng có thu thanh để lại giọng đọc bài thơ đó, bài thơ Dặn Dò của thầy chúng tôi, thầy Nhất Hạnh:

 

Dặn dò

Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng tôi có mặt trời

Và buổi trưa đứng bóng
Rằng không bao giờ em thù hận con người
Dù con người
Có đổ chụp lên đầu em
Cả ngọn núi hận thù
Tàn bạo
Dù con người
Giết em,
Dù con người
Dẫm lên mạng sống em
Như là dẫm lên giun dế
Dù con người móc mật moi gan em
Đày ải em vào hang sâu tủi nhục
Em cũng phải nhớ lời tôi căn dặn:
Kẻ thù chúng ta không phải con người.
Xứng đáng chỉ có tình xót thương
Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
Bởi không bao giờ
Oán hờn lên tiếng
Đối đáp được
Sự tàn bạo con người.
Có thể ngày mai
Trước khuôn mặt bạo tàn
Một mình em đối diện.
Hãy rót cái nhìn dịu hiền
Từ đôi mắt
Hãy can đảm
Dù không ai hay biết
Và nụ cười em
Hãy để nở
Trong cô đơn
Trong đau thương thống thiết
Những người yêu em
Dù lênh đênh
Qua ngàn trùng sinh diệt
Vẫn sẽ nhìn thấy em.
Tôi sẽ đi một mình
Đầu tôi cúi xuống
Tình yêu thương
Bỗng trở nên bất diệt
Đường xa
Và gập ghềnh muôn dặm
Nhưng hai vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn
Để soi bước cho tôi.

Trong cuộn băng nhựa thu âm để lại cho gia đình, chị Mai có đọc cho hai bác nghe bài thơ này và giải thích rất rõ. Tiếc là trong tập “Chết mới được ra lời”, hai bác không đưa cho cha Nguyễn Ngọc Lan ghi chép ra trọn và in chung với loạt thư để lại của chị. Thiên hạ lúc sau này có khuynh hướng cho bất bạo động là thụ động. Thật ra nếu chị đứng lên cầm súng, dù ở bên này hay bên kia, thì kết quả sẽ rất thấp so với lời kêu gọi từ con tim thương yêu của chị. Nhất Chi Mai đã làm cho phong trào hòa bình lớn nhanh như vũ bão. Ủy Ban ICCV (International Committee of Conscience on Vietnam hay Ủy Ban Lương Tâm Quốc Tế cho Việt Nam do thầy Nhất Hạnh và Alfred Hassler của Fellowship of Reconciliation thành lập hơn năm nay) đứng ra kêu gọi Campaign “Stop The Killing Now” và với những bức thư gửi gắm của chị, Ủy Ban đã gom được chín nghìn nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đồng ký tên, yêu cầu các bên ngưng chiến tức thì. Những lời kêu gọi này được đăng nguyên một trang lớn trong nhiều ngày trên các nhật báo New York Times, Los Angeles Times, International Herald Tribune, The Guardian và Le Monde v.v.., những nhật báo mà các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới đều phải đọc. Trong suốt ba ngày thi thể chị Mai nằm ở chùa Từ Nghiêm, tôi cứ tìm cách đi hoài, tôi không dám ngồi bên chị. Thấy chị T.H., em H. T. Hiệp và bao nhiêu bạn bè ngồi ôm chị bằng cách xoa xoa miếng vải vàng trùm thi thể chị tôi không dám tới gần. Đáng lẽ ra thi thể của tôi cũng nằm như thế trong một ngôi chùa ở Bến Tre, Mỹ Tho, Cần Thơ, Nha Trang, Huế, Hội An hay Quảng Trị… như chị Mai đề nghị. Nhưng tôi vẫn còn đây, vẫn còn sống, còn ăn, còn ngủ được sao? Các anh em TNPSXH tề tựu về rất đông và thay phiên nhau trực vì sợ chính quyền cho cướp xác chị. Ngay hồi chị mới tự thiêu, xe công an đã đến định chở thi hài chị đi nhưng các anh em TNPSXH cản ngăn, và công an vẫn cứ tiến tới. May thay lúc ấy ba má chị Mai vừa tới và ông cụ đã lớn tiếng đuổi họ để cho chị yên.

Nhất Chi Mai - New York TimeĐêm nào tôi cũng thức suốt, khi thì dịch bài với Mai Sa, khi thì biên thư cho từng đoàn thể Hòa Bình trên thế giới do Mai Sa giới thiệu, khi thì viết thư cho những báo chí có uy tín (Mai Sa tên thật la Masako Yamanouchi, người Nhật, tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ làm việc công tác thiện nguyện cho nhóm American Friends Service Committee tại Việt Nam, nhưng sang đây học tiếng Việt và muốn sống chết với trường TNPSXH). Tôi có nói chuyện với ký giả nhật báo New York Times (NYT) ngay chiều hôm ấy thì ngày 17 tháng 05 năm 1967 hình tôi hiện lên trên năm cột báo NYT và không cần chúng tôi điện thoại cho biết, thầy chúng tôi cũng biết ngay là Nhất Chi Mai đã tự thiêu.

Ngược lại tại Việt Nam ngày hôm sau tất cả các nhật báo có đăng tin tự thiêu của chị thì bị chính quyền cho bôi trắng nên ở Sài Gòn không phải ai cũng biết tin chị tự thiêu cho hòa bình. Tin chị hy sinh cho hòa bình chỉ được truyền miệng qua các nhóm tiểu thương chợ và các đoàn thể sinh viên học sinh Phật tử thôi, trong vòng hai hôm, vậy mà bữa đưa chị ra lò thiêu cũng có quá đông người tham dự. Xe tang đã ra đến tận cầu Phú Lâm mà đoàn người tiễn đưa vẫn còn rất đông trong chùa Từ Nghiêm. Tất cả các đoàn thể Sinh Viên Học Sinh, Hướng Đạo ở các phân khoa Đại Học đều có mặt, các đoàn thể tiểu thương tất cả các chợ trong vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân Định, Gia Định và Gò Vấp đều có mặt, các văn nghệ sĩ, những ký giả lão thành, các chính trị gia lão thành bên tả (thân chính quyền Hà Nội và khối cộng) hay bên hữu (thân Quốc Gia chống cộng và thân Hoa Kỳ) đều có mặt. Tôi hết sức ngạc nhiên là ngay cả những ông triệu phú xưa nay vẫn xầm xì chê thầy Nhất Hạnh là cộng sản hay “bị cộng sản giật dây”, những người giàu có đã quyết định ngưng không giúp học bổng cho TNPSXH từ khi thầy kêu gọi hòa bình, nay cũng có mặt.

Sau sự hy sinh này, số người thương TNPSXH lớn vô kể, khi trường TNPSXH gửi sáu em về Quảng Trị thì có đến 50 đến 100 các em Gia Đình Phật Tử tới công tác tự nguyện chung, tới Huế thì tiểu thương Phật tử, Phật tử các khuôn hội tới phụ làm công tác nơi nào mà TNPSXH có chương trình giúp đỡ đồng bào. Con số tác viên 300 người đợt đầu, 400 người đợt hai và những người thiện nguyện làm việc không nhận tiền túi, tới rất đông. Trong số tình nguyện viên ấy, ban điều hành TNPSXH đã chọn một số người có lý tưởng cao, đưa về trường đào tạo cấp tốc thành trợ tác viên. Con số tác viên và trợ tác viên cứ tăng mỗi ngày nhưng số tình nguyện viên không nhận tiền thù lao thì có khi lên đến hơn 9 nghìn người trên toàn quốc. Vào năm 1975 khi Chánh Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào Sài Gòn, họ ra lệnh TNPSXH phải đóng cửa, không cho sinh hoạt nữa.

 

Chết mới được ra lời

Tôi có một kỷ niệm dễ thương về thầy Trí Quang. Từ tháng 10 năm 1962, ngày tôi được thầy cho rất nhiều sách quý như Tự Điển Pali – Anh, Sanskrit – Anh, những cuốn của Louis La Vallée Poussin bằng tiếng Pháp, thầy kể cho tôi biết sự tàn tệ của các cán bộ Thiên chúa giáo đối với Phật tử ở miền Trung,... Nhưng chưa bao giờ tôi thấy được niềm xúc động của thầy như khi hay tin chị Mai tự thiêu cho hòa bình. Một giờ khuya hôm đầu, thầy đi bộ từ Ấn Quang sang Từ Nghiêm tụng kinh cho chị. Tối thứ hai, sau khi đọc những thư chị để lại, thầy cho xe hơi qua chùa Từ Nghiêm, xin quý ni sư cho phép chở tôi sang chùa Ấn Quang để thầy nhờ vài việc. Xe không tài xế nên Tài phải đưa tôi đi bộ sang. Đến phòng thầy, chúng tôi thấy thầy lay hoay với cái máy thu thanh dềnh dàng của thầy. Thầy nói: Cái băng của Nhất Chi Mai thu không được rõ. Thầy muốn thu một băng có người đọc trọn tất cả thư trối trăn của Nhất Chi Mai để thầy sẽ chêm vào đó những nhận xét về sự hy sinh này. Con giúp thầy, vì thầy cần một giọng đọc gần giống như giọng của Mai, giọng con gái, người miền Nam. Sáng sớm hôm sau thầy lại đi bộ sang chùa Từ Nghiêm tụng kinh cho chị trước linh cữu và lại gọi tôi đến: Con phải làm mọi cách để in những tài liệu trối trăn này thật nhiều và phổ biến thật sâu rộng. Thầy sẽ trả lại tiền giấy mực và công nhà in cho con. Hiện tại tuy thầy không có tiền, nhưng thầy có người em gái đi dạy học. Mỗi tháng nó có thể cho thầy 5.000 đồng và trong vòng bốn tháng chắc sẽ trả hết tiền công thợ in và giấy mực cho con! Hôm sau nữa thầy lại cho gọi tôi vào và nói: Cái nguyện của Mai là các tôn giáo làm việc chung cho hòa bình, thầy nghe nói ông linh mục Nguyễn Ngọc Lan là người công giáo tiến bộ và gần mình. Con thử đề nghị ông ấy viết bài tựa cho những bức thư của Mai đi. Không ngờ ngoài sức tưởng tượng của thầy, cha Lan trước đó đã tìm tới chúng tôi và tự đề nghị sẽ lãnh trách nhiệm đề tựa cho các bức thư của chị Mai. Linh mục lấy tựa cho cuốn sách từ một câu thơ của chị “Chết mới được ra lời” và linh mục hứa sẽ công khai nhận trách nhiệm trước pháp luật về chuyện in ấn này.

Đúng như nguyện ước của chị, các vị lãnh đạo trong Phật giáo và Công giáo đã từ từ đến gần với nhau hơn. Ký giả Nam Đình cứ tìm cách cho ra từng bài thơ của chị Mai, không nề hà hiểm nguy, coi nhẹ những can ngăn của ban biên tập là nhật báo Thần Chung có thể bị đóng cửa và sự nghiệp của bác sẽ suy sụp. Chính phủ cũng có thể viện cớ bác là cộng sản để tịch thu hết gia sản của bác.

Chị Mai ơi, em lội mòn cả giày trên các thành phố Rome, Venizia, Milan, Torino, Zürich, Bern, Lausanne, Genève, Paris, Bruxelles, Amsterdam, Utrecht, Groningen, Hagen, Bremen, Berlin, Bonn, Hamburg, London, Edingburg, Copenhague, Stockhom, Helsinki và gần 50 tiểu bang của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ New York, Washington DC, Chicago,… để nói rằng: Khi bạn muốn mua một món gì, bạn phải trả tiền, nhưng khi mà bạn muốn mua món quý giá nhất, quý cho đến nỗi bao nhiêu tiền cũng không mua được thì bạn chỉ còn có một thứ quý giá để trả cho món hàng đó, đó là sự sống của bạn. Bạn muốn mua sự hiểu biết của gia đình nhân loại để chấm dứt cuộc chiến tranh cho Việt Nam thì chỉ có cách đem thân làm đuốc mà thôi.

Em “nói” thì khi nào cũng chân thành và các bạn nghe, cảm động và thương lý tưởng chấm dứt chiến tranh của chúng ta ngày càng đông. Họ bỏ thì giờ, tình thương để tổ chức cho em đi gặp hết các giới trong quen biết của họ. Có người cho nguyên một tháng lương để mướn phòng cho em thuyết giảng. Mỗi ngày em phải bay đi một thành phố. Xuống phi cơ là họp báo, sau đó lên đài truyền hình và truyền thanh. Có những buổi truyền hình sống và em được nói trực tiếp qua điện thoại với khán giả. Trưa về ăn “working lunch” là vừa ăn trưa mà vừa làm việc thuyết pháp hay nghe người thuyết. Em không quen vừa ăn vừa nói nên chỉ chờ họ ăn xong mới nói, mà khi ăn xong thì họ có thể đi mất nên mình đành nhịn ăn để có dịp chia sẻ cái thấy của mình. Họ ăn xong thì cũng tới giờ em đi chia sẻ thuyết giảng tại trường Đại Học gần đó, năm giờ chiều lại gặp một nhóm đạo Kitô hay nhóm activists nào đó. Ăn chiều cho nhanh để tối lúc tám giờ sẽ được thuyết giảng nơi công cộng. Phần nhiều buổi chiều thì luôn luôn rất đông người tại vì họ đã thấy em nói trên truyền hình và radio ban sáng. Như vậy là mỗi ngày em làm việc sáu thời không bao giờ biết mệt. Em chỉ cảm thấy bất an là khi tối về, các bạn dành cho em một phòng ở khách sạn. Em thấy sao mà mình ở chỗ sang quá trong khi đồng bào chạy dưới đạn bom.

Trong chuyến hành hương cho hòa bình này, tôi chỉ có hành trang là hình ảnh chú Bảy, bị cháy nhà lần thứ tư, vợ và bảy con bị bom đạn chết hết. Chú ngồi nhìn vào khoảng không, không nói một lời; hình ảnh bà Ba mới 63 tuổi, nhưng da mặt nhăn nheo như người tám mươi, nước mắt ràn rụa trước sáu đứa cháu nội đang bịt khăn tang vì ba mẹ chúng đã chết tất cả. Và hình ảnh cháu bé bê bết máu ở Khương Bình bên bờ sông Thu Bồn mà tôi không cứu sống được.

Tôi phải sống và phải chết với những hình ảnh này của đất nước cho đến ngày nào môi của bé thơ lại được hát ca cho quê hương hòa bình.